Bài viết của Đạo Sinh

[MINH HUỆ 10-7-2017]

1. Truy tìm nguồn gốc

“Nhạc” là một bộ phận có lịch sử lâu đời nhất trong nền văn hóa Trung Hoa. Theo các ghi chép văn hiến thời thượng cổ, thuở ban đầu của nền văn minh Trung Hoa coi trọng lễ nhạc giáo hóa, lễ nhạc là một trong những nguồn cội của văn minh, xuyên suốt từ đầu đến cuối trong nền văn minh Trung Hoa, có tác dụng vô cùng quan trọng.

Vậy “Nhạc” là gì? Thời cổ, “Nhạc” không phải là âm nhạc ý nghĩa hẹp mà chúng ta hiểu ngày hôm nay, mà nó bao gồm nội dung 3 phương diện thơ từ, âm nhạc, vũ đạo, nội hàm rất to lớn tinh tế và sâu sắc.

Ví dụ hiện nay chúng ta biết, tập thơ lâu đời nhất của Trung Quốc là “Kinh Thi”, trong đó lưu truyền đều là thơ thể cổ, tổng cộng hơn 300 bài. Thực ra thời thượng cổ, toàn bộ thơ trong “Kinh Thi” là dùng để hát, diễn tấu, nó giống như Tống từ và Nguyên khúc vậy. Thực ra những bài thơ đó không chỉ dùng để hát, nó còn thường kèm theo vũ đạo, có thể mang theo lời ca, mang theo điệu múa. Ví dụ khi diễn tấu “Chu tụng – Duy thanh”, thường phải nhảy múa vũ điệu “Tượng vũ”. Chỉ là khúc điệu và vũ đạo đều đã bị thất truyền trong lịch sử, ngày nay chỉ còn lưu truyền lại văn tự lời thơ mà thôi.

Không chỉ Trung Quốc, ở nền văn minh Hy Lạp cổ – cái nôi của văn minh phương Tây, cũng là thơ ca, âm nhạc và vũ đạo là một thể thống nhất, không thể tách rời. Cùng với sự ra đời của thơ ca, thì khúc điệu cũng ra đời, những nhà thơ du ca vừa tấu nhạc vừa hát ngâm, đồng thời vũ đạo cũng sinh ra cùng.

“Mao thi tự” là lời tựa người xưa làm cho “Kinh Thi”, trong đó có câu thế này: “Tình cảm trong lòng nảy sinh, cảm kích, không thể nén nổi, bèn thông qua ngôn ngữ biểu đạt. Nếu ngôn ngữ không đủ biểu đạt tình cảm, thì sẽ nảy sinh suýt xoa than thở. Khi suýt xoa than thở vẫn chưa đủ biểu đạt tình cảm thì kéo dài giọng mà hát lên. Khi hát lên vẫn không đủ biểu đạt tình cảm thì tay múa chân nhảy, nhảy múa tung tăng”. (1)

Câu này đã nói lên quan hệ tương hỗ giữa thơ ca, âm nhạc và vũ đạo. Thời cổ thơ ca, âm nhạc và vũ đạo ba lĩnh vực là một thể thống nhất, trong thơ có nhạc, trong nhạc có múa, trong múa có thơ, ba hợp một, gọi chung là “Nhạc”, hoặc gọi là “Nhạc vũ”. Đây chính là phạm vi mà nhạc cổ bao hàm, cũng là bài viết này muốn tìm hiểu và thảo luận.

Muốn hiểu thực sự việc này, thì trước tiên phải tìm về đầu nguồn của nó. Vậy “Nhạc” sinh ra sớm nhất là khi nào?

Vấn đề này hiện nay không thể nào khảo chứng được, chỉ biết rằng thời kỳ văn minh tiền sử xa xôi đã có nhạc rồi.

Dân tộc Trung Hoa là một trong những dân tộc có lịch sử lâu đời nhất trong nền văn minh nhân loại lần này, có trên 5.000 năm lịch sử, khởi đầu từ thời kỳ Ngũ Đế, thủy tổ là Hoàng Đế. Nhưng căn cứ các ghi chép văn hiến thời thượng cổ, trước thời Hoàng Đế, vẫn còn có thời kỳ Tam Hoàng, đã trải qua rất nhiều thời đại do các đế vương thời viễn cổ thống trị, những thời này đều quy về thời kỳ văn minh tiền sử.

Người xưa đã từng đem văn minh tiền sử mà họ biết, theo trình tự thời gian chia thành “10 kỷ”. “Xuân Thu vỹ” có chép: Bắt đầu từ thời kỳ Thái Hoàng Thị thời viễn cổ đến năm thứ 14 Lỗ Ai Công (năm 481 trước Công nguyên), tổng cộng trải qua 10 kỷ, trải dài 3.267.000 năm.

Có thể mỗi một kỷ là một lần luân hồi của nền văn minh nhân loại. Ngày nay trên trái đất lần lượt phát hiện ra các di tích hoặc hóa thạch các nền văn minh cách đây mấy trăm nghìn, mấy triệu thậm chí mấy chục triệu năm đã làm các nhà khảo cổ sửng sốt. Còn có các ẩn đố đại lục Mu phát triển cao độ đã bị hủy diệt trên một vạn năm trước, nền văn minh Atlantis… Các nền văn hóa tiền sử viễn cổ này đều đã từng tồn tại trên trái đất, nhưng cuối cùng đều bị hủy diệt trong các đại kiếp nạn, sau khi trải qua những năm tháng dài dằng dặc thì dường như không còn lưu lại dấu tích gì. Nhưng trong mỗi lần đại kiếp nạn đều có rất ít người may mắn sống sót, sinh sôi phát triển trở thành nhân loại lần này, như gia đình Noah may mắn sống sót sau đại hồng thủy Noah. Họ dần dần lại phát triển thành nền văn minh mới, đồng thời cũng kế thừa rất ít nền văn minh tiền sử đem vào trong nền văn minh lần này. Như Chu dịch, Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, Âm dương ngũ hành v.v.. đều là những di sản văn minh tiền sử ở các thời kỳ khác nhau, trải qua nhiều lần kiếp nạn được lưu lại đến ngày nay, do đó vượt xa nhận thức khoa học hiện đại, nhân loại hiện đại dù thế nào chăng nữa cũng không nghiên cứu rõ được. Nhạc vũ cũng như vậy, cũng là từ thời kỳ nền văn minh tiền sử xa xưa lưu truyền lại, là “hóa thạch sống” của nền văn minh tiền sử.

