Bài viết của Thăng Hoa
[MINH HUỆ 21-12-2021] (Tiếp theo Phần 1)
Mùa xuân năm Thiên Bảo thứ 3 (năm 744), Lý Bạch rời Tràng An, bắt đầu lần viễn du thứ 2 kéo dài 11 năm. Thời gian này là thời kỳ Lý Bạch sáng tác phong phú nhất.
Năm Thiên Bảo thứ 5 (năm 745), Lý Bạch viết “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”, bài thơ có hình tượng nghệ thuật đa dạng, thủ pháp biểu hiện mới lạ, được người đời truyền tụng từ đó đến nay, được coi là thi phẩm có tính tiêu biểu nhất của Lý Bạch.
Trong ‘bức tranh’ lớn với khí tượng hùng vĩ, cổng Trời mở rộng này, trong sáng trong hồ nước trở thành người tiễn biệt thi nhân:
Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt
Nhất dạ phi độ kính hồ nguyệt
Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh
Tống ngã chí Diệm Khê
Dịch thơ:
Ta muốn nhân đây mộng Ngô Việt,
Một đêm nương trăng Kinh Hồ vượt.
Trăng hồ rọi bóng ta,
Đưa ta đến Diễm Khê. (Bản dịch của Khương Hữu Dụng)
Dưới ánh trăng tinh khiết đêm trăng chiếu rọi, Lý Bạch bay qua Kính Hồ như tấm gương sáng. Trăng sáng chiếu bóng hình hồng lên mặt Kính Hồ, lại đưa ông hạ xuống Diệm Khê. Đại thi nhân thời Nam Bắc triều đồng thời là người tu luyện Tạ Linh Vận năm xưa khi du ngoạn Thiên Mụ đã từng cư trú ở Diệm khê. Lý Bạch đi đôi guốc gỗ đặc biệt do Tạ Linh Vận năm xưa chế tạo, rồi bước trên con đường đá mà Tạ Công đã từng đi: Thanh Vân Thê (thang mây xanh). Sau đó ngắm mặt trời mọc trên biển, nghe tiếng gà trời, ngàn vạn đá núi chuyển động, hoa đá kỳ lạ, gấu gào rồng thét, mây xanh như mưa, nước nhạt sinh khói.
Lý Bạch viết ‘Liệt khuyết tích lịch, khâu loan băng tồi” (Sét đánh chớp lòa, gò nhào cồn tan). Trong tiếng sét chớp lòa đó, “động thiên đá phi, hoanh nhiên trung khai” (Động trời cửa đá, ầm ầm mở toang).
Một thế giới Thần Tiên đột nhiên xuất hiện, “thanh minh hạo đãng bất kiến để, nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài. Nghê vi y hề phong vi mã, vân chi quân hề phân phân nhi lai hạ” (Xanh mờ thăm thẳm chẳng thấy đáy, ánh trời ánh trăng ngấn bạc vàng. Mặc áo ráng hề cưỡi ngựa gió, Thần trong mây hề bời bời bay xuống đó).
“Tiên chi nhân hề liệt như ma” (Người Tiên đông như cỏ gai). Quần Tiên xếp thành đội ngũ đến nghênh tiếp thi nhân. Đài vàng đài bạc tỏa sáng cùng nhật nguyệt, cảnh sắc tráng lệ, sắc màu kỳ lạ phất phới.
Từ khi rời khỏi Trường An, đến năm Thiên Bảo thứ 14 (năm 755), nổ ra loạn An Sử, Lý Bạch luôn trong các cuộc du ngoạn, tuy phiêu du bất định, nhưng ý chí ông càng kiên cường, dùng thơ để tỏ rõ chí hướng, diệt ác phù chính, không sợ quyền quý.
Năm Thượng Nguyên thứ 3 (năm 762), thi nhân khi đó 61 tuổi, lưu lại Đương Đồ một thời gian ngắn, đã viết bài thơ vịnh trăng cuối cùng.
Cửu nhật Long Sơn ẩm
Cửu nhật Long Sơn ẩm
Hoàng hoa tiếu trục thần
Túy khán phong lạc mão
Vũ ái nguyệt lưu nhân
Tạm dịch:
Trùng Cửu uống rượu Long Sơn
Hoa vàng cười kẻ sớm hôm lưu đày
Say nhìn gió thổi mũ bay
Ánh trăng lưu luyến kẻ hay múa này.
