Bài viết của đệ tử Pháp Luân Đại Pháp ở Hà Bắc, đại lục
[MINH HUỆ 16-11-2023] Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp từ năm 1996. Sau khi tôi đọc hết quyển sách “Chuyển Pháp Luân” trong một lần, tất cả những nghi vấn của tôi đều được giải khai. Lúc đó tôi quyết định sẽ theo Sư phụ tu luyện, theo Sư phụ về nhà.
Không lâu sau khi tu luyện, tôi được các đồng tu giới thiệu làm phụ đạo viên tình nguyện. Với vai trò là phụ đạo viên, tôi phải dẫn dắt mọi người tập trung luyện công và hồng Pháp ngoài trời vào mỗi buổi sáng, đương nhiên tôi chịu trách nhiệm cầm máy ghi âm và giăng biểu ngữ giới thiệu Pháp Luân Công mỗi ngày, còn phải có nghĩa vụ dạy luyện công. Khi ấy vì hồng dương Đại Pháp, chúng tôi luyện công bên đường. Việc xe cộ và người qua đường không ảnh hưởng đến việc luyện công của tôi, chỉ cần tiếng nhạc luyện công vang lên, tôi liền được năng lượng bao quanh và tiến nhập vào một trạng thái mỹ diệu phi thường, dường như rời khỏi không gian này, căn bản không nghe thấy tiếng xe cộ lưu thông rất gần bên đường. Lúc đó, tôi rất trân quý cơ hội luyện công tập thể.
Vì liên tục có người mới đến học công nên tôi có trách nhiệm dạy công. Trong những ngày đầu tiên, tôi vẫn rất vui vẻ dạy công. Nhưng sau mấy ngày, trong tâm tôi có chút không thoải mái. Vì người đến học công ngày càng nhiều, tôi không thể tham gia luyện công tập thể trong vài ngày và cũng không có ai thay thế tôi. Nếu tiếp tục như vậy, chẳng phải sẽ chậm trễ việc luyện công tập thể của tôi sao? Càng nghĩ như vậy càng cảm thấy khó chịu, tôi khó chịu đến mức muốn suy sụp. Tôi nhìn thấy vật chất khó chịu đó là một khối màu đen, tôi đột nhiên bình tĩnh. Nó không phải là tôi, là nó khó chịu, không phải tôi khó chịu, nó là thứ vị tư – sợ bản thân chậm trễ.
Tôi nghĩ: Được rồi, chẳng phải ngươi khó chịu phải không? Sợ chậm trễ phải không? Vậy ta sẽ dạy công mỗi ngày, để ngươi khó chịu đến chết mới thôi! Thế là, khi tôi tiếp tục dạy công, cảm giác khó chịu đó dần dần biến mất, trong tâm tôi cũng cân bằng. Lúc này, có đồng tu đề nghị tôi nên tìm một số đồng tu thay phiên dạy công với tôi, thay vì để tôi tự dạy một mình. Đây là lần đầu tiên tôi có nhận thức nông cạn về “tư”, nhưng trải nghiệm tu luyện này không khiến tôi thực sự hiểu và chú ý đến tư tâm.
Điều thực sự khiến tôi nhìn thấy bức tranh toàn cảnh về “tư tâm” là khi tôi đến Bắc Kinh chứng thực Pháp vào ngày 2 tháng 10 năm 2000.
Tôi quyết định đến Tháp Thiên An Môn để luyện công và chứng thực Pháp. Tôi bước đến giữa tòa tháp, quay mặt về phía quảng trường và chuẩn bị luyện Bài công pháp thứ hai. Nhưng cánh tay tôi như hai ngọn núi lớn không nhấc lên nổi, tôi đã nhiều lần cố gắng nhấc cánh tay lên, nhưng dường như hai cánh tay không nghe theo sự điều khiển của tôi và không nhấc lên được. Tôi đứng đó bất động hơn hai tiếng đồng hồ, và tôi thấy một số cảnh sát vũ trang cách đó không xa đang nhìn chằm chằm vào tôi. Cuối cùng, tôi thất vọng rời khỏi tòa tháp và trở về khách sạn.
Sau khi về tới khách sạn, tâm trạng tôi thất vọng đến cực điểm. Trong đầu tôi liên tục xuất hiện một số suy nghĩ: Lần này ngươi đã bỏ lỡ cơ hội viên mãn! Sẽ không có cơ hội nữa đâu! Ngươi không thể viên mãn! Tương lai của ngươi thật bi thảm! Những suy nghĩ này đè nặng lên tôi như một ngọn núi lớn, tôi vùng vẫy dưới “ngọn núi” và tuyệt vọng cực độ! Lúc này, một tín tức yếu ớt truyền lại: Sư phụ không giảng như vậy! Tín tức yếu ớt đó dần dần thức tỉnh tôi, tôi nghĩ: Đúng rồi! Sư phụ không giảng như vậy! Tôi lập tức thanh tỉnh trở lại, ngay giây phút ấy, tôi nhìn ra đó là tư tâm của chính mình.