Từ năm 1984 đến 2001, tại di chỉ Giả Hồ ở Vũ Dương, Hà Nam khai quật được hơn 30 cây sáo xương được chế tạo từ xương tiên hạc. Theo khảo sát, những cây sáo xương này cách đây 7.800 – 9.000 năm bị chôn vùi trong đất. Qua thử nghiệm cho thấy, những cây sáo xương này có hai âm vực quãng tám, hơn nữa các nốt bán âm trong âm vực đều đầy đủ, không những có thể diễn tấu nhạc phủ ngũ âm hoặc 7 thanh điệu truyền thống, mà còn có thể diễn tấu được các nhạc khúc các dân tộc thiểu số nhiều biến âm hoặc nhạc ngoại quốc, các âm giai của nó cấu thành hết sức khoa học, hoàn chỉnh đầy đủ. Điều đó chứng minh, trên 8.000 năm trước, dân tộc Trung Hoa đã có tri thức lý luận âm nhạc rất tiên tiến và hoàn chỉnh, điều này vượt xa lịch sử văn minh nhân loại lần này của chúng ta. Điều này cũng chứng minh nhạc phủ Trung Hoa trong thời văn minh tiền sử xa xưa đã ra đời rồi.

Theo văn hiến thượng cổ ghi chép, trong thời kỳ Tam Hoàng tiền sử, ông Phục Hy đã phát minh ra loại nhạc cụ Đàn sắt, đồng thời sáng tác các nhạc vũ “Lập cơ”, “Giá biện” v.v.. Bà Nữ Oa đã phát minh ra khèn, đồng thời thống nhất thanh luật thiên hạ, đã sáng tác bài nhạc vũ “Phù lê”. Ngoài ra còn có đàn sắt ngũ huyền của ông Chu Tương, nhạc vũ “Bát khuyết” của ông Cát Thiên v.v.. Những nhạc vũ viễn cổ còn được ghi chép lại này, có khả năng đã trải qua mấy lần văn minh nhân loại, tuy đã thất truyền từ lâu, nhưng lại là dấu ấn viễn cổ chìm lắng trong sâu thẳm ký ức nhân loại.

2. Nội hàm

“Nhạc” có lịch sử xa xưa đến như thế, vậy nhạc ra đời như thế nào, nội hàm và tác dụng của nó là gì? Dưới đây, từ những văn hiến thượng cổ tìm được, từng bước tìm hiểu về thời kỳ tiền sử.

“Thế bản – Đế hệ thiên” ghi chép: “Bà Nữ Oa lệnh cho hai thuộc hạ là Nga Lăng Thị và Thánh Thị phát minh ra hai loại nhạc cụ “Sáo Đô Lương” và “Sáo Ban”, đã thống nhất âm luật thiên hạ, đồng thời phỏng theo quy luật vận hành mặt trời, mặt trăng, và các vì sao trong vũ trụ, đối ứng tương hợp với chúng, sáng tác ra nhạc vũ “Sung nhạc”. Sau khi nhạc vũ được phổ thành, hóa vật vô thanh, vạn vật trong thiên hạ không cái gì không đồng hóa với đại đạo từ những chỗ nhỏ bé nhất, tất cả đều hài hòa có trật tự”. (2)

Ở trên là bối cảnh và quá trình sáng tác của “Sung nhạc”. Từ đoạn ghi chép này có thể thấy, Nhạc vũ của bà Nữ Oa là hiệu theo phép của vũ trụ tự nhiên, đối ứng quy luật vận hành của thiên đạo mà sáng tác ra. Tác dụng của nó là từ tầng sâu và vi quan của vạn vật hóa dục vạn vật, làm cho tất cả hài hòa với tự nhiên, thuận ứng với thiên đạo, làm thiên hạ thái bình thịnh trị.

Trong “Lã Thị Xuân Thu” có viết: “Vào thời tiền sử ông Chu Tương trị vì thiên hạ, thường xuyên có gió lớn, dương khí tụ tập kết thành, làm cho âm dương không điều hòa, do đó vạn vật điêu tàn, hoa quả không chín. Thế là đại thần của ông Chu Tương là Sỹ Đạt đã sáng tạo ra đàn sắt ngũ căn huyền, dùng để diễn tấu, dẫn âm khí đến, an định chúng sinh thiên hạ.” (3)

Lại có chép: Khi ông Âm Khang thời viễn cổ trị vì thiên hạ, âm khí quá thịnh, tụ tập ngưng trệ, dương khí bị tắc, không vận hành theo quy luật bình thường, làm cho tinh thần nhân dân u uất mà không thư thái, gân cốt teo co lại mà không khỏe mạnh, thế là ông Âm Khang sáng tác ra vũ đạo để tăng cường khai thông dẫn đạo. (4)

Căn cứ theo hai đoạn ghi chép trên có thể thấy, thời kỳ viễn cổ, khi tình huống âm dương không điều hòa, vạn vật lệch khỏi đại đạo, phép tắc tự nhiên bị phá hoại, thì sáng tác ra nhạc vũ để cân bằng âm dương, khai thông dẫn đạo vạn vật, làm cho tự nhiên trở về trạng thái hài hòa, làm cho thiên hạ lại trở về với đại đạo.

