Bài viết của Arnaud H
[MINH HUỆ 07-06-2021] (Tiếp theo Phần 3)
Tôn giáo và triết học
Các tôn giáo Hy Lạp cổ đại có liên quan chặt chẽ đến Thần thoại, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau, bởi vì các tôn giáo thường chọn những phần có ý nghĩa giáo huấn của Thần thoại và văn hóa để giảng dạy cho con người. Nói một cách chính xác, con người thời đó đều tin vào Chúa nên thời đó không có thuật ngữ “tôn giáo”, cũng không có khái niệm của người hiện đại đối với tôn giáo. Tuy nhiên, để tiện cho việc diễn đạt về mặt ngôn ngữ, giới học thuật dùng từ “tôn giáo”.
Đôi khi, chúng ta cũng có thể bắt gặp một từ khác, đó là “triết học”. Tác giả đã đề cập trong cuốn “Từ một giai đoạn lịch sử nghệ thuật thấy được sự thay đổi của tư tưởng nhân loại – Phần 2” rằng, triết học Hy Lạp cổ đại đương thời không phải là kiến thức mà ngày nay mọi người nghĩ, mà nó giống như một số môn phái tu luyện và phương pháp tu luyện. Cũng có một số học giả hiện đại so sánh với các phương pháp tu hành mà Đức Phật Thích Ca và Lão Tử đã dạy, không có nhiều sự khác biệt giữa triết học và tôn giáo cổ đại, và quan điểm này cũng có giá trị về mặt học thuật.
Lấy tư tưởng Pythagoras làm ví dụ đơn giản. Bởi vì, hiện nay người ta xếp Pythagoras là một nhà triết học, nhiều người cho rằng tư tưởng Pythagoras là một trường phái triết học về học thuật. Nhưng vì lý luận của Pythagoras có chứa đựng rất nhiều quan điểm tôn giáo và Thần học, nên khi giới học thuật nói về tôn giáo Hy Lạp, trường phái triết học này lại được quy về tôn giáo.
Thần thoại và truyền thuyết Hy Lạp thường tập trung vào kể chuyện và giải trí, vì những người phàm phu tục tử thiếu trí tuệ quen tạo ra các câu chuyện theo logic của con người để đọc giả thấy hứng thú. Trong cốt truyện, các nhà văn đã nhân tính hóa, nhân vị hóa, và thậm chí là tà ác hóa các vị Thần. Vào thời đó, một số triết gia và một số giáo phái ở thời kỳ khá cao thượng đó không quá quan tâm đến việc bịa ra những câu chuyện này. Lối vào đền thờ Apollo ở Delphi được khắc ba phương châm nổi tiếng: “Hãy nhận thức chính mình”, “Bất kỳ việc gì cũng không quá mức” và “Bừa bãi thề thì tai họa sẽ ập đến”, điều này cho thấy tôn giáo và Thần thoại đều có lời dạy khác nhau.
Tất nhiên, cũng có nhiều tác động tiêu cực, chẳng hạn như Lễ huyền bí của người Eleusis yêu cầu kể những câu chuyện cười khiêu dâm, và tại một nghi lễ nào đó thường sẽ giao tiếp với nhau bằng những lời lẽ thô tục, v.v. Đặc biệt là thời kỳ sau này, khi đạo đức dân chúng băng hoại, các ngành các nghề đều hỗn loạn, chẳng hạn như tình trạng dâm loạn tràn lan ở Đền Thần Tình Yêu được ghi lại trong lịch sử, nên tôi sẽ không nói nhiều.
