Bài viết của Chánh Tín, môt học viên Pháp Luân Đại Pháp tại Trung Quốc
[MINH HUỆ 18-06-2023] Với mối duyên tiền định trong tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, có một quãng thời gian tôi và đồng tu A (bí danh) giống như chị em ruột vậy. Chúng tôi trợ giúp và khích lệ lẫn nhau tinh tấn tiến lên trong tu luyện. Tuy nhiên, trước những thử thách, khổ nạn và khảo nghiệm, cũng như đối mặt với cuộc bức hại và phỉ báng của tà ác đối với Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi đã đưa ra những lựa chọn khác nhau và dẫn đến hệ quả rất khác nhau.
Bài chia sẻ này nhằm mục đích chứng thực sự mỹ hảo và thần kỳ của Đại Pháp, cũng như để mọi người biết đến hồng ân hạo đãng của Sư tôn, đồng thời, bài viết cũng bày tỏ sự tiếc nuối sâu sắc đối với những đồng tu đã đi sai đường. Tôi mong rằng những đồng tu không đủ kiên định với đức tin có thể coi câu chuyện của tôi như một vết xe đổ để không mắc phải những sai lầm tương tự. Tôi cũng mong những đồng tu đã đi chệch hướng có thể xem đây như một giáo huấn đau thương, khi nhận ra mình đã lạc lối thì hãy nhanh chóng quay trở lại chính đạo.
Duyên tiền định giữa các đồng tu
Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp khi sống ở Bắc Kinh vào năm 1998. Đầu năm 1999, tôi trở về quê hương và trong năm đó, tôi mất liên lạc với các đồng tu khác, kể cả các đồng tu địa phương; vì vậy tôi vẫn ở trong trạng thái độc tu và tâm tình luôn lo lắng. Đặc biệt là sau ngày 20 tháng 7 năm 1999, khi Đại Pháp phải chịu bức hại, tôi cảm thấy việc tìm được các đồng tu và hình thành chỉnh thể càng thêm cấp bách.
Một lần, trong lúc tôi đang giảng chân tướng về Đại Pháp cho mọi người, một bà lão nói với tôi rằng bà có một người họ hàng tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, đang sống trong một ngôi làng cách nơi tôi ở khoảng 15 cây số. Người ta nói rằng ở ngôi làng đó có rất nhiều người tập Pháp Luân Công. Ngay khi nghe được thông tin này, tôi không thể chờ đợi thêm, liền đạp xe đi và tìm được người họ hàng của bà ấy. Người phụ nữ đó nói với tôi: “Tôi là cán bộ thôn. Mặc dù tôi biết Đại Pháp là tốt nhưng do áp lực quá lớn nên khi cuộc bức hại mới bắt đầu, tôi đã phải từ bỏ tu luyện. Tôi biết thôn chúng tôi vẫn có những người đang lặng lẽ tu luyện ở nhà. Để tôi tìm hiểu xem họ có muốn gặp anh hay không nhé.”
Thế là mình tôi hồi hộp ngồi đợi ở nhà cô ấy. Một lúc sau, cô ấy quay lại và bảo: “Anh đi theo tôi, bà ấy muốn gặp anh.” Khi tôi bước vào sân nhà đồng tu A, đã thấy bà đứng trên bậc cửa, vui mừng khôn xiết và chắp tay trong thế hợp thập chào đón tôi.
Đồng tu A hơn tôi 10 tuổi. Năm đó bà ấy đã ngót 60 nhưng trông trẻ hơn tuổi thực rất nhiều. Đồng tu A mang lại cho tôi cảm nhận rằng bà là người tháo vát, gọn gàng, nhiệt tình, chu đáo, biết đối nhân xử thế và ăn nói khéo léo. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn lúc bấy giờ, cuộc gặp gỡ hiếm hoi này làm cho tôi cảm thấy phấn chấn, còn hơn cả việc được gặp lại người chị đã nhiều năm không gặp của mình.
