[MINH HUỆ 15-04-2020] Từ thời xa xưa, hầu hết mọi người trên thế giới đều tín Thần, ví như phương Tây có Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo; phương Đông có Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo v.v. Thực ra, trước thời nhà Tần, các ngành các nghề, tất cả các trường học khác nhau đều xưng đạo, ca ngợi đạo. Trong quá khứ có rất nhiều người đi vào núi sâu rừng già để tu luyện; cũng có rất nhiều ẩn sỹ; cũng có rất nhiều những người không tu đạo nhưng ở trong đạo, tuy không thoát ly cuộc sống xã hội người thường, nhưng vô cùng chú trọng nhân đức, tu thân dưỡng tính, trong tâm kính sợ Thần Phật, vì vậy mà Thần cũng quản họ.

Nhưng đến thời hiện đại, con người càng ngày càng không tin tưởng Thần Phật. Chủ yếu nhất là ảnh hưởng độc hại của “Vô Thần luận”, “Tiến hóa luận”, khiến con người không còn tin tưởng vào sự tồn tại của Thần Phật, không tin vào thiên lý thiện ác hữu báo, dẫn đến đạo đức nhân loại trượt dốc nhanh chóng, từ đó lại càng không tin Thần Phật hơn. Cho rằng những điều từ thời cổ đại lưu truyền đều là thần thoại, là truyền thuyết v.v. đều là mê tín, rằng họ chỉ tin vào khoa học hiện đại thôi.

1. Phát hiện văn minh tiền sử

Khoa học hiện đại cũng phát hiện trên thế giới có rất nhiều những hiện tượng không giải thích được, phát hiện rất nhiều thần tích tồn tại. Ví như các khoa học gia đã phát hiện rằng, trên Trái đất đã từng tồn tại rất nhiều nền “Văn minh tiền sử” ở các thời kỳ khác nhau. Phát hiện dưới nhiều đáy đại dương có các kiến trúc cổ đại cao lớn và tinh mỹ, chẳng hạn như kim tự tháp dưới đáy biển, thành phố và cung điện dưới đáy biển v.v. Chúng ta đều biết, các bản khối đại lục trên trái đất đã hình thành từ hàng chục triệu năm lịch sử, thế thì những công trình kiến trúc này khẳng định đã được kiến tạo từ hàng chục triệu năm trước, trước cả khi bị trầm xuống đáy biển. Điều này thuyết minh rằng, nền văn minh nhân loại trên Trái đất đã phát triển ở mức độ rất cao từ hàng chục triệu năm trước.

Một nhà địa chất của Mỹ còn phát hiện một khối hóa thạch của một loài sinh vật mang tên “bọ ba thùy” ở vùng núi California, nó là sinh vật đã từng sinh tồn trên trái đất từ 600 triệu đến 260 triệu năm trước đây, trên mặt khối hoá thạch còn có dấu chân một người đang đi giày đạp lên. Điều này đã chứng minh rằng vào hơn 200 triệu năm trước, trên Trái đất đã có con người tồn tại. Tại vùng núi lớn của nước Cộng hòa Gabon, Châu Phi, các khoa học gia còn phát hiện một lò phản ứng hạt nhân cỡ lớn, có bố cục hết sức hợp lý, được xây dựng vào 2 tỷ năm trước và đã được vận hành 50 vạn năm. Khoa học gia nhiều nước đều đi khảo sát và đã chứng minh tính xác thực của nó. Trên Trái đất đã phát hiện nhiều vô số kể những di tích tiền sử ở các thời kỳ khác nhau…

