Pháp hội Trung Quốc | Khảo nghiệm thần thánh trong đại nạn
Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc
[MINH HUỆ 28-11-2025] Tôi nhảy nhanh theo bậc thang lên chái nhà, rồi từ chái nhà nhảy sang gian nhà chính. Nhà tôi là kiểu nhà ngói cũ, tôi leo lên nóc nhà rồi trèo xuống… tiếp đó nhảy liên tiếp qua hai ngôi nhà mái bằng, hai bức tường bao, bình an thoát thân. Lúc đó, tôi đã là người hơn 70 tuổi. Trong quá trình trèo nhà leo nóc, tôi cảm thấy dưới chân có một luồng năng lượng thầm nâng đỡ mình, khiến tôi đi lại như đi trên đất bằng, là Sư phụ từ bi đã lặng lẽ bảo hộ tôi chuyển nguy thành an.
Đám người ngoài sân ngẩn ra một lúc rồi nhảy tường vào sân, tưởng tôi trốn ở chỗ kín đáo nào đó. Lục lọi hồi lâu không tìm thấy tung tích tôi đâu, cả đám người nhìn nhau ngơ ngác, không sao hiểu nổi, vô cùng kinh ngạc: “Chẳng lẽ bà lão này có thể lên trời xuống đất sao?”
—— Trích đoạn trong bài
* * * * * * *
Chính Pháp đã bước vào giai đoạn cuối, mỗi người tu luyện trong quá trình này đều đang thực hiện thệ ước tiền sử của mình. Vì vậy, nay nhân dịp Minh Huệ Net kêu gọi viết bài, tôi xin báo cáo tình hình tu luyện của mình lên Sư phụ và các đồng tu, nộp bài thi lên Sư phụ.
1. Thiên cổ tầm Sư đắc Đại Pháp
Chờ đợi đằng đẵng từ viễn cổ, luân hồi gian khổ ức vạn năm, đời đời kiếp kiếp gập ghềnh khổ nạn, cuối cùng, tôi cũng đợi được đến ngày Sư phụ truyền Đại Pháp ở tầng thứ thấp nhất trong Tam giới, nơi xã hội nhân loại. Ngày 13 tháng 3 năm 1996, ánh nắng rực rỡ, cuối cùng tôi đã đắc Pháp.
Từ khi còn trẻ bắt đầu đi làm cho đến lúc về già nghỉ hưu, mấy chục năm tôi đã trải qua thời đại “Đại Nhảy Vọt” năm 1958, trải qua cái gọi là “thiên tai” những năm 60. Cộng thêm trên có già dưới có trẻ, ăn không đủ no uống không hết khát. Thậm chí, cơ quan còn sắp xếp tôi đến phân xưởng cải tiến kỹ thuật, sản phẩm mới, máy móc thô sơ, mỗi ngày 24 giờ chia làm hai ca, mỗi ca làm 12 tiếng, máy móc hỏng hóc mà chưa sửa xong thì không được tan ca. Có khi phải làm khoảng 16 tiếng. Ngày qua ngày, năm qua năm, khắp người xuất hiện đủ loại bệnh tật: cao huyết áp, bệnh mạch vành, suy nhược thần kinh, viêm xoang trán (khi phát tác, đau đớn khôn thấu, hai tay ôm đầu đập vào tường, đập xuống bàn), còn có viêm khớp, sa dạ dày, v.v., đủ loại bệnh tật quấn thân. Tôi gầy đến giơ xương, mỗi năm nằm viện bao nhiêu lần. Sống lay lắt trong sự thống khổ của ma bệnh tích tụ qua hàng chục năm.
Đúng lúc sắp mất hết niềm tin thì hữu duyên đắc Pháp, hồi sinh từ cõi chết, trong tâm cảm thấy vô cùng may mắn, cảm tạ con đường nhân sinh mà ân Sư đã trải sẵn cho đệ tử.
2. Chứng kiến thần tích, sự thần kỳ và thù thắng
Đó là một buổi sáng tháng Ba mùa xuân năm 1996, chồng bảo tôi đi dạo cùng ông ấy. Tôi tay dìu chồng, mang theo thân thể đầy bệnh, đi bộ chậm rãi đến quảng trường thì nghe thấy một âm thanh du dương êm tai, lần theo tiếng nhạc đến gần xem: từng hàng từng hàng người luyện công, ngay ngắn chỉnh tề, đang luyện công theo khẩu lệnh. Hai chúng tôi đứng ở phía sau, học theo động tác của họ mà luyện công. Tức thì, một luồng năng lượng ấm thông thấu toàn thân, cảm giác những thứ như dây xích, gông cùm siết chặt trên thân mấy chục năm qua từ đỉnh đầu đều rơi xuống khỏi thân thể nghe “liểng xà liểng xiểng”. Trong nháy mắt, tôi cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thoải mái lạ thường. Luyện công xong, tôi nói với chồng: “Môn công pháp này thần kỳ quá! Ngày mai chúng ta lại đến nhé.”
Ngày hôm sau, chúng tôi đến quảng trường sớm hơn, đồng tu tận tình dạy chúng tôi từng động tác. Sau khi biết luyện công, tôi không thể nào buông bỏ được. Niềm vui sướng trong nội tâm, lòng sùng kính đối với Sư phụ Đại Pháp không sao diễn tả được bằng lời. Tôi lại thỉnh hai cuốn “Chuyển Pháp Luân” và pháp tượng của Sư phụ Đại Pháp về. Mỗi ngày hễ có thời gian là tôi học Pháp, luyện công.
Có một hôm, khi tôi luyện bài công pháp thứ năm “Thần thông gia trì pháp”, vừa mới nhập tĩnh, liền cảm thấy rõ ràng một đám mây trắng bay vào trong thân thể. Tiếp đó, bên tai tôi nghe thấy tiếng “phù phù thình thịch” trong lồng ngực, tim đập rất mạnh, giống như muốn nhảy ra ngoài vậy, nhưng lại không đau đớn, không khó chịu. Rồi cảm thấy đám mây trắng vừa bay vào thân thể kia lại bay ra ngoài.
Lại có một lần, tôi luyện xong động công, vừa nằm xuống giường, lại cảm thấy một đám mây trắng bay vào trong thân thể. Lúc này, toàn thân tôi không cử động được, chỉ có hai chân là có thể lắc trái lắc phải, ngón tay có thể nắm vào mở ra. Đang cảm nhận sự thần kỳ thì đám mây trắng này lại bay ra ngoài. Tôi ngồi dậy khỏi giường, ra trước mặt chồng và nói: “Sư phụ lại thanh lý thân thể cho tôi rồi. Lần này thanh lý là phần đại não, bây giờ tôi đi lại thấy nhẹ bẫng, giống như có người đẩy vậy.” Chồng tôi tiếp lời: “Bây giờ, tôi đọc chữ trong sách thấy trên mỗi chữ đều là những người tí hon, có người màu xanh nhạt, có người màu đỏ nhạt, có người màu lam nhạt, có người màu vàng nhạt, v.v.” Ông ấy tấm tắc khen không ngớt: “Thật thần kỳ! Quả là thần kỳ!” Sự xúc động và niềm vui sướng trong nội tâm của vợ chồng tôi không sao diễn tả xiết, vô cùng cảm ân Sư phụ, vô cùng kính trọng Đại Pháp.