Có thể thấy thời kỳ viễn cổ, nhạc vũ đã có đủ năng lượng siêu nhiên, đến thời kỳ Ngũ Đế của văn minh nhân loại lần này, năng lượng thần kỳ này trong nhạc vũ vẫn còn vô cùng rõ rệt.

Thời kỳ Hoàng Đế đã sáng tạo ra nhạc vũ loại lớn “Vân môn đại quyển”, dùng để tế Trời. “Vân môn đại quyển” của Hoàng Đế và “Đại hàm” của Nghiêu Đế, “Đại thiều” của Thuấn Đế, “Đại hạ” của Đại Vũ, “Đại hoạch” của Thương Thang, “Đại vũ” của Chu Vũ là 6 bài nhạc vũ nổi tiếng thời thượng cổ, trong “Chu Lễ” gọi chúng là “Lục đại nhạc vũ”. Con em quý tộc đời Chu đến tuổi nhất định đều phải học 6 bài nhạc vũ này, là môn học bắt buộc, nếu không, họ sẽ không thể bước vào xã hội được. Thời nhà Chu còn lập riêng cơ cấu giáo dục lớn cấp quốc gia là “Đại tư nhạc” để dạy những bài nhạc vũ này. Lục đại nhạc vũ dùng để thờ tế, “Vân môn đại quyển” tế trời, “Đại hàm” tế đất, “Đại thiều” tế tứ vọng, “Đại hạ tế núi sông, “Đại hoạch” cúng bà tổ tiên, “Đại vũ” cúng ông tổ tiên. (5)

Hoàng Đế còn sáng tác thần khúc thượng cổ “Hoa tư dẫn” và “Thanh giác”. Tương truyền Hoàng Đế trong mộng đã thần du cố hương nơi sinh của vua Phục Hy là Hoa Tu thần quốc, ngộ được đại đạo trị quốc dưỡng thân, trải qua 28 năm nỗ lực, đã trị vì thiên hạ thành quốc gia nửa thần nửa nhân bèn sáng tác “Hoa tư dẫn” để kỷ niệm, đây là lai lịch của “Hoa tư dẫn”.

Trong “Hàn Phi Tử” có chép: Hoàng Đế đã triệu tập đại hội quỷ thần ở Tây Thái Sơn, ông cưỡi xe voi do 6 con rồng kéo, hai bên trái, phải của xe có một con thần điểu Tất Phương đứng, Phong Bá làm phép dọn sạch đường cho ông, Vũ Soái giáng hạ cam lộ tẩy rửa bụi, hổ, sói ở phía trước mở đường, quỷ thần phía sau hộ giá, rắn bay phục trên đất để tỏ lòng cung kính, phượng hoàng bay lượn tròn trên không che chắn kiệu dương cho ông. Sau khi Hoàng Đế triệu tập đại hội quỷ thần, liền sáng tác ra “Thanh giác” để làm kỷ niệm, đây là lai lịch của “Thanh giác”. Tương truyền “Thanh giác” có thể câu thông với thiên địa, hiệu lệnh quỷ thần, khi diễn tấu có thể dẫn tiên hạc và phượng hoàng bay đến, rợp trời rợp đất, bay lượn nhảy múa. (6)

Sử sách có chép, thời Xuân Thu, Tấn Bình Công ép lệnh cho Sư Khoáng đàn tấu “Thanh giác”, gây ra trận cuồng phong, bay hết ngói cung điện, làm cho nước Tấn chịu đại hạn 3 năm, ngàn dặm đất trơ trọi. Do đó “Thanh giác” không thể tùy tiện diễn tấu được, cũng không phải là người bình thường có thể thưởng thức, sức mạnh chứa đựng đằng sau nó quá ư là to lớn, nếu không phải bậc đại đức, người bình thường không chế ngự nổi sẽ đem đến tai họa.

Trên đây là nhạc của Hoàng Đế, tiếp theo chúng ta hãy xem nhạc vũ khác thời Ngũ Đế.

Trong “Lã Thị xuân thu” có chép: Khi Đế Khốc tại vị, lệnh cho Hàm Hắc sáng tác mấy bài nhạc vũ “Cửu chiêu”, “Lục liệt”, “Lục anh”. Lại có một người tên là Thùy đã phát minh ra nhiều loại nhạc cụ. Đế Khốc bèn sai người dùng các nhạc cũ này diễn tấu, biểu diễn những bài nhạc vũ này, đã dẫn được các loài chim thần như phượng hoàng, gà trời v.v.. bay đến, nhảy múa bay lượn theo điệu nhạc. Đế Khốc mừng lắm, bèn dùng các bài nhạc vũ này để tế trời, ca tụng ân đức của Thiên đế. (7)

Trong “Lã Thị xuân thu” còn ghi chép: Thời vua Nghiêu, bổ nhiệm Chất làm Nhạc quan, Chất mô phỏng âm thanh tự nhiên của núi rừng, suối, hang, đã sáng tạo ra nhạc vũ “Đại chương”. “Đại chương” còn có tên là “Đại hàm”, là một trong Lục đại nhạc vũ được nói đến ở trên, dùng để tế đất. Khi diễn tấu bài nhạc vũ này, trăm loài thú đều nhảy múa theo, vạn vật tự nhiên đều chung sống hài hòa. (8)