Chúng tôi vừa gặp đã thân, trò chuyện với nhau rất hợp ý. Từ đó, chúng tôi kết thành duyên phận bền chặt với tư cách là các đồng tu. Tôi thường đến nhà bà ấy để giao lưu chia sẻ. Sau đó, bà ấy giới thiệu tôi với đồng tu B (bí danh), người trẻ hơn tôi vài tuổi. Qua đồng tu B, tôi biết được rằng bất chấp cuộc bức hại vẫn có khá nhiều học viên không từ bỏ tu luyện; tuy nhiên, dưới áp lực cao, trên căn bản họ đều ở trong trạng thái độc tu.
Đồng tu B và tôi bắt đầu đi từ thôn này đến thôn khác để liên lạc với các đồng tu và thành lập một nhóm học Pháp để mọi người có thể học Pháp và giao lưu với nhau. Sau đó, theo gợi ý của đồng tu B, tôi đã liên lạc với cựu đồng tu điều phối trong thành phố để chúng tôi có thể liên lạc với những học viên khác hình thành chỉnh thể và bắt kịp tiến trình Chính Pháp. Đương nhiên, hết thảy những việc này đều là nhờ sự an bài khéo léo của Sư tôn.
Đồng tu A đối mặt quan nạn gia đình
Trước khi tu luyện, bà A toàn thân chỗ nào cũng có bệnh. Mặc dù bà đã đi khắp nơi để tìm cách chữa trị nhưng đều vô ích. Khi bà bắt đầu tu luyện Đại Pháp vào năm 1997, nhiều căn bệnh đã tự khỏi. Cả chồng và các con bà đều cảm nhận được sự mỹ hảo và kỳ diệu của Đại Pháp và họ rất ủng hộ việc tu luyện của bà. Các con đều đã lập gia đình và không sống cùng bà. Chồng bà kém bà hai tuổi, dựa vào tay nghề của mình, ông đã mở một xưởng thủ công nhỏ trong thành phố. Công việc kinh doanh tiến triển tốt và ông ấy hầu như không về nhà.
Tuy nhiên, điều khiến đồng tu A không thể ngờ tới chính là vợ chồng bà vốn yêu thương nhau, kết hôn đã gần 40 năm và hiện giờ đã có nhiều con cháu nhưng chồng bà lại đang lừa dối bà. Chồng bà ở thành phố có một tình nhân trẻ tuổi hơn bà. Họ dan díu với nhau nhưng giấu không cho bà biết. Bà A không cách nào tiếp nhận sự thật phũ phàng này và cảm xúc bốc đồng của bà đã thay thế lý trí của một người tu luyện. Cuối cùng, bà đã lên thành phố để đánh đuổi người thứ ba kia đi. Lo ngại họ vẫn còn liên lạc, bà quyết định chuyển lên thành phố để giám sát chồng.
Khảo nghiệm về tình này là một quan lớn và bà đã không vượt qua được. Hậu quả là mối quan hệ giữa hai vợ chồng bà trở nên xấu đi và can nhiễu nghiêm trọng đến việc học Pháp, luyện công của bà. Theo đó, nhiều loại giả tướng nghiệp bệnh nối tiếp nhau xảy đến với bà. Thấy vậy, gia đình đã giục bà đi khám.
Chúng tôi cũng đã nhiều lần cố gắng giúp đồng tu A đề cao dựa trên Pháp lý. Tuy nhiên, các quan nạn đã tích tụ chồng chất lại. Bà cũng biết rằng chỉ có tăng cường học Pháp, bản thân mới có thể đột phá và đề cao tầng thứ. Nhưng ma tình đã quấn lấy bà và khiến bà rối bời, học Pháp không thể nhập tâm. Trong khi đó, nghiệp bệnh hành hạ thân thể và làm hao mòn ý chí của bà. Cuối cùng, bà đã từ bỏ việc đột phá quan nạn và đến bệnh viện.