Để hồng dương Đại Pháp, mỗi dịp cuối tuần, tôi và chồng lại ra quảng trường tham gia hoạt động luyện công tập thể cùng hàng trăm đồng tu. Mặt chính của quảng trường vang lên tiếng loa phóng thanh, nhắc các đồng tu vui lòng tự giác đứng vào vị trí, chuẩn bị luyện công. Sau khi tôi vào vị trí, bất chợt ngẩng đầu lên, nhìn thấy Pháp thân của Sư phụ ngồi xếp bằng trên không trung cách mặt đất vài chục mét, to lớn vô tỷ. Tôi nhìn Sư phụ không chớp mắt, Sư phụ mỉm cười gật đầu ra hiệu với tôi. Tôi vừa kinh ngạc vừa vui sướng, sống mũi cay cay, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng tuôn rơi. Lau khô nước mắt, tôi tiếp tục ngước nhìn Sư phụ, Sư phụ lại gật đầu ra hiệu với tôi. Tôi chắp tay hợp thập, miệng không ngừng gọi: “Sư phụ! Sư phụ!” Sư phụ một lần nữa gật đầu ra hiệu với tôi.
Lúc này, loa phóng thanh bắt đầu phát nhạc luyện công, buổi luyện công tập thể bắt đầu. Sau khi nhắm mắt lại, tôi thấy Pháp thân của Sư phụ vẫn luôn ngồi trên không trung, trông nom chúng tôi. Tôi chợt nhớ tới một câu Sư phụ giảng:
“Sư phụ ắt có Pháp thân lặng lẽ phù hộ” (Bái Sư, Tinh Tấn Yếu Chỉ)
Tôi cảm ngộ sâu sắc sự từ bi vĩ đại, dụng tâm vất vả của Sư phụ. Tôi xúc động rưng rưng nước mắt, trong sát na ấy, lỗ chân lông trên toàn thân đồng thời mở ra, rất to rất thô, thân thể to lớn vô cùng, không gian này dường như không chứa nổi tôi, nửa cái đầu giống như gương trong nhà gương cười vươn về phía trước. Khi luyện công, tay của tôi tự động bay theo khí cơ mà Sư phụ hạ xuống. Luyện công xong, Pháp thân của Sư phụ lặng lẽ rời đi. Đây là sự thần kỳ và tốt đẹp của Pháp Luân Đại Pháp mà tôi được đích thân trải nghiệm. Tôi đã nhiều lần được chứng kiến thần tích và sự thù thắng của Đại Pháp như thế. Tôi chắp tay hợp thập, ngấn lệ nhìn theo tiễn Sư phụ.
3. Nguyên nhân của cuộc thỉnh nguyện “25/4” và “20/7”
Ngày 11 tháng 4 năm 1999, Hà Tộ Hưu, anh em đồng hao với La Cán — Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật của Trung Cộng, đã đăng bài bôi nhọ Pháp Luân Công trên một tạp chí toàn quốc do Học viện Giáo dục Thiên Tân phát hành. Các học viên Pháp Luân Công đã đến để phản ánh sự thật, kết quả là hơn 40 người bị bắt, còn bị viên chức chính quyền thông báo phải “đến Bắc Kinh mới giải quyết được vấn đề”. Ngày 25 tháng 4, các học viên Pháp Luân Công từ khắp nơi đã tự phát đến Văn phòng Khiếu nại của Quốc vụ viện để thỉnh nguyện. Người đi thỉnh nguyện tuy đông nhưng văn minh trật tự, cảnh sát không cần phải làm gì để duy trì trật tự. Thủ tướng đương nhiệm đã tiếp kiến đại diện học viên Pháp Luân Công, sau đó ra lệnh cho Công an Thành phố Thiên Tân thả người. Tối hôm đó, những người thỉnh nguyện đã lặng lẽ rời đi, hiện trường sạch sẽ gọn gàng, không có đến một mảnh giấy vụn.
Cuộc thỉnh nguyện “25/4” được cộng đồng quốc tế gọi là cuộc thỉnh nguyện hòa bình và lý tính nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tuy nhiên, tập đoàn Giang Trạch Dân của ĐCSTQ lại bóp méo sự việc này thành “bao vây Trung Nam Hải” và phát động cuộc bức hại toàn diện đối với Pháp Luân Công vào ngày 20 tháng 7 năm đó. Từ đó, tất cả các điểm luyện công ở các tỉnh, thành phố, quận huyện, thôn làng trên toàn quốc đều có những kẻ tà ác trong công an, đồn cảnh sát, cộng đồng, ủy ban cư dân theo dõi và kiểm tra, thậm chí còn theo dõi đến tận nhà.
Trước ngày 25 tháng 4 năm 1999, thành phố tôi có hàng chục điểm luyện công, dù là trong nội thành hay vùng nông thôn, đâu đâu cũng có thể nghe thấy tiếng nhạc luyện công du dương êm tai.
Ngày 20 tháng7 năm 1999 (“20/7”), Trung Cộng tà ác đã phát động cuộc bức hại rợp trời dậy đất nhắm vào Đại Pháp. Khi đó, tà ác thao túng tất cả các đài truyền hình, đài phát thanh, và các cơ quan tuyên truyền tung tin dối trá không kể ngày đêm để mê hoặc và lừa gạt thế nhân. Cuộc bức hại của tà ác diễn ra ngông cuồng hết mức trên khắp cả nước, không đâu không có. Ra đường đi xe, tại các nút giao thông, các bến xe, hành khách đều bị kiểm tra nghiêm ngặt.
Ban đầu, tôi nghĩ mãi mà không sao hiểu được cuộc bức hại này. Ngày 22 tháng 7 năm 1999, tôi và chồng đến thủ phủ tỉnh để thỉnh nguyện theo luật. Xe khách đi được nửa đường thì có công an chặn đầu, bắt tất cả mọi người trên xe xuống để kiểm tra. Tôi nói với chồng: “Họ có dụng ý khác, không được xuống xe.” Bên tai bỗng có một giọng nói: “Hai con cứ an tâm ngồi yên.”
Mãi vẫn không có ai giục chúng tôi xuống xe. Sau này, tôi mới ngộ ra là Sư phụ đã chụp lồng bảo hộ cho hai chúng tôi, khiến người khác không nhìn thấy chúng tôi. Tôi mở cửa sổ xe nhìn ra ngoài thấy trên mặt đất có đặt Pháp tượng của Sư phụ, hành khách xuống xe đang xếp hàng, kẻ ác bắt họ giẫm lên Pháp tượng một cái, mạ Sư phụ một câu thì mới cho lên xe, không giẫm không mạ lỵ thì không cho lên xe. Số không được lên xe có mười mấy người.
