Bài viết của đệ tử Đại Pháp ở Thụy Điển

[MINH HUỆ 24-09-2025]

Con kính chào Sư phụ tôn kính!

Xin chào các bạn đồng tu!

Tôi tên là Sofia, đến từ Stockholm. Tôi bắt đầu bước vào con đường tu luyện từ năm 2001. Hôm nay, tôi muốn chia sẻ với các đồng tu những thể ngộ và thể hội của tôi trong việc loại bỏ chấp trước.

Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân :

“[Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người”.

Trong quá trình tu luyện, tôi đã không biết cách loại bỏ chấp trước trong một thời gian dài. Tôi có thể hướng nội ở một mức độ nhất định, nhưng khi phát hiện ra một chấp trước hoặc một vấn đề, tôi lại không biết phải làm gì tiếp theo, cũng không biết làm thế nào để thực sự loại bỏ nó. Tôi cảm thấy có chút hơi lạc lõng. Khi chấp trước không thể loại bỏ, chúng liên tục can nhiễu, làm chậm tiến trình tu luyện của tôi. Vì không biết cách loại bỏ chấp trước, tôi thậm chí còn sợ chúng hoặc cố gắng che giấu chúng, chẳng hạn như về hình thức là tự kiềm chế bản thân và cố gắng biểu hiện là một người tốt.

Sau này, tôi nhận ra rằng đó là do chính niệm của tôi chưa đủ. Tâm trí tôi không chỉ tập trung vào việc tu luyện, mà còn trộn lẫn nhưng niệm đầu muốn giải quyết vấn đề một cách hình thức. Theo thời gian, suy nghĩ này dần được thay thế bằng một tâm hồn thanh tịnh hơn và một mong muốn mạnh mẽ hơn, tôi muốn tu luyện và đề cao tâm tính khi đối mặt với những khảo nghiệm.

Sự thật đã chứng minh rằng chấp trước không thể bị loại bỏ bằng cách tự lý giải hay khuyến khích bản thân trở nên từ bi và bao dung hơn. Làm như vậy chỉ có tác dụng ức chế trên bề mặt.

Sư phụ giảng:

“Tôi nói mọi người này, bao nhiêu năm ấy, tôi luôn luôn nói rằng năng lực đệ tử Đại Pháp là to lớn phi thường, rất nhiều người không tin, vì cũng không để chư vị nhìn thấy. Chư vị trong tác dụng của chính niệm, hết thảy những gì bên thân chư vị và ở tự thân chư vị là sẽ phát sinh biến hóa, chư vị xưa nay đều không nghĩ thử làm xem”. (Giảng Pháp vào ngày Kỷ niệm 20 năm truyền Pháp, Giảng Pháp tại các nơi XI)

Đến một giai đoạn tu luyện nhất định, tôi đã thử trực tiếp loại bỏ một chấp trước, kết quả phát hiện nó thực sự có hiệu quả. Từ đó về sau, tôi tiếp tục thực hành theo phương pháp này, nó đã giúp ích rất nhiều cho sự tiến bộ trong tu luyện của tôi.

Quá trình này thường bắt đầu như thế này: Tôi nhận thấy có điều gì đó không ổn với mình, vì trong cơ thể xuất hiện một phản ứng hoặc cảm giác phụ diện nào đó. Tôi cảm thấy lo lắng, tim đập nhanh, thậm chí rất nhanh; cũng cảm thấy có thứ gì đó đè lên đường hô hấp, khiến việc hít vào trở nên khó khăn. Thế là tôi bắt đầu hướng nội tìm, đôi khi tự hỏi bản thân một số vấn đề, cố gắng hiểu rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra. Dần dần, tôi có thể nhìn thấy được chấp trước và vấn đề thực sự tồn tại. Đôi khi nó mang một hình dạng, đôi khi nó trông giống như bản thân tôi, nhưng thực ra không phải tôi, mà là một cơ thể được cấu thành từ vật chất phụ diện. Một khi tôi nhận ra vật chất này, tôi có thể nhìn thấy hình dạng cụ thể của nó từ xa. Tôi có thể bước ra khỏi vật chất này, dùng ý niệm bắt lấy nó và loại bỏ nó. Hoặc tôi có thể chỉ dùng ý niệm để thanh trừ nó. Đôi khi nó tan biến thành khói, đôi khi nó tạc nổ, hoặc đơn giản là biến mất theo một cách nào đó. Sau đó tâm tôi lập tức cảm thấy nhẹ nhàng và bình tĩnh hơn, hơi thở cũng trở nên thuận và thông suốt hơn. Một vài chấp trước cần thanh trừ nhiều lần, loại bỏ từng tầng từng tầng.