Chúng ta đều biết rằng, theo “Thuyết tiến hóa” của Darwin, nhân loại từ vượn tiến hóa thành người văn minh trong chưa đầy một vạn năm, điều này căn bản không giải thích được thực tế của “nền văn minh tiền sử”. Có thể thấy “Thuyết tiến hóa” là hoàn toàn sai lầm. Những thời kỳ khác nhau có những di tích tiền sử đặc trưng khác nhau, điều này nói lên rằng trong hàng tỷ năm tuổi của trái đất chúng ta đã từng tồn tại nhiều nền văn minh nhân loại vô cùng phát triển. Hiện nay, nhiều nhà khoa học đã đưa ra lý luận về “Nhiều lần văn minh tiền sử”. Vậy, vì sao những nền “văn minh tiền sử” đó lại bị tiêu mất hết lần này đến lần khác, rồi lại phát triển mới lại từ đầu, sau đó lại tiêu mất?

Trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại lần này, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân đó là: Chúng ta đều biết trong “Kinh Thánh” có ghi chép rằng, văn minh nhân loại lần trước bị tiêu hủy bởi trận Đại hồng thủy. Vài năm trước, tàn tích của “Con tàu Noah” đã được tìm thấy ở vùng núi Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi các nhà khoa học khảo sát thì thấy hình dạng và kích thước của nó hoàn toàn giống hệt như mô tả trong “Kinh Thánh”, thuyết minh rằng “Kinh Thánh” nói hoàn toàn đúng. Nhân loại trước đó đến cận cuối, đạo đức đã bại hoại, Thần nhìn thấy con người thế gian càng lúc càng bại hoại, nên đã dùng Đại hồng thủy để tiêu hủy thế giới. Chỉ có gia đình Noah với tâm tính thiện lương và nhiều loài động vật khác nhau được lưu lại và sống sót trong chiếc thuyền lớn do Thượng đế bảo Noah đóng trước đó, khiến cho người phương Tây có thể phát triển lại từ đầu. Ở phương Đông, chỉ có một số ít những người tốt sinh sống trên núi cao là còn sống sót. Tất cả vật chất đều bị phá hủy, chỉ có thể sống cuộc sống nguyên thủy, dần dần sinh sôi và phát triển thành nhân loại mới.

Đến một thời kỳ nhất định, thiên thượng sẽ an bài những vị Thần Phật hạ thế để dạy con người cách thức sinh sống và đạo lý làm người. Giống như thời cổ đại có các vị Tam Hoàng Ngũ Đế đã lưu lại rất nhiều thần tích. Đến khi nhân loại xuất hiện văn minh, thì dạy cho con người “Tâm Pháp”, như là đạo làm người và quy phạm hành vi đạo đức của con người. Chẳng hạn phương Tây có Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo; phương Đông có Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, hầu như đều xuất hiện cùng thời đại, khiến duy trì tiêu chuẩn đạo đức nhân loại ở trạng thái tốt nhất, đạo đức không đến mức bại hoại mà bị đào thải. Cũng muốn cấp cho con người một con đường phản bổn quy chân mà quay trở về.

Nhưng mà, thuận theo năm tháng trôi qua, xã hội vật chất phát triển khiến con người trong truy cầu lợi ích vật chất mà dễ dàng quên đi những phẩm chất tinh thần mà Thần yêu cầu nơi con người. Đạo đức nhân loại trượt trên dốc lớn, nhân tâm trở nên bại hoại khắp nơi, hoàn toàn chệch khỏi quy phạm tiêu chuẩn đạo đức mà Thần cấp cho con người, khi ấy Thần cho rằng con người không còn phù hợp làm người nữa, chỉ có thể đào thải đi thôi. Cho nên sự phát triển của văn minh nhân loại là có tính chu kỳ, đã nhiều lần bị đào thải. Có rất nhiều di tích tiền sử đã được phát hiện trên trái đất chứng minh cho điểm này.