Tôi và chồng đến cổng Tỉnh ủy, hai bên cổng lớn có cảnh sát vũ trang bồng súng đứng gác, không cho vào. Chồng tôi giảng chân tướng cho người cảnh sát vũ trang đứng gác. Cảnh sát vũ trang nói: Các vị mau rời đi, nếu vượt qua tôi một bước là sẽ bị bắt đấy, đây là ý của cấp trên. Tại nơi cao nhất trong khu nhà Tỉnh ủy, một cụm ba chiếc loa cao tần vang lên, liên tục phát cái gọi là thông báo của Bộ Dân chính về việc cấm Pháp Luân Công, từng tốp cảnh sát vũ trang chạy tới, tay cầm khiên chống bạo động, khí thế hung hăng, xua đuổi các học viên Pháp Luân Công đến thỉnh nguyện. Xe cảnh sát hú còi inh ỏi, không khí vô cùng âm u khủng bố. Tôi và chồng đành phải quay về trong ngày.
Việc thỉnh nguyện ở tỉnh gặp trở ngại, lại còn rước thêm sự quản chế, canh giữ nghiêm ngặt của đồn cảnh sát, ủy ban cư dân, cảnh sát khu vực, và lãnh đạo cơ quan. Tôi và chồng bàn bạc: Ông ở nhà, tôi đi Bắc Kinh — ông có tầm ảnh hưởng lớn hơn tôi, họ thấy ông ở nhà thì sẽ yên tâm mà lơ đi. Chồng tôi đồng ý: Như vậy cũng tốt.
Ngày 17 tháng 10 năm 1999, tôi cùng mấy đồng tu đã hẹn sẽ thuê xe chuyên dụng đến ga tàu hỏa, rồi đi thẳng tới Bắc Kinh. Đến Phòng Khiếu nại Bắc Kinh, nhân viên trực ban ngày thường đã bị thay bằng công an cảnh sát. Họ hỏi chúng tôi từ tỉnh nào đến, chúng tôi nói thật với họ. Họ bảo: “Lên xe, tôi tìm chỗ giúp các vị giải quyết.” Họ chở chúng tôi đến Văn phòng Đại diện của tỉnh tại Bắc Kinh. Đến nơi, chúng tôi mới biết mình bị lừa.
Người của Văn phòng đại diện nói: “Các vị đến Bắc Kinh vừa tốn tiền vừa chịu khổ, tội gì chứ? Sư phụ các vị dựa vào bán sách kiếm tiền, ra nước ngoài hưởng phúc rồi, không quản các vị nữa đâu.” Tôi nói: “Hoàn toàn không phải như các ông nói. Sư phụ tôi ra nước ngoài là nhận lời mời đi nước ngoài truyền công truyền Pháp, phổ độ chúng sinh trong thiên hạ. Sư phụ tôi nếu muốn phát tài thì đâu cần phải bán sách, chỉ cần nói một câu, mỗi người cho tôi một đồng, cả nước hơn 100 triệu người luyện công, Sư phụ tôi đã là tỷ phú rồi. Nhưng Sư phụ chưa bao giờ đòi tiền của chúng tôi, chỉ dạy chúng tôi luyện công, tu tâm hướng thiện, làm một người tốt hơn nữa.”
Sau đó, công an địa phương bắt cóc chúng tôi đưa về trại tạm giam địa phương, giam giữ phi pháp mười mấy ngày, sau đó thả tôi về nhà.
4. Chứng thực Đại Pháp trong trận đại chiến chính tà
(1) Xả thân cứu người trong đại chiến
Ngày 1 tháng 10 năm 2000, tôi lại đến Bắc Kinh thỉnh nguyện. Lần này hẹn nhau cùng đi Bắc Kinh thỉnh nguyện tổng cộng có 14 người. Để tiện hỗ trợ, chia thành từng nhóm hai người. Hai chúng tôi vừa đi đến góc Tây Nam của quảng trường thì thấy góc Đông Nam quảng trường có một đội ngũ đi tới. Nhìn từ xa, mỗi hàng 4 người, khoảng hơn 20 hàng, hơn 100 người. Tay cầm dùi cui điện, chạy bộ về hướng cột cờ quảng trường.
Hai chúng tôi rảo bước chạy đến nơi, Quảng trường Thiên An Môn đã đông nghịt biển người. Là hàng ngàn hàng vạn đệ tử Đại Pháp từ khắp nơi trên cả nước đang duy hộ Đại Pháp. Còn có cảnh sát vũ trang, thường phục, cảnh sát. Nơi đây trở thành chiến trường chính của cuộc đại chiến chính tà. Hai chúng tôi cũng hòa vào biển người, cùng các đồng tu đồng thanh hô vang khẩu hiệu: “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp! Trả lại môi trường tu luyện cho chúng tôi! Trả lại sự trong sạch cho Sư phụ Lý Hồng Chí!”
Cảnh sát vũ trang, thường phục, cảnh sát dùng dùi cui điện đánh tới tấp về hướng có tiếng hô. Có học viên bị đánh đến nỗi mặt mũi bầm dập, mắt không nhìn rõ phương hướng, không thoát ra được khỏi vòng vây. Tôi thấy cảnh này, gắng sức rẽ đám đông, đến trước mặt kẻ ác nói: “Không được đánh người!” Lời chưa dứt, tên ác nhân trước mặt đã đấm thẳng vào mặt tôi, ngay lập tức mắt tôi không nhìn thấy gì nữa, nhưng cảm thấy dùi cui điện, nắm đấm không ngừng đánh vào đầu và lưng.
Tôi cảm thấy không trụ được nữa, có một đệ tử Đại Pháp trẻ tuổi xốc nách tôi, nói: “Cố lên không được ngã! Ngã xuống sẽ bị giẫm chết mất!” Cậu ấy vừa xốc nách tôi, vừa hô vang khẩu hiệu. Cảnh sát đánh chúng tôi càng hung hãn hơn, tôi nhất thời mất đi tri giác, nguyên thần ly thể bay lên không trung, nhìn xuống Quảng trường Thiên An Môn — Người đông thật! Dòng người như sóng biển nhấp nhô cuồn cuộn, tiếng hô khẩu hiệu của các học viên Pháp Luân Công đợt này nối tiếp đợt khác, kinh thiên động địa, vang thấu mây xanh. Nhịp độ bắt người của cảnh sát cũng đang tăng nhanh. Các học viên Pháp Luân Công nắm chặt tay nhau, hô vang khẩu hiệu, không để cảnh sát bắt người. Cảnh tượng tráng quan của cuộc đại chiến chính tà đó thật không sao diễn tả được bằng lời!
Người đệ tử Đại Pháp trẻ tuổi đó vẫn luôn xốc nách tôi, bọn cảnh sát cứ cầm dùi cui đánh mạnh vào cậu ấy. Thấy cậu ấy chịu đựng quá nhiều, nguyên thần của tôi quay về bản thể, hô vang khẩu hiệu.