Ngoài ra trong các thư tịch cổ như “Thượng thư – Cao đào mô” và “Đế vương thế kỷ” v.v.. đều có ghi chép việc này: Thuấn sai người sáng tác bài nhạc vũ “Đại thiều” này. “Đại thiều” cũng là một trong Lục đại nhạc vũ, tương truyền “Đại thiều” tổng cộng có 9 chương, cũng được gọi là “Cửu thiều”, “Tiêu thiều”. Thuấn sai người diễn tấu nhạc vũ “Đại thiều”, sau khi diễn tấu xong 9 chương, có phượng hoàng đến chầu bái, nhảy múa, trăm loài thú cũng nhảy múa theo. (9)

Gần hai nghìn năm sau, Khổng Tử lúc ở nước Tề có may mắn được thưởng thức nhạc vũ “Đại thiều”. Sau khi thưởng thức xong thì lòng khoan khoái ngây người ra, miệng không còn biết vị, ba tháng ròng ăn thịt không thấy mùi vị, thì cảm động than rằng: “Không ngờ nhạc lại có thể đạt đến cảnh giới cao siêu kỳ diệu như thế này!” Đây chính là điển cố “Ba tháng không biết mùi vị thịt” được ghi chép trong “Luận Ngữ”. Do đó Khổng Tử đánh giá rằng: “Nhạc “Đại thiều” tận thiện tận mỹ vậy.” (10) Đây cũng là nguồn gốc của câu thành ngữ “Tận thiện tận mỹ”.

Có thể thấy thời kỳ Ngũ Đế, sức mạnh mà nhạc vũ chứa đựng vẫn còn vô cùng to lớn mạnh mẽ, có thể trực tiếp triển hiện thần tích, có thể hiệu lệnh quỷ thần, có thể dẫn đến sự cộng hưởng của thiên nhiên, gọi chim tiên thú lạ đến, làm trăm loài thú nghe thấy âm thanh mà nhảy múa, làm cho thiên hạ hài hòa yên ổn.

Thực ra những thần tích mà nhạc vũ triển hiện ra, trong quá trình phát triển của lịch sử thì vẫn luôn tồn tại, mãi cho đến ngày nay. Chỉ là càng về sau, cùng với sự phát triển của nền văn minh vật chất của nhân loại, cùng với việc nhân loại không ngừng bị dục vọng và chấp trước trói buộc, năng lượng tinh thần càng ngày càng thoái hóa, sự triển hiện của thần tích càng ngày càng ẩn che, không biểu hiện ra trực tiếp và mạnh mẽ như thời thượng cổ. Nhưng chỉ cần dụng tâm phát hiện, thì vẫn có thể cảm ứng được thần lực viễn cổ ẩn chìm nơi sâu thẳm phía sau nhạc…

3. Hiệu quả thần kỳ

Trong chương này, chúng ta cùng phát hiện thần lực viễn cổ ẩn chìm nơi sâu thẳm phía sau nhạc.

Khi thực vật gặp âm nhạc

Năm 1950, nhà sinh vật học nước Anh Julian Sorell Huxley đến bang Tamil Ấn Độ thăm tiến sỹ T.C. Singh, chủ nhiệm khoa Thực vật của trường đại học Annamalai. Được biết tiến sỹ Singh dùng kính hiển vi quan sát sự lưu động của tế bào sống của rong mái chèo, Huxley vì vậy nói hay là có thể nhờ quan sát này để xem thực vật có chịu ảnh hưởng của âm thanh hay không.

Trợ lý của Singh là Stella Ponniah là một phụ nữ tinh thông đàn violin, sau đó Singh chỉ thị cho cô ấy kéo violin ở gần chỗ rong mái chèo. Kết quả phát hiện ra tốc độ lưu động của tế bào rong mái chèo tăng nhanh. Singh lại nghĩ đến miền Nam Ấn Độ có một ca khúc cầu khấn thần có tên là “Laga”, khúc điệu của ca khúc đó làm cho người nghe nảy sinh lòng thành kính, do đó, ông mời Ponniah diễn tấu giai điệu của “Laga” cho cây xấu hổ nghe. Sau hai tuần, phát hiện thấy số lượng khí khổng trong diện tích đơn nguyên của cấy xấu hổ tăng 66%, thành biểu bì trở nên dày, tế bào tầng palisade thậm chí mở rộng ra một nửa.

Sau đó, Singh lại mời Gouri Kumari giảng viên học viện âm nhạc Annamalai diễn tấu khúc Laga thực vật họ hoa phụng tiên nghe, mỗi ngày diễn tấu 25 phút, đến tuần thứ 5, phụng tiên được thí nghiệm đã vượt rõ rệt nhóm không được nghe nhạc, kết quả thống kê hiển thị, phiến lá trung bình sinh trưởng nhiều hơn 72%, chiều cao cao hơn 20%.

Tiếp theo, Singh lại dùng các chủng loại thực vật khác nhau làm nhiều làn thí nghiệm, kết quả thí nghiệm được công bố trên tạp chí học viện nông nghiệp bang Bihar, Singh bày tỏ chắc chắn rằng: Âm nhạc hài hòa sẽ thúc đẩy thực vật sinh trưởng, phát triển, ra trái, kết hạt.

Khi thí nghiệm có kết quả, Singh liền thử nâng cao sản lượng trồng trọt. Từ năm 1960 đến 1963, ông đã giúp bảy thôn khu Pondicherry và bang Tamil thí nghiệm, dùng máy tăng âm phát âm nhạc, làm cho thu hoạch nhiều hơn bình thường 25-60%.