Trước làn sóng mạnh mẽ đưa Giang Trạch Dân, cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), ra trước công lý, bà A không muốn bị rớt lại phía sau. Vậy nên bà vẫn tham gia cùng các đồng tu khởi kiện Giang. Không ngờ chẳng bao lâu sau, tà ác đã tìm đến nhà đe doạ khiến bà sợ hãi. Họ nói rằng nếu bà không từ bỏ tu luyện, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc học lên, gia nhập quân đội, phân công công tác, v.v. của các cháu bà. Người thân trong gia đình rất hoang mang lo sợ và dùng đủ mọi cách để gây áp lực lên bà.
Bản thân đồng tu A vốn rất nặng tình đối với các cháu. Với tâm trí mơ hồ, nỗi sợ hãi đã lấn át chính niệm của bà. Bà bèn thuận theo những [luận điệu] ngụy biện của tà ác và nghĩ rằng nếu việc tu luyện của mình mà ảnh hưởng đến tiền đồ của con cháu thì bản thân bà quá ích kỷ. Nếu vì bà mà gây ra những tổn thất không cách nào bù đắp cho con cháu thì bản thân bà là tội nhân thiên cổ đối với gia đình. Bị mê hoặc bởi suy nghĩ đó, ở trong trạng thái vô cùng mâu thuẫn và phức tạp, bà đã chọn từ bỏ con đường tu luyện thành Thần của mình với mục đích để con cháu có thể theo đuổi tiền đồ của chúng nơi thế gian.
Đồng tu A đã rơi vào cái bẫy của cựu thế lực tà ác. Chúng không chỉ hủy hoại người tu luyện mà còn hủy hoại tương lai của gia đình bà. Bà đã tu luyện nhiều năm như vậy, đã được thụ ích rất nhiều phúc lành từ Đại Pháp. Làm sao bà lại không nhớ được lời giảng của Sư tôn:
“…một người luyện công, cả gia đình được lợi ích” (Giảng Pháp tại Pháp hội Australia [1999])
Làm sao bà có thể dễ dàng không tin vào các nguyên lý phổ quát này chứ?!
Sau đó, sức khỏe của bà ngày càng xấu đi, bà không chỉ không thể giúp chồng trông coi nhà xưởng ở thành phố nữa, mà còn liên lụy đến việc kinh doanh của chồng bà. Không còn cách nào khác, chồng bà phải đóng cửa công việc kinh doanh để về nhà chăm sóc bà. Người thân của bà cũng nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực về Đại Pháp, đặc biệt là chồng bà. Kể từ đó, ông kiên quyết phản đối và ngăn cản bà quay trở lại tu luyện. Ông từng nói thẳng với đồng tu B là [ông] không cho các học viên khác gặp bà. Ngoài ra, ông ấy còn yêu cầu cô B nhắn cho tôi và uy hiếp tôi không được đến gặp bà A nữa. Do đó, đồng tu A hoàn toàn bị giam trong “Nhà tù gia đình,” đoạn tuyệt với Đại Pháp và cắt đứt liên lạc với các học viên.
Vài năm sau, chồng bà qua đời, làm cho cuộc sống của bà thêm phần gian nan và thống khổ. Một người phụ nữ vốn rất thông minh, có năng lực, gọn gàng, sạch sẽ, thì nay đã biến thành một bà già lôi thôi nhếch nhác, nói năng mơ hồ, bước đi tập tễnh. Cháu trai của bà vốn có tư cách tốt, bỗng nhiên trở nên dở dở ương ương, nghiện mạng internet đến như say như dại, tuy có bằng đại học nhưng lười nhác không chịu làm việc, đôi khi về thôn không chịu chào hỏi ai, những xã giao cơ bản cũng không làm được.
Điều đáng tiếc chính là trong hoàn cảnh tàn khốc khi khủng bố đỏ lan tràn và bức hại nghiêm trọng, đồng tu A đã có thể đột phá được bằng niềm tin vào Đại Pháp và Sư phụ. Tuy nhiên, bà lại bị ma tình quấn quanh và vây hãm. Bị dẫn động bởi tâm sợ hãi, bà bối rối trước sự đe dọa và tà thuyết mê hoặc của tà Đảng. Đồng tu A đã đánh mất cơ duyên tu luyện mà bản thân đã chờ đợi từ vạn cổ. Bà không chỉ huỷ hại bản thân mà còn huỷ hại chúng sinh nơi Thiên quốc, cũng như gia đình ở thế gian của mình.