Khi tôi đến Bắc Kinh là để nói lời công bằng cho Đại Pháp, nói về sự thanh bạch của Sư phụ, chứ không hề nghĩ đến sự viên mãn cá nhân. Suy nghĩ muốn viên mãn cá nhân này là tự tư, căn bản không phải tôi. Ngay giây phút đó tôi đã hiểu, hóa ra tất cả những gì tôi làm trước đây đều lấy danh nghĩa vì Đại Pháp, thực chất là do tư tâm đang làm, căn bản không phải vì Đại Pháp. Lúc đó tôi bắt đầu thực sự nhận ra sự tồn tại của “tư tâm”, vì vậy trong tu luyện bắt đầu chú ý tu bỏ nó đi.
Không lâu sau, tôi lại đi Bắc Kinh chứng thực Pháp, lần này bị bắt cóc đến trại tạm giam. Bởi vì tôi phản đối bức hại, cai ngục đã buộc trói tôi vào một cánh cửa cũ, khiến thân thể không cử động được. Thời gian kéo dài, đủ mọi thống khổ khiến tôi rất khó nhẫn chịu, đặc biệt là thắt lưng, đau đớn đến mức như gãy ra vậy. Lúc này tù nhân trưởng phòng giam bước đến trước mặt tôi và nói: “Pháp Luân đang chuyển!” Tôi lập tức minh bạch, sự khó chịu của tôi là vì Pháp Luân đang chuyển, đang thanh lý, có lẽ tôi đang chịu đựng vì sự đắc cứu của những người ở đây! Nghĩ đến đây, nội tâm tôi khởi lên niềm vui vô hạn. Tức khắc, sự đau đớn quanh thân tôi hoàn toàn biến mất trong chớp mắt, tôi cảm thấy bản thân mỹ diệu như đang lơ lửng trên mây, thoải mái không thể tả, thân thể nhẹ nhàng. Đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự mỹ hảo của cảnh giới vô tư! Lúc này, cai ngục đến cởi trói cho tôi, và tôi được vô tội và ra khỏi tù. Tôi cảm nhận được sự từ bi bảo hộ của Sư phụ!
Một năm sau, tôi lại đi Bắc Kinh chứng thực Đại Pháp. Vì tôi không liên lạc với đồng tu trong một thời gian dài, không nhận được kinh văn mới của Sư phụ, không minh bạch một số Pháp lý, nên đã phối hợp với tà ác và bị bắt cóc. Ngày hôm đó tôi đến trung tâm Quảng trường Thiên An Môn vào sáng sớm, và nâng hai tay lên bắt đầu luyện bài “Pháp Luân Trang Pháp”. Tôi đang luyện công với hai mắt nhắm khẽ, một người đến vỗ nhẹ lên vai tôi và nói một cách tử tế: “Này anh! Về nhà luyện nhé!” Tôi mở mắt nhìn, đó là một cảnh sát mặc thường phục, ông ấy ra hiệu cho tôi rời đi, và tôi đã rời đi. Lúc này có một chiếc xe cảnh sát đỗ cách đó không xa, người cảnh sát ngồi trên xe gọi tôi lại và hỏi: “Có phải luyện Pháp Luân Công không?” Tôi trả lời: “Phải!” Họ bắt cóc tôi và đưa tôi đến Văn phòng Công an ở phía Tây Quảng trường Thiên An Môn.
Sau đó tôi bị bắt cóc đến trại lao động địa phương để lao động phi pháp. Đối với các học viên Pháp Luân Công mà nói, thì trại lao động của tà đảng Trung Cộng đúng là địa ngục trần gian, những gì các học viên Pháp Luân Công ở đó phải chịu đựng là cảnh ‘tù ở trong tù’, phải đối mặt với đủ loại tra tấn và bức hại bất cứ lúc nào, mỗi thời mỗi khắc đều chịu đựng áp lực tâm lý to lớn. Tôi nghĩ mình không phải đến ở tù mà là giải thể tà ác, và giảng chân tướng cứu những người ở đây. Tôi đến vì cứu độ chúng sinh trong thế giới của tôi, tôi không thể để chúng sinh của mình thất vọng, tôi đến thế gian là vì họ, vì đắc Pháp tu luyện. Trong hoàn cảnh đối mặt với tà ác, ngày nào tôi cũng vui vẻ thoải mái và tâm thái bình hòa.