Chúng tôi bị cảnh sát bao vây trùng trùng, bị bắt đưa đến một cái sân lớn gần quảng trường Bắc Kinh. Trong sân đã chật kín người thỉnh nguyện, từng người từng người đứng thẳng như những cây bút chen chúc nhau, hô vang khẩu hiệu đúng là rung chuyển trời đất. Cảnh sát lôi tôi từ trên xe vào trong cổng, một cảnh sát khác ghé tai viên cảnh sát này nói: Có người đang chụp ảnh hướng vào sân đấy. Viên cảnh sát này nghe xong liền chạy ngay ra ngoài. Tôi nói với các đồng tu xung quanh: Cảnh sát đi bắt người chụp ảnh rồi! Các đồng tu xung quanh bảo người chụp ảnh: Họ bắt cậu đấy, mau chạy đi! Người chụp ảnh nghe xong liền đi mất dạng, cảnh sát vồ hụt.
Tại sao tà ác lại sợ chụp ảnh? Những việc chúng bắt người ta làm đều là những việc không thể đưa ra ánh sáng. Sợ bị phơi bày, sợ mọi người biết chân tướng.
Tiếp đó, bên ngoài cổng có một chiếc xe khách lớn đi tới. Xe đầy người rồi thì chở đi giam giữ tại các trại tạm giam, trại giam, nhà tù ở các huyện ngoại thành Bắc Kinh. Xe đến một nơi, chỉ thấy trước cổng đặt một tấm bảng, trên đó có hai chữ: Đã kín chỗ. Lại đến một nơi khác, trên bảng vẫn là hai chữ: Đã kín chỗ. Từ khoảng 11 giờ trưa đến khoảng 6 giờ chiều, đưa đi mấy chỗ cũng không gửi được, lại quay về trong thành phố Bắc Kinh. Cuối cùng, tôi và đồng tu đi cùng bị giam tại Trại tạm giam Quận Tây Thành.
(2) Phẩm đức cao thượng, vui vẻ giúp người
Tại Trại tạm giam Bắc Kinh, nghe một đồng tu Bắc Kinh kể mấy câu chuyện:
Chuyện thứ nhất là, ở Bắc Kinh có hai vợ chồng đồng tu cao tuổi, con trai, con dâu và cháu nội cả nhà năm người đều tu luyện. Một tối nọ, hai ông bà ra ngoài giảng chân tướng, thấy các đệ tử Đại Pháp từ nơi khác đến thỉnh nguyện, có người ngủ ngoài trời trên vỉa hè hai bên đường, có người nghỉ trong cống ngầm, nhìn thấy mà xót xa một hồi lâu. Hôm sau, gọi con trai và con dâu đến, kể lại tình hình nhìn thấy tối qua, bàn bạc bán đi một căn hộ chung cư, để giúp các đồng tu từ nơi khác đến Bắc Kinh hộ Pháp. Con dâu nói, cứ bán căn nhà mới của chúng con đi, nhà mới bán được nhiều tiền. Hai ông bà cầm số tiền bán nhà, đi khắp hang cùng ngõ hẻm, tìm các đồng tu từ nơi khác đến, giúp họ giải quyết khó khăn về ăn ở.
Một chuyện nữa là, có một nữ đồng tu ngoại tỉnh, chồng làm việc ở Bắc Kinh. Khi bà đến thăm thân, thấy các đồng tu từ nơi khác đến Bắc Kinh đói thì gặm bánh bao khô, khát thì hứng nước máy uống, bà lập tức về cơ quan xin nghỉ việc, đến Bắc Kinh mở một quán ăn, ban ngày cung cấp canh nóng bánh bao nóng miễn phí cho đồng tu, buổi tối bàn ghế ăn được dọn sang một bên, trải chiếu và chăn đệm, để đồng tu nghỉ ngơi. Bà lại biết được tin cảnh sát nhốt các đệ tử Đại Pháp từ nơi khác đến thỉnh nguyện vào một hội trường lớn (tình cờ là phòng ở của bà và hội trường cửa sổ đối nhau, có khoảng hơn 200 người), bà vội vàng đưa nước khoáng và quẩy, bánh bao, bánh nướng, v.v. sang.
Lại có một chuyện nữa; vị đồng tu Bắc Kinh này còn kể rằng bà đã vào trại tạm giam bảy lần rồi; lần này đến 15 ngày được ra thì một đồng tu khác sẽ vào, bởi vì trại tạm giam này có kinh văn giả, đồng tu giả, đây đều là do tà ác an bài để phá hoại Pháp. Các đồng tu Bắc Kinh không muốn để các đồng tu từ nơi khác đến bị mắc lừa, nên họ luân phiên nhau vào đây.
Tôi nghe xong vô cùng cảm động, ban đêm có một giấc mơ, thấy Sư phụ từ trên cao hạ xuống, bay đến trước mặt tôi, tôi lòng đầy vui sướng nghênh đón Sư phụ tới. Sư phụ hỏi tôi: Thế nào là Phật? Tôi trả lời: Phật chính là người bảo vệ vũ trụ. Sư phụ gật đầu rồi đưa cho tôi tờ giấy thi đã gấp sẵn trong tay Ngài. Tôi nhận lấy còn chưa kịp xem thì đã tỉnh giấc.
Mấy ngày sau, vì người ta lục soát và tìm thấy chứng minh thư của đồng tu, nên bị giam giữ phi pháp 6 ngày tại trại tạm giam Bắc Kinh. Cục An ninh Nội địa địa phương lại bắt cóc chúng tôi đưa về trại tạm giam địa phương. Tôi bị kết án lao động cải tạo phi pháp một năm. Do kiểm tra sức khỏe không đạt, trại lao động từ chối nhận. Cảnh sát của Cục An ninh Nội địa táng tận lương tâm, chà đạp pháp luật, vẫn không thả tôi về nhà, không chịu chuyển hóa thì tiếp tục giam giữ ở trại tạm giam.
(3) Kiên tín Đại Pháp kiên định chính niệm
Trong thời gian ở trại tạm giam. Tôi kể lại những chuyện nghe được ở Bắc Kinh cho các đồng tu. Các đồng tu có người nghe xong, rưng rưng nước mắt cảm động nói: Đồng tu Bắc Kinh làm tốt thật. Chúng ta sau khi ra ngoài cũng phải làm chút việc lớn.
Có một lần, mười mấy đồng tu chúng tôi luyện công tập thể. Bị cảnh sát tuần tra phát hiện và báo cáo lên trưởng trại, trưởng trại sợ mất chức, thẹn quá hóa giận. Vào những ngày lạnh nhất của mùa đông, nước nhỏ giọt thành băng, trưởng trại ra lệnh cho cảnh sát ép mười mấy nữ học viên chúng tôi cởi bỏ áo bông và giày, đi chân trần, chỉ mặc một bộ đồ lót, đứng ở sân giám sát, thực thi “hình phạt đóng băng”. Đứng trên đất lạnh suốt ba tiếng đồng hồ, chúng tôi từ đầu đến chân lại không hề cảm thấy lạnh chút nào, đám cai trại nhìn mà trố mắt. Mười mấy người chúng tôi đều ngộ ra: Là Sư phụ từ bi đang chịu đựng thay cho chúng tôi, đang bảo hộ các đệ tử!