2. Người tu luyện có thần thông hoặc công năng, có thể dự đoán vận mệnh nhân loại

Những con người ở mỗi chu kỳ phát triển nhân loại đều rất thiện lương, họ có thể tận mắt nhìn thấy hoặc cảm thấy sự tồn tại của Thần, đều hết lòng tin tưởng Thần Phật, kính trọng Thần Phật. Họ cũng biết con người có thể thông qua tu luyện mà trở về trời, hoặc người tốt sau khi chết thì linh hồn có thể về Thiên quốc. Vì vậy mà rất nhiều người đều bước vào tu luyện, hoặc tu tâm dưỡng tính, kính phụng Thần Phật.

Trong lịch sử có rất nhiều người tu luyện có nhiều công năng đặc dị. Ví như: thiên nhãn thông, công năng dao thị, công năng túc mệnh thông, ban vận công v.v. Giới khoa học hiện đại đã công nhận, (dao thị) có thể nhìn thấy sự việc xảy ra ở những địa phương xa xôi; (túc mệnh thông) cũng có thể nhìn thấy tương lai và quá khứ của một cá nhân hoặc xã hội; cũng có thể dùng phương pháp (Hà đồ, Lạc thư, Chu dịch, Bát quái) mà thiên thượng lưu lại cho con người để suy diễn, dự đoán ra sự biến hóa và phát triển của con người hoặc nhân loại v.v. Cho nên, từ thời cổ có rất nhiều người có công năng đặc dị như Khương Tử Nha, Chu Văn Vương, Gia Cát Lượng v.v. có thể tính toán thần cơ vi diệu từ quá khứ đến tương lai, hết sức thần kỳ.

Kỳ thực, một số người với tâm tính rất thiện lương và thuần chân, mặc dù họ không tu luyện nhưng vẫn có được những bản sự như thế. Mấy năm trước, khi các khoa học gia Trung Quốc làm nghiên cứu về khoa học nhân thể, đã làm rất nhiều thực nghiệm như thế. Ngoại quốc cũng có những báo cáo tương tự, bởi vì khá nhiều công năng đặc dị xác thực chính là bản năng của con người, chỉ là con người trong thế giới vật chất thực tại đã ngày càng bị vật chất hóa, nên bản năng tiên thiên của con người bị thoái hóa và tiêu mất.

Đối với người tu luyện, khi buông bỏ những thứ danh lợi của con người cùng những chấp trước vào nhân tâm, có thể quay trở về với bản tính tiên thiên, và có được những công năng đặc dị siêu thường. Cho nên, rất nhiều những truyền thuyết thần thoại được lưu truyền trong lịch sử kỳ thực không phải là hư cấu, ví như Bát tiên quá hải, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni tu luyện thành Phật v.v. Trong lịch sử cũng có rất nhiều những sự tích về các cao tăng và đạo sỹ đã tu luyện thành Tiên thành Phật. Cũng có rất nhiều những bậc thầy thuật số, tuân theo thiên mệnh, sử dụng phương pháp suy diễn và dự đoán để cống hiến rất nhiều cho sự phát triển của xã hội nhân loại.

Vào những năm Trinh Quán đời nhà Đường, kỳ nhân chốn giang hồ, bậc thầy thuật số là Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong vâng mệnh Đường Thái Tông Lý Thế Dân, cùng nhau học tập và nghiên cứu về những cục diện thay đổi trong hàng nghìn năm của hậu thế. Trải qua hai năm dày công nghiên cứu, họ đã viết nên quyển sách “Thôi bối đồ”. Quyển sách này có tổng cộng 60 tượng, phối với 60 hình vẽ, mỗi bức ảnh đều có (5 hoặc 7 câu) “sấm viết” và “tụng viết” bằng thơ. Thơ và ảnh đều ẩn chứa hàm ý khó hiểu, khiến người ta phải suy đoán ý trong đó (Thiên cơ bất khả tiết lộ, ý rằng không thể tiết lộ thiên cơ). Mỗi bức ảnh, mỗi câu thơ đều ngụ ý về một sự kiện lịch sử trọng đại sắp xảy ra. Khi sự kiện chưa xảy ra, con người đều không hiểu được ý nghĩa bên trong nó, một khi xảy ra rồi, mới bỗng nhiên tỉnh ngộ, kinh ngạc tán thán tài tính toán siêu thường của bậc thầy thuật số. Ví như, dự ngôn của tượng thứ hai nói về vận mệnh của triều Đường: Trên ảnh có một cái đĩa, trong đĩa có 21 quả mận xếp chồng lên nhau, đếm từ trên đỉnh xuống dưới, quả mận thứ tư không có cuống. Ngụ ý rằng triều Đường truyền được 21 đời, và hoàng đế thứ tư là nữ. Đồng thời trong thơ còn ngầm chỉ rằng triều Đường truyền được 290 năm. Còn có biến hóa hưng vong của hậu thế, như: Tống, Minh, Thanh, Trung Hoa Dân Quốc, tám năm kháng chiến, đầu hàng Nhật Bản v.v. Sự chính xác của dự ngôn khiến người ta kinh ngạc và cảm phục mãi không thôi!