Để phát hiện và nhìn nhận rõ ràng chấp trước, nhiều khi tôi cần hướng nội thật sâu, liên tục tự hỏi vấn để của bản thân cho đến khi tìm ra nguyên nhân gốc rễ. Thường thì đó là nỗi sợ chết hoặc sợ rời xa Thần. Một khi tôi nhận ra điều này, không cần tôi ngay lập tức tiêu trừ, nó sẽ tự biến mất, tâm và đại não tôi đều sẽ trở nên thanh tĩnh. Khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy bản thân và Thần [thể] kết hợp với nhau, rất nhiều sự việc trở nên rõ ràng hơn trong tâm trí tôi.

Đôi lúc, khi tôi cố gắng trừ bỏ chấp trước, chúng lại kháng cự, nhất là khi tôi không đủ chính niệm. Chúng sẽ nói dối tôi, nói rằng: “Bạn không thể sống thiếu điều này”, “Bạn không biết mình là ai nếu không có điều này”, “Suy nghĩ như vậy là tự nhiên”, “Không còn cách nào khác”, hoặc những cách nói khác để khiến tôi do dự. Tôi đã học được cách không mắc bẫy những trò lừa này, nhưng tôi cũng nhận ra rằng mình cần phải ở trong trạng thái chính niệm đầy đủ, ổn định mới làm được điều này.

Sư phụ giảng:

“Bởi vì đó là một chướng ngại lớn nhất, chẳng ai muốn từ trong mâu thuẫn mà nhìn lại bản thân, cảm thấy rằng mình gặp phải thống khổ rồi, gặp phải bất hạnh rồi mà còn phải tìm [nguyên nhân] ở chính mình, xem xem bản thân chỗ nào làm không đúng, thật sự rất khó làm được. Nếu như ai mà có thể làm được [điều đó], tôi nói rằng trên con đường này, trên con đường tu luyện này, trong sự vĩnh viễn của sinh mệnh chư vị, sẽ không có gì có thể cản được chư vị, thực sự là như vậy”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Singapore)

Đoạn Pháp này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi khi lần đầu đọc vào nhiều năm trước. Cá nhân tôi thể nghiệm được hướng nội thực sự là một Pháp bảo. Khi một người tu luyện có chính niệm thì thực sự không gì có thể ngăn cản họ. Giờ đây, tôi càng tin tưởng tầm quan trọng của việc loại bỏ chấp trước. Tôi hiểu rằng chỉ cần tôi quyết tâm, thì tôi nhất định có thể làm được. Thực ra, làm được điều này không khó như tôi nghĩ ban đầu. Chỉ cần tôi làm theo chỉ dẫn của Sư phụ, không tạp nhiễm những suy nghĩ của người thường thì mọi việc thường sẽ diễn ra thuận lợi.

Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ.

Tôi làm thiết kế bố cục toàn thời gian ở The Epoch Times Thụy Điển. Một trong những phụ san của tờ báo chỉ có một biên tập viên duy nhất và anh ấy không phải là người tu luyện. Phụ san này được tạo ra không lâu sau khi tôi đến làm việc ở tòa soạn. Thông thường, chúng tôi sử dụng các mẫu để đẩy nhanh quá trình thiết kế, nhưng sau một thời gian, tôi nhận ra rằng biên tập viên không thích ứng với cách làm việc này, vì vậy mỗi phụ san đều cần một bố cục thiết kế đặc thù. Tôi thiếu kiến thức đào tạo chính thức về thiết kế đồ họa và kinh nghiệm về thiết kế bố cục. Đối với tôi, đây là một khảo nghiệm thực sự. Mỗi lần tôi đều không xác định được thiết kế bố cục sẽ trông như thế nào trong tuần đó và điều này khiến tôi lo lắng. Tệ hơn nữa, biên tập viên thường không tuân thủ đúng thời hạn, điều này rút ngắn thời gian hoàn thành thiết kế bố cục của tôi và đôi khi buộc tôi phải làm việc vào cuối tuần, thời gian mà tôi thường muốn dành cho gia đình.