Kiến trúc sư người Pháp Joseph Albert Tournaire phục dựng Đền thờ Apollo ở Delphi dựa trên các di tích, được vẽ vào năm 1894. (Hình ảnh trên mạng)
Một đặc điểm khác của tôn giáo Hy Lạp cổ đại là rất coi trọng sự khải thị từ những lời dạy của Thần (Oracle). Bất kể họ là người cai trị hay người bình thường, khi họ gặp những sự kiện quan trọng hoặc những vấn đề khó khăn, họ sẽ đến nơi Thánh địa (thường là đến các ngôi đền của các vị Thần khác nhau) để tìm kiếm sự khải thị, và nếu vị Thần chấp nhận lễ bái thì sẽ giáng lời Thần dụ để giải đáp. Mọi người sẽ thông qua viên tế tư hoặc lời tiên tri của người chuyên trách trong ngôi đền chuyển dịch lại theo thể văn vần, thơ ca cho người đi cầu nguyện. Theo ghi chép, lời Thần dụ của Thần Apollo ở đền Delphi được chứng minh là linh nghiệm và chính xác nhất, vì vậy đã trở thành một trung tâm tín ngưỡng cực kỳ quan trọng ở Hy Lạp cổ đại kể từ thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên.
Khi Thánh Socrates còn sống, lời Thần dụ ở đền Delphi đã nói rõ: “Không có người nào có trí huệ hơn Socrates”. Tuy nhiên, sự đánh giá phi phàm của lời Thần dụ đã làm dấy lên rất nhiều sự ghen tị. Một loạt các sự kiện dẫn đến việc Socrates bị buộc tội một cách không cần thiết vì không tôn trọng các vị Thần và mê hoặc những người trẻ tuổi, bị kết án tử hình sau cuộc bỏ phiếu của một bồi thẩm đoàn gồm 500 người.
Tượng Socrates trước Học viện Athens. Tác phẩm của Leonidas Drosis và Attilio Picarelli. (Hình ảnh trên mạng)
Trong thời đại mà tất cả mọi người đều tin vào Chúa, các thành viên của bồi thẩm đoàn và những người ghen ghét, căm ghét Socrates một cách vô lý đều tin vào sự tồn tại của các vị Thần, nhưng điều này không thay đổi sự thật rằng họ đã giết Thánh nhân với danh nghĩa tôn thờ các vị Thần.
Chuyện các Thánh đồ bị trừng phạt vì ham muốn ích kỷ không phải là chuyện lạ. Câu chuyện nổi tiếng nhất phương Tây là câu chuyện vua Herod tàn sát trẻ sơ sinh được ghi trong Kinh Thánh: Vua Herod nghe tin xuất hiện thiên tượng vị vua mới của người Do Thái giáng sinh, thì coi đó là mối đe dọa, vì vậy ông cử người đi tìm. Tuy nhiên, những người được sai đi tìm đó được các Thiên Thần nhắc nhở, thế là họ bỏ trốn mà không quay lại báo cáo với vua Herod. Vua Herod không tìm thấy Chúa Giê-su nên đã ra lệnh thảm sát tất cả trẻ sơ sinh nhỏ hơn hai tuổi tại Bethlehem, quê hương của Chúa Giê-su.
Những ví dụ như vậy không thiếu trong thời cổ đại và hiện đại, cả phương Đông lẫn phương Tây. Những người nắm quyền vì họ tin rằng có một vị vua được sinh ra trên thế gian liền tàn sát bừa bãi, hoặc thông qua giải nghĩa những lời tiên tri để xem ai là hoàng đế trong tương lai mà giết chóc. Trong lịch sử, trong các chức sắc tôn giáo như các giám mục, sư trụ trì và các linh mục, đều không thiếu những kẻ tham lam và bại hoại, nhưng nhiều người trong số họ thực sự tin vào sự tồn tại của các vị Thần. Ở Trung Quốc với học thuyết vô Thần, nhưng có nhiều quan chức tham nhũng tin vào phong thủy và những thứ khác được coi là “mê tín”, nhưng tin vào những điều này không có nghĩa là họ sẽ không tham nhũng, hủ bại.