Lưu Bá Ôn là quân sư của Hoàng đế Chu Nguyên Chương khai quốc triều Minh, cũng là một kỳ nhân có một không hai nổi tiếng khắp chốn gần xa. Ông là người tuyệt đỉnh thông minh và nhân đức độ lượng, trong quá trình giúp Chu Nguyên Chương lật đổ sự cai trị tàn bạo của nhà Nguyên, ông luôn thấu hiểu tình cảnh khốn đốn của muôn dân. Ông dụng binh như Thần, bày mưu nghĩ kế, quyết thắng nghìn dặm, không kém gì Gia Cát Vũ Hầu. Người ta nói rằng, ngay khi nhà Minh thống nhất thiên hạ không lâu, Lưu Bá Ôn đã có ý lui về ở ẩn. Vào một buổi sáng tháng Ba năm thứ tư Minh Hồng Vũ, Chu Nguyên Chương ở trong nội điện dùng bữa sáng, ông ăn bánh nướng, sau khi cắn một miếng, ông đặt chiếc bánh vào một cái đĩa rồi dùng bát đậy lại và gọi Lưu Bá Ôn vào triệu kiến. Sau khi Lưu Bá Ôn đến, vua bèn nói với ông rằng: “Tiên sinh giỏi bói toán, nếu khanh có thể đoán ra trong đĩa này là món điểm tâm nào thì trẫm lập tức thuận cho khanh cáo lão về quê, nếu không thì khanh phải ở lại bên cạnh trẫm, khanh thấy thế nào?” Lưu Bá Ôn bấm ngón tay rồi thưa: “Nửa như mặt trời, nửa như trăng, vừa được kim long cắn một miếng.” Đây chẳng phải nói rằng chiếc bánh nướng bị hoàng đế cắn một miếng là gì?

Chu Nguyên Chương thấy Lưu Bá Ôn quả thật thần kỳ, bèn hỏi ông ta những chuyện mà bản thân mình quan tâm lo lắng nhất: “Hậu sự của thiên hạ này sẽ ra sao? Liệu Chu gia (ý nói triều Minh) có thể hưng thịnh trường tồn hay không?” Tiếp theo đó đã diễn ra cuộc đối thoại nổi tiếng giữa quân và thần. Theo yêu cầu của hoàng đế, Lưu Bá Ôn dùng phương thức ca dao để miêu tả lịch sử gần 300 năm của nhà Minh, và sự hưng vong của các triều đại sau đó, dự kiến được những biến hóa về các sự kiện sau này một cách hết sức rõ ràng.