Đến cuối những năm 50, bang Illinois Mỹ có một nhà thực vật học tên là George Smith dùng ngô và đậu tương làm thí nghiệm, ở nhà kính có điều kiện nhiệt độ, độ ẩm như nhau, gieo những hạt giống như nhau. Phát cho một bộ phận trong đó bài “Khúc hát về màu xanh” của nhạc sỹ Mỹ Gershwin, và bộ phận kia thì không phát âm nhạc nào cả. Cuối cùng phát hiện, những chồi hạt được “nghe” nhạc khúc nảy mầm sớm hơn 2 tuần so với những chồi hạt không được “nghe” nhạc, hơn nữa loại được nghe nhạc cũng mập chắc hơn nhiều. Smith rất bất ngờ, sau đó ông tiếp tục phát nhạc cổ điển cho một mảnh đất thí nghiệm ngô lai, liên tục từ khi gieo hạt cho đến khi thu hoạch không gián đoạn. Kết quả lại phát hiện kinh ngạc, mảnh đất thí nghiệm này thu hoạch được nhiều hơn 700 kg ngô so với mảnh đất thí nghiệm cùng kích thước không được “nghe” âm nhạc. Ông còn vui mừng phát hiện, ngô “nghe” âm nhạc phát triển thì sinh trưởng nhanh hơn, kích thước hạt đều đặn, đồng thời cũng chín sớm hơn.

Đại học Stanford Mỹ cũng làm một thí nghiệm: cho thực vật nghe các âm nhạc khác nhau, nhóm thực vật nghe nhạc cổ điển sinh trưởng khá tươi tốt um tùm, hơn nữa thật thần kỳ là, thực vật phát triển hướng về phía có nguồn phát ra âm nhạc, thực vật phát triển nghiêng 60 độ về phía nguồn phát ra âm nhạc.

Hơn 10 năm trước, Tuscany ở miền Tây Bắc nước Ý có một vườn nho có tên là Thiên đường Francina. Chủ nhân vườn nho có tên là Carlo Cignozzi, ông vốn là luật sư, mới chuyển nghề sang trồng nho, không có kinh nghiệm. Cignozzi rất say mê âm nhạc và phát hiện ra những khúc nhạc ông chơi accordion làm cho cây nho lớn nhanh hơn, thế là ông phát nhạc cổ điển trong vườn nho lâu dài, kết quả phát hiện những cây nho nghe âm nhạc này quả nhiều, to hơn ít bị sâu hại hơn.

Cho nho nghe âm nhạc, khi mới bắt đầu, một số người địa phương cho rằng đầu óc Cignozzi có vấn đề. Nhưng Cignozzi kiên trì ba năm, ngày ngày đều cho nho nghe nhạc cổ điển. Sau ba năm, những cây nho ông trồng đều kết trái, ra quả vừa to vừa ngon, rượu làm ra từ nho của ông so với người giỏi làm rượu nhất ở địa phương vị cũng ngon hơn, thế là được mọi người công nhận.

Tin tức nhạc cổ điển làm cho Cognozzi trồng được nho quả to và ngon hơn đã nhanh chóng được lan truyền đi. Nghe được tin này, nhân viên nghiên cứu của Đại học Florence bắt đầu tiến hành điều tra khu vườn 24 mẫu Anh này từ năm 2006, để tìm hiểu ảnh hưởng của âm nhạc đối với sự sinh trưởng của thực vật. Giáo sư Mancuso của trường đại học này bày tỏ, trước mắt vẫn chưa có kết luận, nhưng cây nho hoặc cây cảnh nghe âm nhạc thực sự đều mọc cao hơn, mà cây không nghe nhạc thì đều mọc chậm hơn. Đồng thời, diện tích che phủ của lá cây nho nghe âm nhạc thực sự lớn hơn so với cây không nghe nhạc.

Cùng với sự truyền bá của những ảnh hưởng thần kỳ này của âm nhạc đối với thực vật, tiết mục “Chấm dứt tin đồn” của kênh truyền hình Discovery của Mỹ vào năm 2004 cũng đã làm thí nghiệm trong thời gian 2 tháng để chứng minh, giao lưu với thực vật hoặc phát âm nhạc có lợi cho sự sinh trưởng của thực vật có phải là tin vịt không.

Họ đã làm bảy nhà kính có điều kiện giống nhau trồng đậu Hà Lan, có cái thì phát âm nhạc, có cái thì giao lưu với thực vật, có cái không phát âm nhạc gì cả. Sau 2 tháng, họ phát hiện, tất cả các cây đậu Hà Lan ở nhà kính phát âm nhạc thực sự đều phát triển tốt hơn tất đậu Hà Lan ở các nhà kính khác, cuối cùng ra kết luận: Giao lưu với thực vật hoặc phát âm nhạc có lợi cho thực vật sinh trưởng, là có khả năng.

Cùng với sự truyền bá các trường hợp thần kỳ này, mấy năm gần đây, trên phạm vi toàn cầu đã dấy lên trào lưu “cho thực vật nghe nhạc cổ điển”, rất nhiều nông trường thực vật sinh thái xanh đã được xây dựng, rất nhiều các hộ trồng trọt tới tấp áp dụng cho thực vật nghe nhạc cổ điển, cũng đều thu được hiệu quả rõ rệt.

Như chợ rau trung tâm Toyooka tỉnh Hyogo Nhật Bản cho chuối nghe nhạc Mozart, kết quả cho ra đời “Chuối Mozart” thơm ngon hơn, đồng thời được mọi người công nhận. Người ăn thử đều bày tỏ “chuối Mozart” vừa ngọt vừa ngon, hơn nữa màu sắc cũng rất đẹp…

Âm nhạc và động vật tương phùng

Ở Trung Quốc có câu thành ngữ ai cũng thuộc lòng, gọi là “đàn gảy tai trâu”, bắt nguồn từ câu chuyện Mâu Dung kể để thuyết phục người khác. Trâu thực sự không có phản ứng gì với âm nhạc cao nhã sao? Đã từ lâu, Tuân Tử thời Chiến quốc đã viết trong “Khuyến học thiên” của ông như sau: “Ngày xưa Hồ Ba chơi đàn sắt bên sông, những con cá lặn dưới sông đều bơi lên lắng nghe. Bá Nha chơi đàn cầm ngoài cánh đồng, đàn ngựa đang gặm cỏ đều ngẩng đầu lên yên lặng lắng nghe”. (11) Điều này hoàn toàn khác với những gì Mâu Dung kể.