Tất cả điều này đều có căn nguyên từ tội ác của tà Đảng; nào là đe dọa bằng áp lực cao, cực hình tra tấn, chuyển hóa trong trung tâm tẩy não, vu khống và ngụy tạo bằng chứng, đạo đức giả và dụ dỗ, ký vào bản cam kết, v.v. Nó đã sử dụng trăm phương ngàn kế xấu xa với mục đích cơ bản là hủy hoại đệ tử Đại Pháp, do đó đạt được mục tiêu hủy diệt chúng sinh.
Tín Sư tín Pháp, quan nào cũng có thể vượt qua
Còn về việc tu luyện của tôi, trong suốt một thời gian dài thuở đầu đắc Pháp, tôi cảm nhận sâu sắc và hiểu rõ sự khổ sở của việc độc tu và không hình thành chỉnh thể với các đồng tu khác. Sau khi kết nối được với các đồng tu địa phương và được truyền cảm hứng từ các Pháp lý của Đại Pháp, tôi đã chủ động bước đi trên con đường tu luyện với tư cách điều phối viên để cùng các học viên thành lập các nhóm học Pháp, tổ chức các buổi giao lưu quy mô nhỏ, thiết lập các điểm sản xuất tài liệu tại gia đình, thiết lập các hạng mục giảng chân tướng khác, phát tài liệu trực diện và giảng chân tướng cho mọi người.
Trên con đường gian nan mà hạnh phúc ấy, thể ngộ chủ đạo của tôi là:
“[Người tu luyện] chỉ cần tín Sư tín Pháp thì không có quan nào không thể vượt qua. Chỉ cần là người đó có thể lý giải đúng đắn “điều tôi bảo chư vị là phù hợp ở mức độ tối đa với hình thức xã hội người thường mà tu luyện” (Giảng Pháp tại Pháp hội Singapore)
Pháp lý yêu cầu người tu luyện mang chí lớn nhưng cũng cần chú ý đến những tiểu tiết trong đời sống hàng ngày, cần tận lực xây dựng hình tượng chính diện của người tu luyện thì mới có thể khai sáng một hoàn cảnh tu luyện tốt.
Kể từ khi bắt đầu tu luyện, tôi đã trải qua những biến đổi to lớn, cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì những điều này mà gia đình tôi đều tán thành Đại Pháp.
Năm 1999, khi Đại Pháp bị đàn áp vô lý, chúng tôi đã phải chịu áp lực rất lớn. Vì tâm sợ hãi, vợ tôi đã từng cố gắng ngăn cản tôi tu luyện. Tôi nói với cô ấy một cách kiên quyết: “Anh có thể từ bỏ bất cứ điều gì trong cuộc sống, duy nhất chỉ có con đường tu luyện Đại Pháp, anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định. Anh nhất định sẽ dùng mạng sống của mình để bảo vệ tín ngưỡng của anh. Không ai có thể phá bỏ điều này.”
Với suy nghĩ kiên định đó, trong gia đình tôi hiếm khi xuất hiện sự phản kháng hay rắc rối nào. Hơn nữa, tôi thường nhận được sự ủng hộ và trợ giúp của người nhà, bởi vì họ biết rằng tất cả họ đều vì Pháp mà sinh, vì Pháp mà đến.
Con trai tôi cũng bước vào tu luyện Đại Pháp. Ba năm trước, cả con trai tôi và tôi đều bị tà ác bắt cóc. Lúc đó, trong nhà chỉ còn lại vợ tôi, con dâu và hai đứa cháu nhỏ. Gia đình tôi rơi vào hoàn cảnh khốn khó chưa từng trải qua trước đây.