Ví như nói về hậu sự của triều Minh, sau khi Chu Nguyên Chương qua đời, Chu Đệ khởi binh ở phương Bắc: “Tuy nhiên Thái Tử thị đích duệ, văn tinh cao chiếu phương nãi tôn” (Ý là, “Mặc dù Thái Tử là hậu duệ, nhưng người được truyền ngôi lại là cháu nội”, vì Hoàng thái tử Chu Tiêu, đích trưởng tử của Chu Nguyên Chương qua đời, là người mà Chu Nguyên Chương có ý định truyền ngôi, nên sau khi Chu Nguyên Chương qua đời đã truyền ngôi cho đích tôn của ông là Thái tôn Chu Doãn Văn, tức Minh Huệ Đế).

Nói đến Chu Đệ thân chinh vùng sa mạc phía Bắc là thành Bắc Bình (từng là thủ đô của Triều đại người Mông Cổ ở Trung Hoa): “Bắc phương Hồ lỗ hại sinh dân, Ngự giá thân chinh định thái bình” (Ý là, Các tù nhân người Hồ ở phương Bắc làm hại muôn dân, đích thân ông chinh chiến mới yên ổn thái bình).

Lại nói đến sự biến Thổ Mộc Bảo, vua Minh Anh Tông phục vị “Thổ mộc chi biến”, sau khi ông bị bộ tộc Mông Cổ Ngõa Lạt bắt làm tù binh, nhưng do tấm lòng trung quân bậc nhất thống lãnh quân dân bảo vệ Bắc Kinh, mà Ngõa Lạt buộc phải trao trả Anh Tông trở lại: “Tương tống kim long thực cố cựu, Vân khai biên nhật chiếu biên cương”.

Lại nói đến vào cuối triều đại nhà Minh có hoạn quan chuyên quyền là Ngụy Trung Hiền: “Nhậm dụng yêm nhân bảo xã tắc, Bát thiên nữ quỷ loạn triều cương” – “Bát thiên nữ quỷ” khi ghép Hán tự lại sẽ tạo thành chữ “Ngụy”, chỉ rằng hoạn quan Ngụy Trung Hiền chuyên quyền làm loạn triều đình.

Bởi vì cuộc đối thoại này bắt nguồn từ việc đoán chiếc bánh nướng nên hậu nhân đã gọi đây là “Thiêu bính ca”. “Thiêu bính ca” là vi ngôn đại nghĩa, thần bí mạc trắc, mỗi câu đều là ẩn chứa hàm ý về một sự kiện lịch sử trọng đại sắp xảy ra, rất nhiều dự ngôn của ông đã được nghiệm chứng vào thời điểm đó. Điều khiến người ta cảm phục hơn là, sau khi ông đã qua đời hàng trăm năm, đến hôm nay, một số dự ngôn trọng đại của ông bắt đầu trở thành hiện thực.

Nhiều nhà tiên tri trên thế giới đều có thể dự đoán tương lai rất chuẩn xác (ở nước ngoài cũng có không ít các báo cáo tương tự), ví như: Dự ngôn Maya, Mật mã Thánh Kinh v.v. Từ những thời kỳ khác nhau, dự ngôn của các bậc thầy tiên tri ở các quốc gia khác nhau đều khiến mọi người kinh ngạc bởi tính chính xác của nó đối với lịch sử nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng, vận mệnh nhân loại là có thể dự đoán được. Vì nó có thể được dự đoán, điều đó thuyết minh rằng đã sớm có an bài một cách trật tự trong chốn u minh này (giống như một diễn viên diễn xuất theo kịch bản được viết sẵn vậy đó). Thế thì, câu hỏi được đặt ra là, ai đã an bài? Chẳng phải là một sinh mệnh cực cao, một vị Thần đã an bài hay sao? Thần, thật sự có tồn tại!