Trong thời gian bị giam giữ, cảnh sát vừa đấm vừa xoa, dùng đủ loại thủ đoạn đê hèn, hòng khiến tôi thỏa hiệp. Một hôm, trưởng trại tạm giam gọi tôi ra, khuyên tôi rằng: Lãnh đạo cơ quan con trai bà đang xác minh xem bà có còn luyện Pháp Luân Công không; nếu bà còn luyện, con trai bà sẽ không được đề bạt từ “Trưởng” đề bạt lên “Bí thư” đâu! Tôi nói tôi luyện công thân thể khỏe mạnh, không có bệnh, không phải nằm viện, không phải uống thuốc, tiêm thuốc, không gây phiền phức cho cơ quan, gia đình là việc đại hảo sự. Ông ta nói bà phải nghĩ đến tiền đồ của con cái. Tôi thầm nghĩ trong bụng; chức danh có chữ “Trưởng” là quản hành chính, chức danh “Bí thư” là quản đảng vụ của tà đảng, không đề bạt càng tốt. Trong tâm tôi chứa đựng Đại Pháp, từ bi uy nghiêm, khiến những mưu kế của chúng lần lượt thất bại.
(4) Đồng tu quên mình vì người khác đã cảm hóa tôi
Tại Trại tạm giam Bắc Kinh, những câu chuyện cảm động về mấy vị đồng tu quên mình vì người khác thật khiến người ta khâm phục, nội tâm tôi vô cùng cảm động. Tôi nghĩ, sẽ có một ngày, bất kể là có việc gì xả thân vì người khác, tôi cũng sẽ đứng ra, quyết không tiếc gì.
Tháng 1 năm 2003, tôi bước ra khỏi trại tạm giam, khôi phục tự do. Một buổi tối tháng 3, nghe tin mấy điểm tài liệu lớn ở địa phương đồng thời bị tà ác phá hoại, các đồng tu không xem được “Tuần báo Minh Huệ”, mất liên lạc với Minh Huệ Net, nên rất lo lắng.
Tôi ăn ngủ không yên, quyết định lập một điểm tài liệu nhỏ. Cân nhắc thấy có một nữ đồng tu trẻ tuổi tâm tính vững vàng, địa điểm gia đình rất thích hợp làm tài liệu, nhưng cô ấy trước đây chưa làm, tôi bèn tìm cô ấy bàn bạc, cô ấy nói cơ quan cô bị phá sản vì thiếu vốn. Tôi nói, hai chúng ta hợp tác, cô cung cấp địa điểm, tôi cung cấp vốn, lập ra điểm tài liệu. Chúng tôi bỏ ra 5.000 tệ mua một máy photocopy, lại mua vật tư tiêu hao và những thứ cần dùng, đi nơi khác tìm bản mẫu bắt đầu photocopy để cung cấp cho các đồng tu xung quanh. Một máy photocopy cung không đủ cầu, chúng tôi lại mua thêm một cái nữa. Để an toàn, khi mua vật tư tiêu hao, chúng tôi đều đến tỉnh lỵ và thành phố khác mua, lái xe đi đi về về. Tôi và một đồng tu khác gom góp 70.000 tệ, mua một chiếc xe hơi nhỏ, lại tìm một đồng tu có bằng lái xe, chuyên phục vụ cho điểm tài liệu.
Năm 2004, tôi thiết kế tỉ mỉ và xây dựng một mật thất nhỏ trong chái nhà mình để lập điểm tài liệu. Có một đồng tu kỹ thuật dạy tôi thao tác máy tính, giải quyết được những phiền phức vì phải đi xa tìm bản mẫu. Chức năng của điểm tài liệu nhỏ dần dần đầy đủ, sắm đủ thiết bị, nắm vững các loại kỹ thuật chế tác, có thể làm sách Đại Pháp, “Tuần báo Minh Huệ”, sách nhỏ chân tướng, bùa hộ mệnh chân tướng, thẻ hộ thân, đĩa quang chân tướng, khắc bùa hộ mệnh ngọc thạch, v.v., hơn nữa chất lượng tinh mỹ có thể sánh ngang với trình độ chuyên nghiệp. Phàm là những gì đồng tu cần để cứu người, bất kể là trong thành phố, hay ngoại thành, nông thôn, chỉ cần đề xuất, tôi đều có thể khắc phục khó khăn, hoàn thành đúng hạn với chất lượng cao. Có khi vì làm việc mà thức trắng đêm. Ngày hôm sau vẫn tinh thần sung mãn, không hề buồn ngủ. Sự siêu thường của tu luyện Đại Pháp là vạn phần chân thực.
Trong quá trình học kỹ thuật, làm tài liệu, thần tích rất nhiều. Sư phụ khai mở trí huệ cho tôi, một bà lão thất thập cổ lai hy chỉ có trình độ tiểu học, mà những thứ công nghệ cao lại có thể học là hiểu ngay; mùa hè nóng bức, thao tác trong căn phòng nhỏ kín mít, không được dùng thiết bị làm mát, nhưng lại không cảm thấy oi bức, thường xuyên có gió nhẹ hiu hiu thổi vào mặt; dự định in 100 tờ tài liệu, thì thuận tay lấy một xấp giấy trắng, in xong đếm lại, không thừa không thiếu, đúng 100 tờ, những chuyện lạ này không phải ngẫu nhiên một lần, mà là thường xuyên xảy ra — là Sư phụ thấy tôi bận không xuể, giúp tôi nâng cao hiệu suất làm việc. Để thuận tiện cho các đồng tu ở xa, tôi đã giúp họ lập điểm tài liệu và hỗ trợ về vốn.
Trong thời gian này, có một đồng tu ở nơi khác, chồng cô ấy bị bắt, cô ấy dẫn hai đứa con không dám ở nhà, đến chỗ chúng tôi lánh nạn. Việc của đồng tu chính là việc của mình, đặc biệt là mang theo con nhỏ thì càng phải sắp xếp cho tốt. Tôi biết có một đồng tu, có vườn rau rộng hai mẫu. Trong vườn có dựng mấy gian nhà, bèn bảo ba mẹ con cô ấy đến đó ở trước, đừng ra ngoài. Việc này lại không được để lộ. Đồ dùng và nhu yếu phẩm hàng ngày, mọi thứ cần thiết đều chuẩn bị đầy đủ. Có người chuyên trách điều phối.
Ví dụ còn có một đồng tu ở nơi khác, vì khi tà ác bắt ông ấy, hai vợ chồng già cùng nhảy tường trốn đi, kết quả bà vợ bị gãy chân. Đồng tu địa phương tôi tìm chỗ ở cho họ, mọi sinh hoạt của họ đều có đồng tu địa phương lo liệu, điều phối. Ví dụ như các nữ đồng tu trẻ khỏe đến đây, thì sắp xếp họ vào xưởng chế biến thực phẩm do đồng tu mở, nam đồng tu thì sắp xếp vào xưởng chế biến bột mì do đồng tu mở v.v. Còn có mấy nữ đồng tu trẻ ở nơi khác, chúng tôi sắp xếp chỗ ở cho họ, còn tìm việc làm thuê cho họ.