Một tối nọ, chúng tôi bị trại lao động ép buộc xem những lời dối trá vu khống Pháp Luân Công của Trung Cộng. Sau khi xem xong, cảnh sát yêu cầu chúng tôi thảo luận. Sau khi cảnh sát nói những điều vô nghĩa trên bục, thì yêu cầu chúng tôi nói về nhận thức của bản thân. Tôi cảm thấy mình nên đứng lên để phơi bày những lời dối trá của tà ác. Tôi cảm thấy như mình đang ngồi trên một Pháp Luân lớn và Pháp Luân nhanh chóng đưa tôi lên. Bấy giờ, cảnh sát bảo tôi nói về nhận thức của mình, tôi đứng lên, trong đầu lập tức xuất hiện ba điều nhận thức, chính xác là nhắm vào những lời dối trá của Trung Cộng. Tôi chiểu theo ba điều đó để bác bỏ từng lời dối trá của tà ác. Tôi vừa dứt lời, người cảnh sát đó ngồi sụp xuống như quả bóng cao su xì hơi, sau khi nói vài câu để che đậy, vội vàng thông báo: “Cuộc họp giải tán!”
Còn có lần, cảnh sát gọi mấy học viên đã bị “chuyển hóa” đến với ý đồ “chuyển hóa” tôi, lúc đó Sư phụ điểm ngộ tôi tận dụng cơ hội này để cứu họ. Tôi nói với họ rằng: “Không phải các anh đến ‘chuyển hóa’ tôi, mà là Sư phụ an bài tôi đến cứu các anh!” Tôi bắt đầu nói về nhận thức của mình và hậu quả đáng sợ của sự “chuyển hóa”. Rõ ràng là họ bị xúc động và bắt đầu nói với tôi về một số nhận thức trong tu luyện, tôi biết họ đã bắt đầu quay trở lại với Đại Pháp. Trong hoàn cảnh tà ác đó, tôi đã dựa vào sự kiên định tin tưởng đối với Sư phụ, dựa vào niềm tin trách nhiệm với Pháp, trách nhiệm với chúng sinh, dưới sự bảo hộ từ bi của Sư phụ, tôi đã bước qua những tháng ngày gian nan đó.
Khi từ trại cải tạo của tà ác trở về nhà, tôi mới biết chức vụ của mình đã bị đơn vị khai trừ bất hợp pháp, tôi đành phải ra vùng khác tìm một công việc. Khi mới đến một môi trường mới, bản thân phải tạo dựng mọi thứ từ đầu, nếu muốn tu tốt bản thân và hoàn thành sứ mệnh, nhất định phải học Pháp tốt. Chỉ có học Pháp tốt mới có thể tu tốt bản thân và bước đúng trên con đường tu luyện. Sư phụ điểm ngộ tôi học thuộc Pháp. Ban đầu tôi có chút sợ khó, nhưng khi nghĩ đến sự điểm ngộ và khích lệ của Sư phụ, tôi đã kiên định chính niệm: Cho dù gặp phải bất kỳ khó khăn gì, tôi nhất định phải học thuộc hết bộ Đại Pháp vũ trụ này. Tôi nhận thấy chính niệm học thuộc Pháp của mình thực sự vững như kim cương! Tôi cũng minh bạch rằng tất cả những can nhiễu xuất hiện trong khi học thuộc Pháp đều là giả tướng.
Nhờ sự gia trì của Sư phụ, tôi dùng chính niệm cường đại và tận dụng thời gian rảnh rỗi trong tám tháng làm việc để học thuộc toàn bộ quyển sách “Chuyển Pháp Luân”. Trong quá trình này xuất hiện đủ mọi can nhiễu, nhưng nhờ chính niệm mạnh mẽ nên hầu như không xảy ra bất kỳ can nhiễu nào. Trong khi học thuộc Pháp, Pháp lý không ngừng triển hiện cho tôi, tâm tôi ngày càng thuần tịnh, thực sự cảm nhận rằng Sư phụ luôn ở bên tôi! Vào thời điểm đó, bất kể khi nào và ở đâu, hễ tôi đả tọa liền tức khắc tĩnh lại, cảm giác thân thể và tứ chi không tồn tại, chỉ còn mỗi đầu não của bản thân.