Sự thực chứng minh, âm nhạc không chỉ có hiệu quả thần kỳ đối với sự sinh trưởng của thực vật, mà đối với động vật cũng có hiệu quả như vậy.

Hiện nay khắp nơi trên thế giới đều nổi lên phong trào ở các trại chăn nuôi, nông trường cho gia súc, gia cầm, gà, trâu bò, lợn v.v.. nghe âm nhạc cổ điển, điều này đã không còn là tin tức nữa. Qua các thí nghiệm cho thấy, ở trại gia súc phát âm nhạc cổ điển nhẹ nhàng vui tươi hài hòa, có thể kích thích cho nhiều sữa hơn, mà sữa sinh ra sạch hơn, ngon miệng hơn, còn có thể kích thích gà đẻ nhiều trứng hơn, có thể làm cho lợn và trâu khỏe mạnh hơn, thịt tươi mềm hơn… Hơn nữa còn hình thành một chuỗi ngành nghề mới, làm cho rất nhiều nhà hàng, nông trường hiện nay tới tấp đưa ra sản phẩm sinh thái như thịt lợn, thịt bò, trứng, lương thực, rau, trái cây được cho nghe nhạc cổ điển trong quá trình nuôi trồng, giá cả tương đối đắt, nhưng ngon miệng và chất lượng tốt cho sức khỏe thực sự tốt hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại khác. Những sản phẩm này đã được người tiêu dùng kiểm nghiệm và chấp nhận.

Một lần thí nghiệm ngẫu nhiên, đã gây ra cơn sốt “Hiệu ứng Mozart”

Năm 1993, tập san định kỳ “Tự nhiên” nổi tiếng của nước Anh đã đăng phát hiện của công trình nghiên cứu lớn của nhà tâm lý học trường đại học California bà Frances Rauscher và các đồng nghiệp: Nghe âm nhạc của các bậc thầy sáng tác nhạc cổ điển như Mozart có thể gia tăng năng lực phân tích không gian ba chiều của các sinh viên. Từ đó trên phạm vi toàn thế giới đã xuất hiện cơn sốt “Hiệu ứng Mozart”, dẫn đến lượng tiêu thụ các đĩa CD của các đại sư nhạc cổ điển như Mozart tăng theo đường thẳng, kéo dài không giảm.

Ví dụ hiện nay ở phạm vi trên toàn thế giới đang thịnh hành “Âm nhạc dưỡng thân” và “Giáo dục thai nhi”. Rất nhiều bà mẹ hiện nay đều đang tĩnh tâm lắng nghe âm nhạc cổ điển trong thời gian mang thai, tin rằng những em bé được sinh ra như thế này sẽ mạnh khỏe, thông minh, xinh đẹp hơn và tính cách cũng tươi sáng hơn.

Trực diện với âm nhạc cao nhã, pháp luật thể hiện bất lực

Văn hóa Trung Hoa rất coi trọng giáo dục lễ nhạc giáo hóa, lễ nhạc là một bộ phận quan trọng cấu thành nền văn hóa Trung Hoa. Trước khi cộng sản làm loạn Trung Hoa, mấy nghìn năm nay, bất kể các triều đại thay đổi thế nào, gió mây thế sự thay đổi ra sao, vị thế của lễ nhạc trị thế xưa nay không ai lay chuyển nổi. Có thể thấy sức mạnh giáo hóa của lễ nhạc đối với lòng người. Lắng nghe âm nhạc cao nhã, có thể làm cho nội tâm con người an hòa, vỗ về tâm linh con người, có thể nâng cao khí chất con người, làm cho người ta trở lên trang nhã, có thể quy chính đạo đức, làm đoan chính phẩm hạnh của con người.

Theo đưa tin của nhiều tòa báo, trung tâm thương mại thành phố và khu vực xung quanh của thành phố lớn thứ 3 New Zealand Christchurch vốn là khu có các vụ phạm tội cao, làm đau đầu các thương gia, cư dân và cảnh sát địa phương. Từ tháng 6 năm 2009, trung tâm thương mại bắt đầu 24/24 phát các tác phẩm của các nhạc sỹ thế kỷ 18 như Mozart đến nay, đã phát hiện ra có hiệu quả kinh ngạc đối với việc giảm thiểu các vụ phạm tội và bạo lực.

Theo thống kê, tháng 10 năm 2008, các vụ phạm tội khu vực này cao đến 77 vụ trong 1 tuần, đến tháng 10 năm 2010 giảm mạnh xuống còn 2 vụ. Các vụ gây rối liên quan đến ma túy, say rượu năm 2008 có 16 vụ, năm 2010 không có vụ nào xảy ra.