Những việc chúng tôi làm trên đây, so với những gì đồng tu Bắc Kinh làm còn kém rất xa. Đương nhiên, những điều này đều không tách rời khỏi sự an bài của Sư phụ. Cũng chỉ có đệ tử tốt do Sư phụ dạy dỗ ra, mới có thể làm được đến bước này.
5. Kiên tu Đại Pháp trong cuộc bức hại của tà ác
(1) Lưu lạc khốn cùng lại bị truy nã, kiên trì cứu người
Một ngày tháng 10 năm 2013, có một nữ đồng tu mang máy in đến nhà tôi, nói vài câu rồi đi. Đi chưa được 3 phút, mấy cảnh sát mặc thường phục đột nhiên xông vào nhà tôi. Lúc này, tôi đang bê máy in chuẩn bị cất đi, đám cảnh sát đi đến trước mặt tôi, dương dương tự đắc nói: “Lần này, bà còn gì để nói nữa?” Ý là đã bắt được quả tang.
Tôi mỉm cười ung dung, bê máy in nâng cao lên trước ngực, đường đường chính chính nói: “Vì chúng sinh có tương lai tốt đẹp, đây là sứ mệnh của tôi!” Lúc này, một đám người đông đảo gồm Ủy ban Chính trị và Pháp luật, Phòng 610, Đội An ninh Nội địa, đồn cảnh sát, cộng đồng v.v., nối đuôi nhau xông vào sân, định bắt cóc tôi. Tôi dùng trí huệ dẫn dụ tất cả bọn họ ra ngoài cổng lớn, bản thân đứng ở cổng, một chân trong cổng một chân ngoài cổng, tay vịn cổng đứng, lớn tiếng giảng chân tướng cho họ và hàng xóm, người qua đường đang vây xem.
Đang giảng, tôi bất ngờ đóng sầm cổng lớn lại, nhanh chóng cài then cửa, sau đó nói với chồng tôi đang đứng bên cạnh sợ run cả người: “Họ muốn bắt tôi, tôi phải rời khỏi đây.”
Tôi nhảy nhanh theo bậc thang lên chái nhà, rồi từ chái nhà nhảy sang gian nhà chính. Nhà tôi là kiểu nhà ngói cũ, tôi leo lên nóc nhà rồi trèo xuống, nhảy sang nóc nhà kho cũ nát bên cạnh; lại từ nhà kho leo lên nhà, bước lên nóc, xuống mái hiên; nhảy liên tiếp qua hai ngôi nhà mái bằng, hai bức tường bao, bình an thoát thân. Lúc đó, tôi đã là người hơn 70 tuổi. Trong quá trình trèo nhà leo nóc, tôi cảm thấy dưới chân có một luồng năng lượng thầm nâng đỡ mình, khiến tôi đi lại như đi trên đất bằng, là Sư phụ từ bi đã lặng lẽ bảo hộ tôi chuyển nguy thành an.
Đám người ngoài sân ngẩn ra một lúc rồi nhảy tường vào sân, tưởng tôi trốn ở chỗ kín đáo nào đó. Lục lọi hồi lâu không tìm thấy tung tích tôi đâu, cả đám người nhìn nhau ngơ ngác, không sao hiểu nổi, vô cùng kinh ngạc: “Chẳng lẽ bà lão này có thể lên trời xuống đất sao?”
Sau khi rời nhà, tôi đến nhà một đồng tu cao tuổi quen biết ở hai ngày. Vì vẫn ở trong thành phố, tà ác lục soát khắp nơi, lại phát lệnh truy nã trên các trang web, nên tôi lại chia tay đồng tu đi đến nơi khác.
Các đồng tu khác giới thiệu một điểm tài liệu, điểm tài liệu này nằm dưới lòng đất, rất kín đáo, bên trong có bảy cái máy, là máy in màu 330 được lắp ráp từ linh kiện còn tốt của những máy hỏng và ba chiếc máy tính xách tay cũ – vị đồng tu này có kỹ thuật, đã tận dụng linh kiện tốt từ các máy hỏng để lắp ráp thành.
Tháng 10, đúng dịp làm lịch bàn Minh Huệ, hàng ngày tôi học Pháp, luyện công, làm lịch bàn, in tài liệu, còn chia sẻ cùng đồng tu. Dùng máy 330 làm lịch bàn hoàn toàn dùng chế độ in ngược, tuy in chậm nhưng bản in ra rõ nét, màu sắc tươi sáng. Mỗi ngày trước khi mở máy đều câu thông với máy in, sau đó đặt lệnh in từ máy thứ nhất, lần lượt đặt lệnh cho các máy tiếp theo, khi đặt lệnh đến máy thứ bảy thì máy thứ nhất cũng đã in xong. Lại quay vòng từ máy thứ nhất đến máy thứ bảy, dù là chất lượng hay số lượng đều rất tốt. In xong lịch bàn, đồng tu kỹ thuật gọi các đồng tu trong nhà đến đóng thành quyển, rồi bí mật chuyển ra ngoài, phát cho các đồng tu.
Cuối tháng 12, việc in lịch bàn cũng xong, đồng tu địa phương biết tôi lưu lạc, muốn tôi quay về, bèn tìm cho tôi một căn nhà hai tầng do đồng tu tự xây. Tôi về, thấy diện tích căn nhà rộng rãi, rất thích hợp để làm biểu ngữ. Nội dung biểu ngữ có tám loại, loại nhiều chữ dài 1m6, rộng khoảng 30cm. Loại ít chữ khoảng 1m2. Đồng tu kỹ thuật khắc bản, mua vải. Biểu ngữ làm xong, có cái treo trên cây, trên cột điện để chấn nhiếp tà ác. Còn trang bị thêm các loại máy in, máy tính, máy khắc bùa hộ mệnh bằng ngọc thạch, rồi cung cấp cho các đồng tu địa phương dùng để giảng chân tướng cứu người.
(2)Trong cuộc bức hại, kiện Giang Trạch Dân lấy quyền thay luật
Năm 2015, tôi gửi đơn lên Viện Kiểm sát Tối cao, Tòa án Tối cao kiện cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Giang Trạch Dân đã lấy quyền thay luật mà trắng trợn phát động cuộc bức hại tàn khốc đối với các học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc. Loại bức hại tàn khốc mất hết nhân tính này đến nay vẫn tiếp diễn.
Cuộc bức hại thi hành mật lệnh của Giang: “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính, hủy hoại thân thể”, “đánh chết thì tính là tự sát, trực tiếp hỏa táng, không cần tra thân phận”, v.v… Biết bao người đã chết thảm trong cuộc bức hại này, biết bao người bị bức hại đến tàn phế, biết bao người bị tống vào tù, trại lao động cải tạo, biết bao người bị bắt cóc, giam giữ phi pháp dài hạn, biết bao người bị buộc phải lưu lạc khắp nơi, biết bao người bị bức ép đến cảnh vợ con ly tán, biết bao người bị làm cho thất nghiệp, lại có biết bao người bị thu hoạch nội tạng sống.