Không chỉ là vận mệnh nhân loại, mà cả sự vận hành của thiên thể hay quy luật của vũ trụ, tất cả những điều ấy đều là những kiệt tác của Thần! Người xưa Trung Quốc vô cùng tôn sùng Thần Phật, thường nói về thiên tượng biến hóa, thiên mệnh nan vi, thuận thiên nhi hành. Từ xưa đến nay, quan niệm “Thiên nhân hợp nhất” đã gieo mầm và khắc sâu trong tâm của người Trung Quốc. Trong thời cổ đại, các vị hoàng đế minh quân đều biết phải tuân theo thiên tượng, thiên ý để luôn luôn cảnh tỉnh bản thân trong việc cầm quyền trị quốc. Nhưng con người hiện đại ngày càng rời xa “Đạo”, những gì mà cặp mắt thịt này nhìn không thấy, hoặc khoa học chưa đạt đến được thì đều cho là mê tín, chỉ vì tiền và quyền lực mà muốn làm gì liền làm nấy, trong tâm đã không còn “Đạo” nữa.

3. Các nhà khoa học hiện đại nổi tiếng đã nghiên cứu phát hiện rằng: “Tất cả đều là an bài”

Hiện nay, hễ nói đến Thần với một số người, họ sẽ lập tức nói: Tôi chỉ tin khoa học thôi. Ý nói rằng họ không tin Thần Phật, dường như trong tư tưởng của họ thì khoa học và Thần học đối lập với nhau. Nhưng thật bất ngờ rằng, đại đa số các nhà khoa học trên thế giới đều là người tín Thần. Như nhà khoa học nổi tiếng Newton và Albert Einstein cũng vậy, họ đều tín Thần. Albert Einstein nói một câu nổi tiếng rằng: “Khi một nhà khoa học cố gắng leo lên đến đỉnh cao, mới phát hiện ra nhà Thần học đã ngồi ở đó từ lâu rồi…” Mọi người đều biết rằng, các nhà khoa học hiện đại phát hiện ra định luật vật chất là bất diệt, định luật bảo toàn năng lượng, định luật lực vạn vật hấp dẫn v.v. và nhiều định lý khoa học khác, đặt cơ sở cho khoa học hiện đại, cho rằng tất cả những điều này chính là chân lý tuyệt đối. Nhưng không biết rằng, những chân lý khoa học này cũng chứng minh sự tồn tại thực sự của Phật, Đạo, Thần.

Đầu tiên hãy nói về định luật bảo toàn năng lượng. Một lần nọ, khi phóng viên phỏng vấn Einstein, họ hỏi ông về cách nhìn của ông đối với Thần là như thế nào. Einstein lập tức đưa ra một ví dụ, ông chỉ vào tách cà phê trên bàn và nói: “Tách cà phê này là ai đặt ở đó? Nhỏ như một tách cà phê cũng cần năng lượng sắp xếp, thế thì, vô số những thứ trong vũ trụ, như sự vận hành có quy luật của hành tinh và thiên hà, có thể nói là sự hình thành tự nhiên chăng? Tất cả các hành tinh đều vận hành một cách rất trật tự, không thể nói nó là hình thành tự nhiên được, mọi thứ là được Thượng đế an bài!”

Newton đã từng làm một mô hình về sự vận hành của các thiên thể và Hệ Mặt trời, và triển hiện cho mọi người xem, ông nói: “Thiên hà trong vũ trụ cũng giống như mô hình vận hành này, rất chính xác, không thể tự phát, tùy ý, hay ngẫu nhiên xảy ra, mà khẳng định là có một sức mạnh tồn tại tiến hành an bài hợp lý cho chúng. Các hành tinh quay xung quanh Mặt trời một cách chính xác như vậy, có trật tự như vậy, là ai đã thiết kế và tạo nên? Chỉ có thượng đế vạn năng mới có thể làm được điều này!” Còn hơn cả Hệ Mặt trời, trong vũ trụ bao la này, vô số những thiên hà, hành tinh đều chiểu theo quỹ đạo chính xác mà vận hành một cách hết sức trật tự. Chúng ta thử nghĩ: Nếu mọi thứ vận hành lộn xộn, thì hậu quả sẽ ra sao? Nó có thể là những vụ va chạm và vụ nổ giữa các tinh cầu, và hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi!