Giám đốc Hiệp hội Thương mại Trung tâm thành phố Christchurch là Lonsdale bày tỏ: “Dân chúng hiện nay sẽ dừng lại và ngồi trong khu vực này, vì họ có cảm giác an toàn hơn.” Phía cảnh sát cũng công nhận nhạc cổ điển đã làm thay đổi môi trường trung tâm thương mại và khu vực xung quanh, hiện nay rất nhiều cửa hàng xung quanh cũng phát nhạc cổ điển. Hơn nữa, ngoài Christchurch ra, Auckland của New Zealand cũng đang áp dụng biện pháp này. (12)

Khúc hết bệnh biến mất, đến đi trong Ngũ âm

Phương pháp chẩn đoán bệnh của Trung y có bốn loại là vọng, văn, vấn, thiết (nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch). Trong đó văn (nghe) đứng vị trí thứ 2, ý là không cần thấy người, chỉ cần nghe âm thanh họ nói, phân biệt sự thay đổi ngũ âm họ phát ra để đối ứng suy đoán trạng thái vận hành của kinh lạc cơ thể, lục phủ ngũ tạng v.v.. từ đó đoán định nguyên nhân bệnh, đạt được hiệu quả đoán bệnh như thần. So với nó thì những cái như bắt mạch bằng sợi tơ chỉ là môn học trẻ con thôi.

Mấy nghìn năm trước, “Hoàng Đế Nội Kinh” – một trong tứ đại kinh điển Trung y Trung Quốc đã luận thuật cơ sở lý luận của âm nhạc trị bệnh. “Hoàng Đế Nội Kinh” có chép: “Ngũ tạng của con người đối ứng với ngũ âm, lục phủ đối ứng với lục luật. Lục luật lại chia thành lục âm luật và lục dương luật, gộp vào gọi là 12 luật lữ, lần lượt đối ứng với 12 tháng, 12 thời thần, 12 tiết (24 tiết khí), 12 đường thủy kinh của trái đất và 12 kinh mạch cơ thể người.” (13)

“Hoàng Đế Nội Kinh” còn lấy ngũ âm lần lượt đối ứng với ngũ tạng, ngũ hành và 5 loại tình cảm (14). Có thể căn cứ vào ngũ âm chẩn đoán bệnh tình, đồng thời cũng có thể lấy ngũ âm điều phối thành âm nhạc hài hòa, để đối ứng điều chỉnh cân bằng lục phủ ngũ tạng của cơ thể con người, còn để lưu thông tuần hoàn kinh lạc cơ thể người, từ đó giúp cho thân thể con người trở về với trạng thái hài hòa tự nhiên, đạt được mục đich trị bệnh và dưỡng thân.

Do đó danh y thời Nguyên là Chu Chấn Hanh cũng nói: “Nhạc cũng là thuốc vậy.”

Không chỉ Trung y, thời cận đại “Liệu pháp âm nhạc” ở phương Tây cũng đã ra đời và lưu hành trên thế giới.

Trước tác đầu tiên của phương Tây thời cận đại giới thiệu một cách có hệ thống dùng âm nhạc chữa trị bệnh là “Y học Âm nhạc” của bác sỹ Brown nước Anh. Ngoài ra cuốn “Y học Âm nhạc” do bác sỹ Lichtenthal người Áo trước tác giới thiệu chi tiết hơn thành quả tìm tòi trên lĩnh vực này đầu thế kỷ 19. Giữa thế kỷ 19 liệu pháp âm nhạc rất thịnh hành ở châu Âu, được ứng dụng quy mô lớn trong thời gian Thế chiến 2. Ban đầu được ứng dụng trị bệnh tinh thần cho các thương bệnh binh, do thấy hiệu quả của nó rất rõ rệt nên đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi.

Năm 1944 và 1946, trường đại học bang Michigan và đại học Kansas lần lượt xây dựng giáo trình trị liệu âm nhạc chuyên ngành để đào tạo bác sỹ trị liệu âm nhạc chuyên nghiệp. Năm 1950, nước Mỹ đi đầu thành lập Hiệp hội Liệu pháp Âm nhạc (NAMT), đánh dấu âm nhạc trị liệu học trở thành môn khoa học mới đã ra đời. Cho đến hôm nay, liệu pháp âm nhạc đã lan truyền khắp thế giới, rất nhiều bệnh viện, trung tâm phục hồi sức khỏe đều áp dụng liệu pháp này, thu được hiệu quả rõ rệt.

Các trường hợp thần kỳ này, tuy hiện nay khoa học vẫn chưa giải thích được rõ, nhưng đã làm cho nhân loại phát hiện ra dấu tích của Thần từ viễn cổ. Đã chứng minh trong “Nhạc” thực sự ẩn chứa sức mạnh thần kỳ mà con người chưa thể biết được, cũng đã chứng tỏ những thần tích của “nhạc” thời kỳ viễn cổ là rất đáng tin cậy.

(Còn tiếp)

Chú thích:

(1): “Mao thi tự”: “Tình động bên trong mà thể hiện ra lời nói, lời nói diễn tả không đủ diễn đạt, do đó than thở, than thở không đủ diễn đạt, do đó ca vịnh, ca vịnh không đủ diễn đạt, thì bất giác hoa tay múa chân vậy.”

(2) “Thế bản – Đế hệ thiên”: “Bà Nữ Oa lệnh cho Nga Lăng Thị chế tạo sáo Đô lương quản, để thống nhất âm nhạc trong thiên hạ, lệnh Thánh Thị chế tạo sáo Ban quản, tổng hợp mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gọi là Sung nhạc. Sau khi chế tạo thành công, khắp nơi thiên hạ, cho đến cả những cái tối tăm nhỏ bé, không cái gì là không được chỉnh sửa.”

(3) “Lã Thị xuân thu – Cổ nhạc thiên” có chép: Thời xưa, Chu Tương Thị trị thiên hạ, gió nhiều mà dương khí tích tụ, vạn vật tiêu tán, hoa quả không kết trái, do đó Sỹ Đạt làm đàn Ngũ huyền sắt, để lấy âm khí, để định quần sinh.”