Nhiều lần, tôi cảm thấy bất lực và khó chịu, nghĩ rằng kế hoạch cuộc đời mình đang bị người biên tập này điều khiển. Sau vài tuần khó chịu mà tình hình vẫn không cải thiện, tôi quyết định phải hướng nội tìm một cách nghiêm túc hơn.

Khi hướng nội, tôi thấy một sinh mệnh trông giống hệt tôi, nhưng lại chứa đầy ích kỷ và những suy nghĩ phụ diện. Sinh mệnh này bực bội và bất mãn vì có người “can thiệp” vào cuộc sống của mình, bắt mình làm thêm giờ vào cuối tuần và chiếm dụng thời gian dành cho gia đình. Thấy được sự tự tư và nhân tâm này, tôi quyết định loại bỏ nó. Sau khi loại bỏ nó, tâm tôi lập tức bình tĩnh lại. Tôi nhận ra rằng bất luận trên bề mặt tôi đúng hay sai, hay kết quả cuối cùng ra sao, nhiệm vụ chính của tôi là loại bỏ chấp trước và đề cao tâm tính. Đôi khi, tôi bị mê hoặc bởi những suy nghĩ nông cạn rằng “tôi có lý”, mà từ đó bỏ lỡ cơ hội tu luyện chân chính.

Một lần khác, tôi phát sinh mâu thuẫn với một đồng tu ở chỗ làm, điều này khiến tôi cảm thấy không cách nào bình tĩnh được. Đúng lúc đó đến giờ phát chính niệm, sau khi phát chính niệm xong, tôi lập tức hướng nội tìm, và hai cái tôi đã đối thoại.

A: Chuyện gì xảy ra vậy? Bạn gặp phải vấn đề gì?

B: Trong tâm tôi rất tức giận, vì ‘biểu hiện như thế như thế’ của đồng tu đó làm tôi khó chịu.

Tôi để hai cái tôi nói ra suy nghĩ của mình và tiếp tục lắng nghe.

A: Còn gì nữa không?

B: Tôi cảm thấy mình bị coi thường, không được lắng nghe và không được coi trọng.

A: Tôi hiểu rồi.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tâm tôi tĩnh lặng như nước, hơi thở thông suốt, mọi cảm xúc phụ diện đều tan biến. Nghĩ đến đồng tu kia, tâm tôi không còn xao động nữa.

Ở chỗ làm, đôi khi tôi phải thay thế hình ảnh do biên tập viên chọn để đảm bảo chất lượng. Có lần, biên tập viên đã đưa hình ảnh Thiên sứ vào bài phê bình sách, nhưng về mặt kỹ thuật thì hình ảnh này không đạt yêu cầu. Hình ảnh đó là tác phẩm của một nghệ sĩ đương đại, khắc họa ba Thiên sứ dưới hình hài đứa trẻ. Tôi cảm thấy hình ảnh này có chút trần tục, “khiến những đứa trẻ trông kém phần tâm linh và giống những đứa trẻ bình thường hơn”. Cuốn sách nói về những Thiên sứ hộ mệnh, tôi tự hỏi, “Làm sao ba đứa trẻ tinh nghịch này có thể bảo vệ nhân loại?” Những suy nghĩ phụ diện về hình ảnh này và biên tập viên bắt đầu xuất hiện: “Biên tập viên này lúc nào cũng đưa ra những hình ảnh kỳ lạ”, “Những Thiên sứ này không có Thần tính”, v.v. Tôi thực sự tức giận, nên đã thay thế bằng một bức tranh vẽ trên trần Cung điện Versailles, và tin rằng hình ảnh trong bức tranh này xứng đáng với danh hiệu Thiên sứ hơn. Tôi cảm thấy bố cục đưa ra thật đẹp.

Tuy nhiên, sau khi báo được in, tôi nhận được email từ biên tập viên hỏi ai là người quyết định thay thế hình ảnh, ví dụ như trong bài viết về Thiên sứ. Tôi bình tĩnh trả lời rằng chủ biên văn hóa, nhà xuất bản hoặc nhà thiết kế bố cục (chính tôi) đều có thể quyết định điều đó, nhưng trong trường hợp này là tôi đã thay đổi hình ảnh. Sau khi gửi email, tôi ngay lập tức nhận ra rằng bản thân cần phải điều chỉnh một số thứ. Tôi nhớ lại lúc tôi thay đổi hình ảnh, tôi nhớ lại những suy nghĩ phụ diện của mình, tôi thấy mình đang ngồi trước máy tính, với vẻ mặt u ám, không nghi ngờ gì nữa, là khuôn mặt u ám! Trong tâm tôi nghĩ: “Ồ, thì ra mình là người như vậy”.