Lại nói về định luật vật chất là bất diệt. Bất cứ ai có một chút kiến ​​thức về vật lý và hóa học đều biết rằng, vật chất trên thế giới là do các phân tử tạo thành, mà phân tử lại do nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, điện tử, proton, neutron v.v. tầng tầng lạp tử vi quan hơn tổ thành. Bao gồm cả thân thể con người, cũng do những lạp tử vi quan này tổ thành. Những lạp tử vi quan này, dẫu cặp mắt thịt của con người nhìn không thấy nhưng chúng đều là vật chất, mà vật chất là bất diệt. Hơn nữa vật chất càng vi quan thì năng lượng của nó càng lớn, muốn tiêu hủy những lạp tử vi quan này, cần phải dùng năng lượng và tốc độ va chạm lớn tương ứng (thì mới có thể tiêu hủy được). Giống như bom nguyên tử trong các thí nghiệm khoa học hiện đại, phải khiến cho một số lượng lớn nguyên tử hạch phân rã, thì mới có thể xảy ra vụ nổ hạt nhân. Như thế, sau khi con người chết rồi, vô số lạp tử vi quan ở trong nhân thể sẽ đi đâu, có tùy tiện chết theo không? Nhiệt lượng của lò thiêu không thể khiến cho những lạp tử vi quan ấy cũng bị tiêu hủy như các tế bào phân tử của nhục thân con người, nếu không thì sẽ sinh ra một vụ nổ hạt nhân to lớn biết nhường nào! Những lạp tử vi quan đó tuyệt sẽ không bị tiêu mất đi, sau khi các tế bào phân tử của nhục thân con người thoát rơi ra, nó sẽ tồn tại ở trong không gian lạp tử vi quan.

Khoa học hiện nay đã phát hiện rằng, ngoại trừ không gian vật chất sinh tồn của nhân loại chúng ta ra, còn có rất nhiều những không gian khác đồng thời tồn tại. Cũng chính là nói, linh hồn của con người sẽ không tiêu vong. Như Cơ đốc giáo từng nói: Người tốt thì lên Thiên đường, người xấu thì xuống Địa ngục. Đây chẳng đúng phù hợp với “Định luật vật chất bất diệt” của khoa học hiện đại hay sao? Và thuyết vô Thần luận tuyên dương cái gọi là “Người chết giống như ngọn đèn đã tắt” mới thực sự là ngụy khoa học.

Lời kết

Tóm lại, vô số sự thật đã chứng minh rằng Thần thực sự tồn tại. Con người là do Thần tạo thành, văn hóa là do Thần truyền. Thần đã mô phỏng theo hình dáng của Thần để tạo ra con người, đồng thời sáng tạo cho con người điều kiện và hoàn cảnh sinh tồn. Điều quan trọng hơn là, Thần lưu lại cho con người những quy phạm về tiêu chuẩn hành vi đạo đức, ví như: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín v.v. Nếu con người không tin Thần Phật, đi chệch khỏi quy phạm đạo đức làm người, một khi đạo đức bại hoại, sẽ đối diện với nguy cơ bị đào thải. Trên thực tế, hiện nay đạo đức nhân loại đã trượt xuống đến hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm! Đặc biệt là dưới ảnh hưởng độc hại của “Vô Thần luận”, con người không còn tin tưởng Thần nữa, không tin thiện ác hữu báo, vì truy cầu lợi ích vật chất mà có thể làm bất cứ điều xấu nào mà không chút băn khoăn hay kiêng dè gì. Càng tà ác hơn nếu trực tiếp chống đối Thần, bức hại tàn khốc người tu luyện hướng thiện và tu Phật, đó đã phạm tội ác rất lớn, nhất định sẽ bị Trời phạt.