Đối mặt với tai họa bất ngờ này, vợ và con dâu tôi đã âm thầm khóc. Nhưng bất cứ khi nào gặp nhau, họ đều an ủi và động viên lẫn nhau, không hề có một chút oán hờn nào đối với tôi hay con trai, cũng không có bất kỳ chút bất mãn hay hiểu lầm nào đối với Đại Pháp và Sư phụ. Họ hiểu rằng sự lựa chọn của chúng tôi là đúng đắn. Họ tin rằng Đại Pháp là tốt, là chính Pháp và Sư phụ Lý Hồng Chí thật vĩ đại. Họ hiểu rằng chúng tôi vô tội, chúng tôi bị oan và tà Đảng Trung Cộng mới là gốc rễ của tai họa, là con ác ma đang bức hại những người thiện lương.
Vợ và con dâu tôi liên tục bảo các cháu nhỏ niệm chín chữ chân ngôn: “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Chân-Thiện-Nhẫn hảo!”, trong tâm cầu xin Sư phụ Đại Pháp cứu giúp chúng tôi thoát khỏi ma nạn. Đôi khi, vợ tôi ngồi song bàn với thế tay lập chưởng, theo cách mà chúng tôi ngồi khi phát chính niệm. Cô ấy kể rằng cô từng gặp ác mộng khi ngủ và đã buột miệng hô lớn: “Pháp chính càn khôn, tà ác toàn diệt.” Sau đó, cô ấy lập tức tỉnh dậy. Bởi vậy, cô ấy hay dùng khẩu quyết này để tự mình phát chính niệm và nói rằng điều này thực sự thần kỳ!
Vợ tôi không chỉ giúp trông chừng hai cháu gái và một cháu trai, đều chưa đến 10 tuổi, mà còn đảm đương việc nhà và làm những việc đồng áng nặng nhọc. Mặc dù phải chịu áp lực tinh thần và nỗi bi thương nhưng thân thể cô ấy vẫn rất khỏe mạnh.
Vì không muốn người khác coi thường, con dâu tôi đã tiếp quản công việc kinh doanh mà tôi và con trai vận hành. Để giải cứu chúng tôi, cháu đã đi khắp nơi tìm kiếm sự trợ giúp từ người thân, bạn bè và đến Cục Công an, Tòa án. Trong quá trình đó, cháu đã trải qua rất nhiều khó khăn, vất vả. Cháu viết nhật ký về tất cả những gì cháu phải chịu đựng. Trong đó, đoạn cảm động nhất là: “Mỗi khi gặp phải khó khăn, tôi thành tâm niệm cửu tự chân ngôn và khẩn xin Sư phụ giúp tôi giải quyết nguy nan. Khi tôi thực sự thành tâm, tình thế liền xoay chuyển ngay lập tức. Tôi chân thành cảm tạ Sư phụ Đại Pháp.”
Khi bị giam giữ trong ngục, chúng tôi thường nhẩm niệm Pháp để gia cường chính niệm cho bản thân. Chúng tôi phát chính niệm để thanh trừ và tiêu diệt tà ác. Đối mặt với sự cưỡng bức và tra tấn của tà ác, chúng tôi không bao giờ động tâm, cũng không khuất phục. Chúng tôi không để bị lừa dối, chúng tôi cũng không để Sư phụ và Đại Pháp thất vọng. Sau gần hai năm ma luyện, chúng tôi đã bước ra khỏi trại tạm giam một cách đường đường chính chính.
Lúc đó, tà ác đã đe dọa và cố làm chúng tôi bối rối bằng cách nói: “Các người quá ích kỷ, chỉ nghĩ đến cái gọi là viên mãn của cá nhân mà mặc kệ không đoái hoài đến người thân đang khổ sở vì mình. Tiền đồ của con cháu ông cũng sẽ vì ông mà chịu ảnh hưởng nghiêm trọng.”