Tôi thấy trên đầu mình có công trụ vừa cao vừa mỏng, nhìn không thấy đỉnh. Lúc này tôi cảm thấy một tầng “tự không phi không”, và một cảnh giới dường như có vật chất và phi vật chất. Ở đó, nhìn không thấy sinh mệnh hữu hình, tôi muốn đột phá nó nhưng không thể. Tôi biết bản thân tu luyện đang dừng ở cảnh giới đó. Đồng thời, tôi phát hiện trong trường không gian đại não mình có một thứ gì đó giống như “cột trụ”, tư duy của tôi giống như “sợi tơ mỏng”, luôn xoay quanh “cột trụ” đó. Tôi minh bạch rằng những thứ như “tự không phi không, vật chất và phi vật chất” đó chính là “tư” của vũ trụ cũ, “cột trụ” trong trường không gian của tôi chính là thể hiện cái “tư” trong suy nghĩ của tôi. Hóa ra cái “tư” này lại xuyên thấu đến vi quan như vậy!
Tôi bắt đầu xem xét kỹ, liệu tất cả phương thức tư duy phát xuất ra từ đại não có xoay quanh cái “tư” đó không, kết quả là, tôi lập tức quy chính nó trong Pháp và suy nghĩ chiểu theo yêu cầu của Đại Pháp. Tôi ngộ rằng, trong quá trình tu luyện, Sư phụ muốn chúng ta thay đổi phương thức tư duy vị tư vị ngã của vũ trụ cũ, ban cho chúng ta phương thức tư duy hoàn toàn mới của một sinh mệnh trong vũ trụ mới: Đó là ‘vô tư vô ngã, tiên tha hậu ngã’.
Cái “tư” này không những ngăn cản tôi đề cao và đồng hóa với Đại Pháp, mà còn can nhiễu tôi cứu người, đôi khi bản thân cũng không nhận ra. Từ trong Đại Pháp, tôi hiểu được nguồn gốc thực sự của con người trên thế gian hiện nay. Trong quá trình cứu người, tôi thường cảm thấy thương tâm và lặng lẽ rơi nước mắt vì sự mê mất của con người. Còn nhớ hồi đầu mới đắc Pháp, mỗi lần học Pháp đến đoạn Sư phụ giảng: “Trọng điểm của Phật gia rơi vào tu Thiện của Chân Thiện Nhẫn. Vì tu Thiện có thể tu xuất tâm đại từ bi; một khi xuất hiện tâm từ bi, thì [thấy] chúng sinh rất khổ, do vậy phát sinh nguyện vọng muốn phổ độ chúng sinh.” (Bài giảng thứ nhất, Chuyển Pháp Luân), nội tâm tôi chấn động, và đồng cảm mạnh mẽ: Cứu độ chúng sinh!
Nhưng do tôi tu luyện không tinh tấn, thường bị tư tâm can nhiễu, không đạt đến yêu cầu cứu người của Sư phụ, mất đi rất nhiều cơ duyên cứu người. Trong thời gian dịch bệnh (viêm phổi Vũ Hán) virus Trung Cộng, tôi đã giảng chân tướng cho một người nọ, bảo cô ấy niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo”, có thể tránh được thảm họa dịch bệnh, cô ấy không mấy chấp nhận. Tôi nói: “Tôi muốn tốt cho chị.” Cô ấy có vẻ vẫn chưa chấp nhận điều đó. Trước khi rời đi, tôi nói từ tận đáy lòng rằng: “Tôi hy vọng tất cả những người tốt đều có thể vượt qua kiếp nạn ôn dịch này!” Cô ấy bị xúc động và tỏ ra rất thân thiện, chấp nhận chân tướng tôi giảng. Sau này gặp lại, cô ấy đều gọi tôi là “Anh Pháp Luân Công!”.
Ban đầu tôi không hiểu, tôi nói muốn tốt cho cô ấy, nhưng cô ấy lại không chấp nhận chân tướng. Vì sao khi tôi nói “hy vọng tất cả những người tốt đều có thể vượt qua kiếp nạn ôn dịch này”, cô ấy liền thay đổi thái độ và chấp nhận chân tướng? Bây giờ tôi mới hiểu rằng khi tôi nói muốn tốt cho cô ấy, ở một mức độ nào đó, vẫn là một dạng tư tâm, nhưng khi tôi nói hy vọng tất cả những người tốt đều có thể vượt qua kiếp nạn, thì đó mới là vô tư, mới phù hợp với sự vô tư của Đại Pháp, mới có thể cứu độ thế nhân.
Chỉ khi trong tâm đong đầy tất cả thế nhân, mới có thể thực sự cứu độ chúng sinh.
(Phụ trách biên tập: Lý Minh)
Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://big5.minghui.org/mh/articles/2023/11/16/不斷修去私心的體會-468158.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/3/7/216120.html
Đăng ngày 24-03-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.