Nhiều ví dụ đều chỉ ra một vấn đề: nếu một người không nỗ lực để cải thiện đạo đức và tâm tính của mình, cho dù họ tin vào sự tồn tại của Thần, thì cũng không có nghĩa là họ thành người đạo đức cao thượng. Đạo đức không phải là một khái niệm có thể được đánh giá đơn giản bằng cách tin vào sự tồn tại hay không tồn tại của thứ gì đó, mà nó liên quan đến các quy tắc ứng xử và chuẩn mực của con người, cũng như tổng thể các phương diện đối nhân xử thế xuyên suốt của con người như phẩm hạnh, quan niệm, tâm cảnh. Nói đúng ra, nếu một người tin vào sự tồn tại của Thần mà bỏ qua những yêu cầu của Thần đối với đạo đức phẩm chất của con người, thì loại “tín” này giống như thật mà thật ra là giả , thậm chí là biến dị, không phải là tín chân chính.
Các nhà hiền triết cổ đại đều là những người coi trọng đạo đức và tu dưỡng tâm tính, điều này khác biệt rất lớn với việc ngày nay coi kiến thức và kỹ thuật bề ngoài là thước đo giá trị của con người. Ví dụ, chẳng hạn như Thales (Thales of Miletus) (khoảng 624 TCN-548/545 TCN), một trong “bảy nhà hiền triết của Hy Lạp cổ đại”, người hiện đại chỉ đánh giá mức độ thông thạo của ông về thiên văn và địa lý và cách đi tiên phong trong trường phái Milesia, ông được coi là nhà triết học đầu tiên để lại tên tuổi trong lịch sử phương Tây. Nhưng thực ra, những gì ông làm là để giáo hóa đạo đức công chúng. Những thứ mà ông nắm bắt được không phải là kiến thức khoa học, mà nói là siêu năng lực thì đúng hơn.
Theo cuốn sách “Lịch sử” (Histories) do Herodotus biên soạn vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Đại hiền triết Thales đã dự đoán chính xác nhật thực toàn phần vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN. Trong cuốn sách “Politics” (Chính trị) của Aristotle kể về câu chuyện Thales dự đoán một vụ thu hoạch ô liu bội thu vào mùa đông năm tới. Người hiện đại đã quen gán cho những dự đoán chính xác này là do kiến thức khoa học phong phú của Thales, vốn đã được tính toán và phán đoán cẩn thận, thậm chí người hiện đại còn gọi ông là “cha đẻ của khoa học”. Nhưng tại sao không nghĩ, làm thế nào một người cổ đại có thể làm được điều này vào 2600 năm trước khi mà không có sự hỗ trợ về mặt thiết bị nào và khoa học thời đó cực kỳ kém phát triển?
Thay vì, buộc chặt những việc làm này với quan niệm của khoa học, tốt hơn hết nên thẳng thắn thừa nhận nó có mang đặc trưng dự ngôn tiên tri, trên thực tế, đó cũng là để giáo hóa nhân tâm. Lấy nội dung được Aristotle mô tả làm ví dụ: Công việc của nhà hiền triết vĩ đại Thales ở thế tục làm kinh doanh, nhưng vì ông đã đầu tư nhiều tiền bạc và thời gian vào việc tìm kiếm chân lý và nghiên cứu triết học nên ông ngày càng nghèo hơn dẫn đến nhiều người chỉ trích rằng triết học là vô ích. Để đảo ngược nhận thức của mọi người, Thales đã dự đoán một vụ thu hoạch ô liu bội thu vào mùa đông năm tới, đồng thời độc quyền và cho thuê các nhà máy dầu ở Miletus và Chios với chi phí rất thấp. Bởi vì, không có sự cạnh tranh, ông đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách cho thuê nhà máy dầu trong năm thứ hai. Aristotle nói rằng, Thales đã chứng minh rằng “chỉ cần các triết gia có ý muốn, thì rất dễ dàng trở nên giàu có, nhưng đây không phải là mục tiêu theo đuổi của họ.”
(Còn tiếp)
(Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên Minghui.org đều thuộc bản quyền của trang Minh Huệ. Khi sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, vui lòng ghi lại tiêu đề gốc và đường link URL, cũng như dẫn nguồn Minghui.org)
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2021/6/7/混乱的神话与传统的哲思(4)-426402.html
Đăng ngày 30-06-2021; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.