Hễ là người kiên trì tu luyện Pháp Luân Công ở đại lục, gần như không mấy ai mà không bị bức hại, còn liên lụy đến người nhà, bạn bè, thậm chí cả đồng nghiệp hàng xóm, hàng mấy trăm triệu người bị đẩy vào khổ nạn to lớn, mức độ tàn khốc của cuộc bức hại là không thể tưởng tượng nổi.
Vì tôi lưu lạc khắp nơi, không tiện lộ diện ở địa phương, nên khi gửi thư kiện tôi nhờ người khác gửi hộ, gửi liền sáu lá thư đều không đến được trạm cuối là Tòa án Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao – có cái bị bưu điện giữ lại làm mất, có cái bị mất tại sân bay khi vận chuyển hàng không. Tôi suy ngẫm một chút, sau khi đọc sách học Pháp tôi ngộ được một lý: Việc của mình thì mình làm, để người khác làm thì là người khác tu chứ không phải mình tu. Tôi lại in một bản, đích thân gửi tại bưu điện gần đó. Mấy tiếng sau, tôi mở máy tính kiểm tra, thư đã đến trạm Loa Hà. Mấy tiếng sau nữa, lại kiểm tra thấy đến Trịnh Châu. 16 giờ ngày hôm sau đến Bắc Kinh. Khoảng 17 giờ nhân viên bưu tá họ Lý đã chuyển đến Viện Kiểm sát Tối cao. Xem xong tôi thấy yên tâm, lần này đã thành công rồi.
Nhiều đồng tu cũng gửi mấy lần không thành công. Có một đồng tu trẻ biết dùng máy tính nói: Dùng máy tính gửi trực tiếp vào hòm thư của họ. Sau khi biết tin này, tôi và một đồng tu khác nhờ đồng tu trẻ hướng dẫn, rồi giúp các đồng tu xung quanh viết đơn, đánh máy gửi trực tiếp vào hòm thư. Làm vậy an toàn hơn nhiều so với gửi bưu điện. Vì vậy, các đồng tu quanh chúng tôi ai nấy đều dùng tên thật họ thật, địa chỉ nhà, số điện thoại viết rõ ràng rành mạch gửi lên Viện Kiểm sát Tối cao, Tòa án Tối cao kiện tên đầu sỏ Giang Trạch Dân và tà ác địa phương đã lục soát nhà, giam giữ vô cớ.
Nhiều đồng tu còn bắt đầu viết đơn kiện. Dùng máy tính gửi trực tiếp vào hòm thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương. Tôi cũng gửi một đơn kiện tới Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương. Nội dung là:
◎ Tôi vì bệnh mà tu luyện Pháp Luân Công, có được một thân thể khỏe mạnh, chiểu theo nguyên tắc Chân-Thiện-Nhẫn để làm người tốt, làm việc gì biết nghĩ đến người khác trước, gặp mâu thuẫn thì tìm ở chính mình, tiết kiệm được chi phí thuốc men cho cơ quan, gia đình hạnh phúc, láng giềng hòa thuận. Một pháp môn tốt như vậy, Giang Trạch Dân lại nhất quyết muốn diệt trừ cho sướng tay.
◎ Sau khi Đại Pháp bị đàn áp, tôi kiên trì tín ngưỡng, không sợ cường bạo, giảng chân tướng cho bà con lối xóm, nhằm để đông đảo người dân lương thiện phân biệt chính tà, thiện đãi Đại Pháp cứu nạn và các đệ tử Đại Pháp tu tâm hướng thiện, từ đó đều có thể đắc phúc báo, có được một tương lai tươi sáng. Mọi lời nói hành động của tôi đều nằm trong phạm vi quyền tự do ngôn luận, xuất bản, tín ngưỡng của công dân được quy định tại điều 35, 36 “Hiến pháp”, không vi phạm bất kỳ điều khoản nào của pháp luật, hoàn toàn là hợp pháp và thiện ý.
◎ Nhưng, dưới sự đàn áp của Giang Trạch Dân, tôi lại liên tục bị bức hại, chịu đủ giày vò, dù đã ở tuổi bát tuần, mà lại phải lưu lạc khắp nơi, có nhà mà không thể về. Người bạn đời 80 tuổi của tôi, vì nhiều lần đối mặt với cảnh tượng khủng bố mà phải sống trong sợ hãi thời gian dài, dần dần trở nên lẩn thẩn, khiến tôi vô cùng lo lắng. Tôi thỉnh cầu Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương quan tâm đến án oan của tôi, chiếu theo quy định của Hiến pháp, hủy bỏ án oan và lệnh truy nã đối với tôi, để tôi được về nhà đoàn tụ với gia đình, chăm sóc người bạn đời lẩn thẩn tuổi xế chiều. Thỉnh cầu Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương làm rõ chân tướng, trả lại sự trong sạch cho Pháp Luân Đại Pháp và Sư phụ Lý Hồng Chí, trả lại tự do tín ngưỡng cho đệ tử Đại Pháp, đưa kẻ đầu sỏ bức hại người lương thiện là Giang Trạch Dân ra trừng trị trước pháp luật.
Lần gửi này không phải chuyện nhỏ, Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã chuyển lá thư này về Tỉnh ủy, Tỉnh ủy chuyển xuống Thành ủy, Thành ủy chuyển xuống Quận ủy, sau đó Quận ủy tìm hai con tôi nói: Mẹ các người viết đơn kiện, kiện lên Viện Kiểm sát Tối cao, lại kiện lên Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, nếu không gọi bà ấy về thì còn kiện lên Liên Hợp Quốc. Hai người không tìm được mẹ về thì đừng quay lại đi làm nữa.
Vì nửa đời sau của các con, tôi không buông bỏ được chấp trước vào tình, nên đã về quê. Sau khi về, tà ác tức tối điên cuồng, đưa tôi đến Nhà tù Tân Hương. Tôi không nghe những lời tà thuyết vô lý của chúng, chúng liền nói tôi không phục tùng quản giáo. Họp lớn phê bình, họp nhỏ điểm danh, dùng đủ lời lẽ ác độc như “ỷ già lên mặt”. Người nhà đến thăm ba lần, không lần nào được gặp. Lúc mới vào phải đeo thẻ trắng là diện khảo sát, sau nói thái độ tôi không tốt bắt đeo thẻ đỏ là diện quản lý nghiêm ngặt. Khi ra trại, văn bản phê duyệt viết “thái độ không đúng đắn, không phục tùng quản giáo”. Họ coi việc kiên trì tu luyện, không chuyển hóa là “thái độ không đúng đắn”.