Tu luyện là hình thức mà Thần lưu lại cho con người, có thể khiến con người phản bổn quy chân, là phương cách duy nhất có thể trở về Thiên quốc. Hơn 20 năm trước, Pháp Luân Đại Pháp đã được hồng truyền tại Trung Quốc Đại Lục, chính là yêu cầu người tu luyện chiểu theo nguyên lý “Chân-Thiện-Nhẫn” là đặc tính tối cao của vũ trụ, tu tâm hướng thiện, nghiêm khắc yêu cầu bản thân, tu được nhanh nhất, vững chắc nhất. Chỉ trong hai mươi năm, người tu luyện trở thành người tốt, vô số những câu chuyện về đạo đức thăng hoa cảm động lòng người, vô số những người chưa tốt đã quay đầu hối cải; vô số người trở nên chân thực, thiện lương, khoan dung, bình hòa, đạo đức cao thượng; vô số người bệnh nặng và khó chữa đều đã được thân tâm khỏe mạnh…

Vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân, kẻ đầu sỏ độc ác của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì tâm tật đố mà công khai phát động cuộc bức hại Pháp Luân Công. Lợi dụng thủ đoạn hèn hạ vu oan hãm hại, phát động bộ máy tuyên truyền quốc gia nhằm tung tin phỉ báng, bức hại cực hình những người tu luyện Pháp Luân Công, che đậy sự thật trước quảng đại quần chúng. Thủ đoạn bức hại hung ác tàn nhẫn khiến người ta vô cùng phẫn nộ! Kết quả là, kẻ tham dự bức hại sẽ bị Trời trừng phạt, kẻ bị ác báo đã hơn hàng vạn trường hợp, như La Kinh, Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng v.v. (Những quan chức tham ô bị ngã ngựa cũng không ngoại lệ). Điều đáng thương hơn là, trong cuộc vận động tà ác này đã khiến cho đạo đức và tín ngưỡng của hầu hết người dân bị phá hủy, không phân biệt được thiện và ác, tốt và xấu; thậm chí hận thù Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn”, chính nghĩa, lương tri cũng chẳng còn.

Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền khắp thế giới, có thể khiến cho đạo đức nhân loại nơi nơi hồi thăng nhanh chóng, cấp cho nhân loại một cơ hội cuối cùng được cứu độ. Trong hơn mười năm qua, người tu luyện Đại Pháp vì thức tỉnh lương tri mọi người, vì cứu độ con người thế gian, mà trải qua biết bao khổ nạn, chịu khổ và tủi nhục, nhưng vẫn luôn từ bi giảng chân tướng cho mọi người, phơi bày tội ác của tà đảng Trung Cộng trong việc bức hại Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền phổ độ chúng sinh và mục đích hủy diệt chúng sinh.

Vì sao khắp nơi hiện nay thảm họa không ngừng? Thiên thượng đã giáng một hồi chuông cảnh tỉnh đến con người thế gian: Nhân loại đang đối diện với nguy cơ trong một sớm một chiều, đây không hề là chuyện giật gân hay cố ý đe dọa! Chỉ là mong mọi người hãy mau chóng minh bạch chân tướng Đại Pháp, từ bỏ Trung Cộng tà ác bức hại Đại Pháp, tuyên bố thoái xuất khỏi các tổ chức Đảng, Đoàn, Đội của Trung Cộng mà bản thân từng tham gia; lựa chọn chính nghĩa và thiện lương, thì sinh mệnh mới có thể thoát khỏi cảnh bị hủy diệt và bi thảm cùng tà ác!

Pháp Luân Đại Pháp là hy vọng được cứu duy nhất của nhân loại! Bày tỏ sự kính nể và tôn trọng đối với Pháp Luân Phật Pháp, chính là lựa chọn cho bản thân một tương lai tươi sáng và hạnh phúc!

“Thà rằng tin là có, chứ không thể tin là không có” là chân ngôn của người thông minh.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/4/15/403766.html

Đăng ngày 25-04-2020; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share