Tết Trùng Cửu mùng 9 tháng 9, Lý Bạch uống rượu ở núi Long Sơn (phía tây bắc Giang Lăng, Hồ Bắc ngày nay), khắp nơi hoa cúc vàng nở rộ, bất kể thi nhân đi đến đâu, đều thấy những đóa hoa vàng khai nở mỉm cười với ông. Khi say, ông ngắm di chỉ “Gió thổi bay mũ” (di tích Lạc Mạo Đài nổi tiếng ở Long Sơn), nhớ người xưa phóng khoáng, uống thỏa thích dưới ánh trăng sáng, ngắm những Tiên tử múa thướt tha dưới trăng. Cuối cùng, kết thúc bằng “nguyệt lưu nhân”, đã để lại bức tranh sinh động sự tác động qua lại giữa thi nhân và Tiên tử cung trăng: Thi nhân chìm đắm trong cảnh thoát tục quên cõi trần, trăng sáng gió mát trên cao này. Tiên tử cung trăng cũng múa thướt tha để bày tỏ ý quý tiếc không muốn rời.
Trăng cũng là hình ảnh thường xuất hiện trong thơ Lý Bạch, có trên 300 bài thơ ông đã trực tiếp hoặc gián tiếp viết về trăng. Nguyệt thố, Thường Nga, Quế tử, là khách thường xuyên của ông. Dưới cây bút của ông, trăng muôn ngàn dáng vẻ, có “minh nguyệt xuất Thiên San, thương mang vân hải gian” (Vừng trăng ra núi Thiên San, mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi); có “thu sơn lục mộng trung, kim tịch vị thùy minh” (Núi thu trong giấc mộng xanh, vì ai trăng tỏ trăng thanh đêm này)…Tình cảm thủy chung của ông đối với trăng có thể nói là thiên hạ vô song.
Triều Đường thịnh thế được công nhận là đỉnh cao của văn hóa Trung Hoa, rực rỡ huy hoàng. Triều Đường lại là một quốc độ của thơ ca, tư tưởng Tam giáo Nho – Thích – Đạo đạt đến sự dung hợp chưa từng có trong các tác phẩm văn học. Có những vần thơ biểu đạt cái lý nhập thế, trung quân ái quốc của Nho gia, như “báo quân hoàng kim đài thượng ý” (báo đáp ơn vua xây đài cầu hiền tài). Cũng không ít những thi nhân cả đời nghiên cứu cái lý của Phật gia và Đạo gia, họ được người đương thời gọi là “Tiên tông thập hữu” (10 người bạn truy cầu cảnh Tiên). Những người này dốc sức tu dưỡng tâm tính, có người cả đời tầm Tiên phỏng Đạo, tìm kiếm con đường phản phác quy chân, đạt đến cảnh giới sinh mệnh cao hơn. Những tác phẩm thơ của “Tiên tông thập hữu”, những tác phẩm được truyền tụng rộng rãi hàng trăm hàng nghìn năm nay, chắc chắn là những vần thơ của Lý Bạch. Trong những thi phẩm này, vầng trăng sáng dưới bút của Lý Bạch giống như một tấm gương soi hết cả nhân gian, lại giống như một cánh cửa mở ra vũ trụ, thời không, khiến người đời sau mỗi lần ngắm trăng đều nhớ đến những câu thơ tuyệt mỹ này, trong tâm sinh ra sự sáng suốt, hy vọng và cảm ngộ. Hàng trăm hàng nghìn năm nay, mọi người vịnh trăng, thưởng nguyệt, tìm kiếm Thiên lý đại Đạo và ý nghĩa đích thực của đời người, khát vọng trở về với cái tốt đẹp, thiện lương và vĩnh hằng.
(Hết)
Tài liệu tham khảo chính:
Nhân vật anh hùng thiên cổ: Lý Bạch
Lý Bạch thi toàn tập
Bài viết chỉ thể hiện quan điểm hoặc nhận thức của tác giả. Mọi nội dung đăng trên trang web này thuộc bản quyền của Minghui.org. Minh Huệ sẽ biên soạn các nội dung trên trang web và xuất bản theo định kỳ hoặc vào những dịp đặc biệt.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2021/12/21/434465.html
Đăng ngày 30-01-2022; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.