(4) “Lã Thị xuân thu – Cổ nhạc thiên” chép: “Xưa Âm Khang Thị mới trị vì, âm khí ứ trệ mà chìm lắng, dương đạo tắc nghẽn, không vận hành theo trật tự, dân khí u uất mà đình trệ, gân cốt teo tóp không phát triển, do đó đặt ra múa để truyền bá dẫn dắt dân chúng.”

(5) “Chu lễ – Đại tư nhạc”: Do đó tấu nhạc Hoàng Chung (chuông vàng), hát khúc Đại Lã, múa điệu “Vân môn”, để tế thiên thần. Rồi tấu nhạc Thái Thấu, hát khúc Ứng Chung, múa điệu “Hàm Trì” để tế đất. Rồi tấu nhạc Cô Tẩy, hát khúc Nam Lã, múa điệu “Đại Thiều”, để tế Tứ vọng (tế vọng bái núi sông bốn phương). Rồi tấu nhạc Nhuy Tân, hát khúc Hàm Chung, múa điệu “Đại Hạ”, để tế núi sông. Rồi tấu nhạc Di Tắc, hát khúc Tiểu Lã, múa điệu “Đại Hoạch”, để dâng lễ tế các bà tổ. Rồi tấu nhạc Vô Tạ, hát khúc Giáp Chung, múa điệu “Đại Vũ”, để dâng lễ các tổ tiên. Lục Nhạc, văn là ngũ thanh, âm là bát âm.

(6) “Hàn Phi tử”: Hoàng đế thời xưa, hợp quỷ thần ở phía tây trên núi Thái Sơn, cưỡi xe voi ở nhà giao long, trị vì tất cả các phương, Si Vưu ở phía trước, Phong Bá quét đường, Vũ Soái té nước trên đường, hổ sói phía trước, quỷ thần ở phía sau, rắn bay phủ phục, phượng hoàng che ở trên trời, đại hợp quỷ thần, sáng tạo ra “Thanh giác”.

(7) “Lã Thị xuân thu”: Đế Khốc lệnh cho Hàm Hắc sáng tạo ra bài hát: Cửu thiều, Lục liệt, Lục anh. Hữu Thùy sáng tạo ra bề, cổ, chung, khánh (trống trận, trống, chuông, khánh), thổi sáo Linh, chơi sáo Quản đề. Do đó là cho phượng hoàng, chim trĩ trời múa lượn. Đế Khốc mừng lắm, đó là làm tăng đức của vua.

(8) “Lã Thị xuân thu”: Vua Nghiêu lên ngôi, bèn lệnh cho Chất sáng tạo nhạc. Chất bèn phỏng theo âm thanh của núi rừng suối hang để làm bài hát, bèn lấy sừng hươu gõ phữu, bèn gõ đá vào đá, để giống âm thanh của khánh ngọc của Thượng đế, làm cho trăm loài thú nhảy múa.

(9) “Thượng thư – Cao đào mô”: ông Quỳ nói: “Kiết kích minh cầu, bác phủ, cầm, sắt để vịnh. Thần linh tổ tiên đến, con cháu làm khách an vị, các chư hầu lễ nhượng đi lên. Dưới đường kèn trống, Chúc ngữ hợp tấu dạo nhạc, khèn chuông thay nhau tấu lên, chim thú nhảy nhót theo nhạc, nhạc “Tiêu thiều” tấu chín lượt, phượng hoàng từng cặp đến nhảy múa. Ông Quỳ nói: “Ôi chao! Ta gõ khánh đá, trăm loài thú đến nhảy múa, các quan đều hòa nhịp.”

“Đế vương thế kỷ”: Muôn dân sung túc, vạn bang yên định, muôn nghề hưng thịnh, bèn sáng tạo nhạc “Đại thiều”, “Tiêu thiều” tấu lên 9 lượt, phượng hoàng bay đến múa, tấu lên khánh đá, muông thú đến nhảy múa. Do đó Khổng Tử khen “Thiều” tận mỹ vậy, lại còn tận thiện nữa. (“Thái bình ngự lãm” trích dẫn)

(10) “Luận Ngữ”: Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc “Thiều”, 3 tháng không biết mùi vị của thịt. Ông nói: “Không ngờ nhạc lại cao siêu như thế này!”

“Luận Ngữ – Bát dật”: Khổng Tử nói nhạc “Thiều” tận mỹ, lại còn tận thiện.

(11) “Tuân Tử – Khuyến học thiên”: Xưa Hồ Ba chơi đàn sắt, mà cá ngoi lên lắng nghe. Bá Nha chơi đàn cầm, ngựa của vua ngừng ăn ngẩng đầu lên nghe.

(12) “Liên hợp báo” Đài Loan ngày 9/11/2010 đưa tin, còn có các báo khác đưa tin, không liệt kê ra ở đây.

(13) “Linh khu – Kinh biệt” : “Trong có ngủ tạng, ứng với ngũ âm… Ngoài có lục phủ, ứng với lục luật. Lục luật đặt ra các kinh âm dương, mà hợp lại 12 tháng, 12 canh giờ, 12 tiết, 12 kinh thủy, 12 giờ, 12 kinh mạch”.

(14) “Hoàng Đế Nội Kinh”: Gan thuộc mộc, ứng với âm Giốc, ứng với chí Nộ (giận dữ). Tim thuộc hỏa, ứng với âm Chủy, ứng với chí Hỷ (vui mừng). Lá nách thuộc thổ, ứng với âm Cung, ứng với chí Tư (lo nghĩ). Phổi thuộc kim, ứng với âm Thương, ứng với chí Ưu (u buồn). Thận thuộc thủy, ứng với âm Vũ, ứng với chí Khủng (sợ hãi).

Xem tiếp Phần 2


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2017/7/10/350607.html

Đăng ngày 9-12-2017; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share