6. Duy hộ Pháp trong trận quyết chiến cuối cùng
(1)Đề cao nhận thức, bước ra khỏi con người phản bức hại
Ngày 20 tháng 7 năm 1999, tà ác bức hại Đại Pháp rợp trời dậy đất xảy ra tại Trung Quốc. Chiến trường chính là trên Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh. Hơn 100 triệu người tu luyện trên toàn quốc suy nghĩ trăm ngàn lần vẫn không sao lý giải được. Tôi mang theo nghi hoặc đi đến tỉnh thành, rồi lên Bắc Kinh thỉnh nguyện. Mang theo nhân tâm, tâm tranh đấu rất mạnh: Tại sao Pháp Luân Công giúp thân thể khỏe mạnh lại không cho luyện? Đối với người, đối với mình, đối với quốc gia chỉ có trăm điều lợi mà không một điều hại!
Đến tháng 7, tháng 8 năm 2015, sau 16 năm, trong cuộc phản bức hại, tôi kiện tên đầu sỏ Giang Trạch Dân lên Viện Kiểm sát Tối cao, Tòa án Tối cao: Tại sao lại ra mật lệnh “ba tháng tiêu diệt”, “bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính, hủy hoại thân thể”, “đánh chết tính là tự sát, trực tiếp hỏa táng, không cần tra thân phận”, v.v… nhưng khi đó tôi ôm giữ tâm thái thù hận rất mạnh.
Trong 26 năm phản bức hại, trong khi kiên trì làm tốt ba việc, tôi đã đề cao nhận thức, minh bạch rằng điều có thể dựa vào là kiên tín, là Pháp, là chính niệm và năng lực của đệ tử chân tu, là lý trí và trí huệ đến từ Pháp; tôi cần triệt để bước ra khỏi con người, dùng mặt thần, dùng bộ phận đã tu thành để phát chính niệm, thanh lý cựu thế lực và sinh mệnh tà ác, tà linh cộng sản, các nhân tố vật chất bại hoại trong không gian vũ trụ, và những thứ bị thanh trừ còn sót lại hiện đã vô cùng ít ỏi. Hiện tại là sự giãy chết cuối cùng, sự điên cuồng mất trí của chúng.
(2)Hình thành chỉnh thể phát chính niệm triệt để giải thể tà ác
Trận đại quyết chiến chính tà do thiên tượng dẫn động này, mục tiêu giai đoạn cuối của tà ác chĩa thẳng vào Sư phụ ở Hoa Kỳ. Nhưng chiến dịch lần này khác với Pháp nạn thời đầu “20/7” từ 26 năm trước, chúng ta không thể giống như tu luyện thời kỳ đầu mà pha lẫn sự đấu tranh của người thường, mang theo tâm lý thù hận, hoặc tâm thái và phương thức làm cách mạng của Đảng Cộng sản; mà phải dùng thiện niệm, chính niệm, từ bi mạnh mẽ, coi bản thân là người tu luyện, triển hiện trạng thái nên có của một đệ tử Đại Pháp.
Nhớ lại thời đầu pháp nạn “20/7”, đồng tu hải ngoại đi vào quốc hội, đến đại sứ quán giảng chân tướng, ngồi thiền trước cửa đại sứ quán v.v…, tinh thần kiên trì bền bỉ suốt những năm qua bất kể đông hay hè, tấm lòng duy hộ Đại Pháp đó, đã giúp giảm bớt áp lực bức hại cho đồng tu đại lục, phẩm đức cao thượng đó khiến người ta kính phục.
Ngày nay trong trận đại quyết chiến chính tà này, đồng tu đại lục chúng ta dốc toàn lực phát chính niệm lại càng là trách nhiệm không thể thoái thác. Huống hồ gốc cuộc đại bức hại lần này là ở Bắc Kinh! Tà ác từ Bắc Kinh không ngừng chuyển năng lượng đen sang Mỹ quốc. Cho nên không chỉ bản thân bước ra khỏi nhân tâm, làm cho tốt, thì vẫn chưa đủ, mà còn phải cùng các đồng tu xung quanh hình thành chỉnh thể.
Nhóm học Pháp của chúng tôi khi thì ba người, khi thì năm người. Trước khi học Pháp, đầu tiên là phát chính niệm. Mỗi ngày phát chính niệm bốn lần, ý niệm mang theo cuộc khởi kiện ở hải ngoại này. Còn phải mỗi ngày thêm một tiếng đồng hồ dành riêng cho việc phát chính niệm. Thanh trừ tà ác là để Chính Pháp cứu người. Biểu hiện tại con người nơi đây là kẻ ác tấn công ác ý vào Đại Pháp, nhưng biểu hiện tại không gian khác, là một cuộc đại chiến kịch liệt giữa chính và tà.
Trong bài thi lớn của trận đại quyết chiến này, không thể giống như thời kỳ đầu, thời kỳ giữa của Pháp nạn năm xưa. Sau khi xem kinh văn “Pháp nạn” của Sư phụ, tôi nghĩ, Sư phụ là không gì không thể làm được, nhưng vì sao phải đối mặt gánh chịu áp lực to lớn? Sư phụ đang gánh chịu thay cho chúng ta, đang gánh chịu cho chúng sinh vũ trụ. Sáng kiến vĩ đại, uy đức thần thánh của Sư phụ, dù dùng cành cây trong thiên hạ làm bút, dùng nước sông ngòi, hồ, biển làm mực, cũng không viết hết được hồng ân hạo đãng của Sư phụ. Sư phụ trao Đại Pháp của vũ trụ cho chúng ta, chúng ta trong khi đồng hóa với Đại Pháp của vũ trụ mà được tịnh hóa, thăng hoa. Chúng ta nên báo đáp Sư phụ như thế nào?
Chúng ta phải triệt để buông bỏ nhân tâm, triệt để một lần nữa bước ra khỏi con người, triệt để buông bỏ hưởng thụ cuộc sống thoải mái, dồn nhiều thời gian và tinh lực hơn vào cuộc quyết chiến Chính Pháp, triển hiện thần tích trong việc chứng thực Đại Pháp, duy hộ Đại Pháp. Giành lấy tương lai tươi sáng cho nhân loại. Thực hiện thệ ước trước khi hạ thế. Chứng thực với chúng sinh trong vũ trụ rằng bản thân là một lạp tử của Đại Pháp. Trở thành người bảo vệ, bậc Đại Giác Giả thực sự chịu trách nhiệm đối với các sinh mệnh chính của vũ trụ.
Thời gian còn lại, bất kể dài ngắn, xin Sư phụ yên lòng, đệ tử sẽ làm tốt ba việc như xưa nay vẫn làm. Đặc biệt trong trận đại quyết chiến cuối cùng, đệ tử sẽ học Pháp tốt, nắm chắc thời gian cứu người, bất kể là người thân, họ hàng, đồng nghiệp, bạn bè, người qua đường…, đều phải tận tâm tận lực giảng thanh chân tướng cứu người. Không quên lời dạy của Sư phụ, phải học Pháp tốt, làm tốt những gì bản thân cần làm, đi tốt đoạn đường tu luyện cuối cùng mà Sư phụ an bài, không phụ ơn Sư phụ, viên mãn theo Sư phụ trở về!
(Bài viết được chọn đăng nhân dịp Pháp hội Trung Quốc lần thứ 22 trên Minh Huệ)
Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/11/28/502976.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/11/29/231511.html