Tôi hiểu ngay rằng đây chính là thể hiện vật chất của những suy nghĩ phụ diện mà tôi đã phát ra trong quá trình chỉnh sửa hình ảnh. Tôi bình tĩnh và kiên quyết thanh trừ nó, và rồi tôi thấy một hình bóng ôn nhu, xinh đẹp đang ngồi trước máy tính. Hình bóng ấy sáng ngời, gần như trong suốt, mang nét mặt dịu dàng, tràn đầy lòng nhân ái. Tâm tôi trở nên an tĩnh, thân thể tràn ngập yêu thương và từ bi. Tôi cảm tạ Sư phụ đã cho tôi nhìn thấy rõ bản thân mình thông qua người biên tập và cho tôi trải nghiệm quá trình này.

Tôi càng nhận thức rõ ràng hơn rằng ai đúng ai sai trên bề mặt đều không quan trọng, điều quan trọng là quá trình tu luyện và loại bỏ những yếu tố phụ diện trong tâm. Nói cách khác, tôi vẫn nghĩ rằng hình ảnh cần phải được thay đổi, nhưng suy nghĩ của tôi về vấn đề này đã trở nên bình thản hơn, không còn những yếu tố phụ diện trước đây.

Tôi nhận ra rằng trong quá trình tu luyện, đôi khi chúng ta gặp phải những điều bề ngoài có vẻ phi lý, nếu chúng ta đo lường chúng bằng lý của người thường, thì thường sẽ cảm thấy bị đối xử bất công và ủy khuất. Điều quan trọng nhất là đừng bị hãm trong những câu hỏi hời hợt “ai đúng ai sai”, mà hãy xem xét những nhân tâm và chấp trước đang nảy sinh trong chúng ta và loại bỏ chúng. Tu luyện không phải là sống một cuộc đời của con người, mà là con đường hướng về Thần. Do đó, những điều chúng ta gặp phải có thể không nhất thiết phù hợp với logic và quan niệm thông thường của con người.

Trước đây, tôi thường lo lắng và sợ hãi khi đối mặt với chấp trước vì không biết cách loại bỏ chúng. Giờ đây, tôi có thể bình tĩnh thanh trừ chúng. Đối với tôi, thực ra rất đơn giản: Tôi có thân thể con người này, trong quá trình tu luyện, tôi gặp phải nhiều tình huống mà từ đó phơi bày rõ chấp trước; tôi nhận ra chúng, loại bỏ chúng, sau đó tiến về phía trước. Mục đích của tôi là có thêm Pháp lực để trợ Sư chính Pháp và cứu độ chúng sinh.

Trong Kinh văn “Thời khắc then chốt nhìn nhân tâm”, Sư phụ giảng:

“Thời khắc then chốt thêm vào bất kỳ tư tâm tư niệm nào đều là đang khởi tác dụng mà tà ác muốn”.

Tôi luôn biết rằng mình vẫn còn tư tâm, ngay cả khi đang làm các hạng mục Đại Pháp. Tôi từng nghĩ rằng buông bỏ chấp trước này là một phần của tu luyện, nhưng tôi đã không đặt nó lên hàng đầu. Thông thường, ưu tiên của tôi là hoàn thành công việc. Tuy nhiên, khi đọc đoạn Pháp này, tôi nhận ra rằng mình tuyệt đối không được để những tư tâm xen vào các hạng mục Đại Pháp. Vì vậy, tôi bắt đầu chú ý kỹ đến những niệm đầu và phản ứng của bản thân khi làm các việc của Đại Pháp.