Trước những loạn ngôn của họ, tôi ngay lập tức phản bác anh ta bằng chính niệm: “Anh không thể bóp méo sự thật và lừa dối mọi người như thế. Sự đau khổ của họ không liên quan gì đến tôi. Kể từ khi bắt đầu tu luyện Đại Pháp, tôi đã từ một người bị đủ thứ bệnh trở thành một người khỏe mạnh; từ một người có đạo đức cứ trượt theo dòng thành một người có cảnh giới tinh thần cao thượng. Sự tu luyện của chúng tôi, đối với gia đình và toàn xã hội là hoàn toàn có lợi. Bất cứ ai biết tôi đều biết đây là sự thật. Các anh có thể đi điều tra chuyện này.” Họ liền hậm hực rời đi.
Từ các Pháp lý của Đại Pháp, tôi ngộ được rằng: trong quá trình tu luyện của đệ tử Đại Pháp, do sự can nhiễu của cựu thế lực và các nhân tố bức hại của tà Đảng Trung Cộng, điều đó có thể khiến người thân và bạn bè của các học viên phải chịu đựng một số khó khăn. Nhưng cuối cùng, những gì chờ đợi họ là một tương lai vô cùng tốt đẹp.
Đã hơn một năm kể từ khi chúng tôi được thả ra và gia đình chúng tôi hiện đang sống rất tốt. Tất cả chúng tôi đều rất khỏe mạnh, cháu gái tôi đạt điểm tối đa trong kỳ thi năm đầu mẫu giáo, cháu trai tôi học lớp hai, còn cháu gái lớn nhất của tôi học lớp bốn và cả hai cháu đều học rất xuất sắc. Khi chúng tôi bị bắt, cháu ngoại của tôi đang học đại học. Vừa rồi sau khi tốt nghiệp, cháu được nhận vào chương trình sau đại học của trường đại học mà cháu mong muốn. Tất cả những điều này là phúc báo mà người thân của tôi nhận được từ việc tin tưởng và tôn trọng Đại Pháp.
Phân biệt giữa điều Sư phụ an bài và điều cựu thế lực muốn
Điều mà tôi nhận thấy rõ nhất là: Trên con đường tu luyện, bất cứ khi nào chúng ta đưa ra phán đoán hay quyết định, trước hết chúng ta cần phân biệt rõ giữa an bài của Sư phụ và an bài của cựu thế lực. Sự an bài của Sư phụ thường giống như việc leo lên một ngọn núi, nhìn bề ngoài dường như đầy khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi rất nhiều nghị lực, niềm tin và sự kiên trì; nhưng tương lai chắc chắn sẽ vô cùng tươi sáng.
Còn với an bài của cựu thế lực, thường là đầu tiên sẽ dùng rượu pha thuốc mê khiến bạn thần hồn điên đảo, bất tri bất giác mà rơi xuống vực sâu. Vì vậy, dù khó khăn đến đâu, chúng ta nhất định phải bước đi trên con đường do Sư phụ an bài mà không do dự.
Sư phụ giảng,
“Pháp Chính Thiên Thể đã kết thúc; nay chính là đang quá độ sang Pháp Chính Nhân Gian.” (Hãy tỉnh)
Cá nhân tôi ngộ rằng “quá độ” là một giai đoạn, một quá trình, và cũng là một thời kỳ. Trong thời kỳ này, chính Sư phụ đã dùng từ bi hồng đại của Ngài cấp cho chúng ta cơ hội tiếp tục bước đi chân chính trên con đường tu luyện, bù đắp cho những thiếu sót và sai lầm của chúng ta. Đặc biệt đối với các đồng tu đã phạm sai lầm, đi đường vòng, hoặc lầm đường lạc lối, vì cuộc bức hại vẫn chưa kết thúc, chân tướng chưa đại hiển, đây là cơ hội lớn nhất để quay lại con đường chân chính. Các đồng tu, trong đó có tôi, xin hãy thức tỉnh!
Con xin cảm tạ sự từ bi cứu độ, hồng ân hạo đãng của Sư tôn!
Bản quyền © 2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://big5.minghui.org/mh/articles/2023/6/18/462070.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/10/1/212291.html
Đăng ngày 12-11-2023; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.