Ví dụ, trong cùng thời gian đó, tôi bắt đầu làm việc về kỹ thuật và sân khấu cho buổi biểu diễn Shen Yun tại Stockholm. Quá trình này thường xuất hiện những thách thức và vấn đề không thể giải quyết ngay lập tức. Tôi cảm thấy rất áp lực. Vì vậy, tôi đã hướng nội tìm để biết tại sao tôi cảm thấy áp lực. Tôi phát hiện ra rằng tôi lo lắng về việc không thể hoàn thành trách nhiệm của mình, sợ rằng việc gì đó do tôi phụ trách sẽ có sai sót, từ đó gây ra vấn đề cho buổi biểu diễn, khán giả hoặc Shen Yun. Tại sao tôi lại cảm thấy sợ đến vậy? Đó là vì tôi sợ bản thân mình gặp rắc rối, sợ phải chịu đựng nỗi xấu hổ khi gây ra hoặc không giải quyết được vấn đề. Cuối cùng, đây kỳ thực là tư tâm, là chấp trước bảo hộ bản thân. Tôi nhận ra đây chính xác là điều tôi cần loại bỏ, vì vậy tôi tập trung vào việc thanh trừ nỗi sợ hãi này và những nhân tố tự tư bên trong, hiệu quả rất tốt, mặc dù tôi phải chia tách và thực hiện nhiều lần.

Những thói quen trước đây của tôi pha chút tư tâm đã cho tôi ảo tưởng “tôi đang kiểm soát mọi việc”. Sau khi giải quyết mọi việc theo cách này trong một thời gian dài, tôi đã không biết cách tiếp cận mọi việc theo cách nào khác nữa, cũng sợ rằng nếu tôi buông bỏ tâm lý tự tư, tôi sẽ mất đi “cảm giác kiểm soát” đó. Lúc đầu, tôi cảm thấy như mình đang làm việc với đôi mắt nhắm nghiền. Tuy nhiên, trong quá trình này, khi tôi dần buông bỏ tâm lý tự tư, tôi bắt đầu nhận được một sức mạnh lớn hơn. Trong sức mạnh này, tôi chỉ là một phần nhỏ, một mảnh ghép của bức tranh, là một phần để hoàn thiện bức tranh tổng thể mà thôi. Tôi không còn dùng tự ngã của mình để cản trở sức mạnh này nữa; tôi đã hòa nhập với nó. Tôi cảm thấy mình giống một đệ tử Đại Pháp chân chính hơn, có thể cảm nhận được sức mạnh của Đại Pháp thông thấu khắp toàn thân. Toàn bộ cơ thể tôi cảm thấy nhẹ nhõm, vui vẻ, ấm áp và bình tĩnh.

Tôi có thể phân biệt rõ ràng giữa trạng thái có chính niệm khi ở trong Pháp với trạng thái bị trói buộc bởi quan niệm người thường. Ngay cả khi tôi đang ở trong trạng thái rất chính niệm cũng có thể đột nhiên khởi lên một tạp niệm. Khi tôi đi theo tạp niệm này, tâm người thường của tôi bắt đầu bị dẫn động, đủ loại niệm đầu liên tiếp kéo đến, như lo lắng, bực bội, hoang mang, v.v. Điều này có nghĩa là một chấp trước nào đó đã bị kích hoạt, khiến tôi rơi vào cảnh giới người thường.

Sư phụ giảng:

“Không thể không học Pháp mà lại làm công tác Đại Pháp, ấy chính là người thường làm công tác Đại Pháp; cần phải là đệ tử Đại Pháp làm công tác Đại Pháp mới được; đây là yêu cầu đối với chư vị”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Quốc tế Washington, D.C, Đạo hàng).

Tôi đã đọc đoạn Pháp này nhiều lần và lý giải được ở một mức độ nhất định. Nhưng giờ tôi hiểu rằng chỉ học Pháp và có chính niệm trong phần lớn thời gian hôm qua, rồi lại dùng một tâm thái thông thường hiện tại để làm việc thì vẫn chưa đủ. Tôi phải ở trong trạng thái chính niệm, ở trong Pháp mà làm mọi việc phù hợp với Pháp, đương nhiên tốt nhất là thời thời khắc khắc đều luôn ở trong Pháp.

Câu nói “Hành trình chính là đích đến” thường được mọi người nhắc đến nghe có vẻ sáo rỗng. Nhưng khi nhìn lại con đường tu luyện của mình, tôi mới hiểu được ý nghĩa của nó. Khi bạn hiểu được điều gì đó rồi thì không còn cảm thấy khó nữa; khó là ở việc đột phá giới hạn của con người và tiếp tục bước về phía trước trong mê. Tôi chân thành biết ơn vì được làm đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp. Tôi sẽ nỗ lực hết mình để xứng đáng với danh hiệu “Đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp”.

Con xin cảm tạ Sư phụ! Cảm ơn các bạn đồng tu!

(Bài chia sẻ chọn lọc từ Pháp hội Bắc Âu năm 2025)

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/9/24/499811.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/9/28/230008.html