Bài viết của Minh Nguyệt
[MINH HUỆ 13-02-2023] Đức, Nghĩa, Lễ, Nhân, Tín là những mỹ đức truyền thống trong đối nhân xử thế. Dưới đây là những câu chuyện mẫu mực về năm mỹ đức truyền thống này.
Đức: Ban Chiêu viết sách “Nữ giới”
Đức có nghĩa là đức hạnh và ân đức. Sách “Thuyết văn giải tự” có viết rằng, Đức là đức hạnh, cũng là ân huệ, là thăng hoa, là phúc lành. Sách “Chính vận” có viết rằng: Phàm gọi là có đức thì đó là danh xưng của sự tốt, đẹp, ngay thẳng, trong sáng, trong sạch.
Ban Chiêu, một tài nữ thời Đông Hán, sinh ra trong một gia đình Nho giáo nhiều đời, cha bà là Ban Bưu, anh trai bà là Ban Cố, đều là những nhà sử học nổi tiếng. Ở nhà, bà là cô em gái luôn quan tâm đến anh trai mình. Ban Siêu đi sứ Tây Vực, cư trú nơi biên cương trong một thời gian dài, ở tuổi bảy mươi, ông xin trở lại triều đình. Ban Chiêu viết thư cho Hoàng đế, nói giúp cho anh trai mình, lời nói chân thành và cảm động, giúp Ban Siêu được trở về nhà một cách thuận lợi. Ban Cố đã viết “Hán Thư” nhưng chưa kịp hoàn thành thì đã qua đời, Ban Chiêu kế thừa công việc của anh trai mình và hoàn thành phần biểu và thiên văn chí.
Ban Chiêu tài cao đức sáng, thường được Hoàng đế mời vào cung để dạy các phi tần trong hậu cung về học thức, đức hạnh, v.v., và được tôn vinh là “Đại gia”. Trong những năm cuối đời, Ban Chiêu đã viết bảy chương “Nữ giới” nhằm nâng cao phẩm hạnh của phụ nữ. Bà cho rằng phụ nữ lấy đức tính khiêm nhường, nhu thuận làm mỹ đức, xử lý tốt các mối quan hệ của nhà chồng, đồng thời đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với Tứ hạnh của phụ nữ là: Đức, Ngôn, Dung, Công. Cuốn sách đã trở thành sách giáo khoa giáo dục đạo đức cho phụ nữ thời cổ đại, có tác động sâu sắc đến việc hình thành đạo đức của phụ nữ truyền thống Trung Hoa.
Nghĩa: Điêu Thuyền trí tuệ dùng kế trừ quốc tặc
Nghĩa ban đầu là một đồ nghi lễ trong các nghi lễ cổ xưa, và sau đó được mở rộng thành các nguyên tắc đạo đức, luân lý và công lý. “Dung trai tùy bút” có viết: Giữ chính đạo gọi là nghĩa, hành xử hơn người gọi là nghĩa.
Vào cuối thời Đông Hán, Điêu Thuyền, một trong tứ đại mỹ nhân, diễn một màn liên hoàn kế đáng ca ngợi.
Vào thời điểm đó, quân phiệt Đổng Trác đã vào kinh thành làm loạn và làm trái pháp luật. Ông ta phế lập, giết hoàng hậu, đốt phá Lạc Dương, dời đến Trường An, có tham vọng chiếm đoạt ngai vàng. Trong triều đình, những người trung lương trượng nghĩa lên tiếng thì bị bức hại dã man; bên ngoài triều đình, những nghĩa quân ai lo người ấy, do dự không dám tiến lên. Đúng lúc nhà Hán đang ở cảnh sinh tử tồn vong thì Tư đồ Vương Doãn hy vọng dùng mưu kế trừ Đổng Trác, và phó tác đại nghiệp cứu quốc cho người con gái nuôi Điêu Thuyền.
Điêu Thuyền là một cô gái xinh đẹp quốc sắc thiên hương, giỏi ca hát và nhảy múa, đồng thời hiểu rõ đại nghĩa, và có một ý chí kiên nghị. Vì cứu nhà Hán, nàng nhẫn nhục bước ra gánh vác trọng trách. Dưới sự sắp xếp tài tình của Vương Doãn, Điêu Thuyền dựa vào sắc đẹp, dũng cảm và trí tuệ đã thành công trong việc ly gián Đổng Trác và con nuôi Lã Bố, đồng thời mượn tay Lã Bố giết chết Đổng Trác, chấm dứt thời kỳ đen tối của chế độ độc tài Đổng Trác. Kẻ quốc tặc khiến văn võ bá quan trong triều đình và anh hùng trong thiên hạ khoanh tay bất lực, đã bị tiêu diệt trong tiếng hát và điệu múa của một cô gái nghiêng nước nghiêng thành. Kể từ đó, Điêu Thuyền trở thành hiện thân của chính nghĩa và trí tuệ, để lại tiếng thơm muôn đời.
Lễ: Mạnh Quang nâng mâm ngang mày
Lễ ban đầu có nghĩa là cúng tế và thờ cúng các vị Thần. Về sau, các chuẩn mực trong hoạt động tế lễ phát triển thành chế độ đẳng cấp, chuẩn mực hành vi và quy phạm đạo đức thời cổ đại. Sách “Thích danh” có viết: Lễ tức là cách thức. Đạt được cách thức của sự việc.
Người xưa thường dùng câu “nâng mâm ngang mày” để diễn tả mối quan hệ vợ chồng tôn trọng nhau, đối xử với nhau theo lễ.
Danh sỹ thời Đông Hán Lương Hồng và vợ là Mạnh Quanh là cặp vợ chồng ẩn sỹ nổi tiếng trong lịch sử, họ có đạo đức cao thượng và rất coi trọng lễ nghĩa trong quan hệ hàng ngày. “Hậu Hán thư” ghi chép rằng, họ sống trong một gia đình bình dị, chồng làm ruộng, vợ dệt vải. Mỗi khi hai người ăn cơm, Mạnh Quang bưng mâm cơm cho chồng, luôn bưng mâm cao ngang lông mày, thể hiện sự tôn trọng chồng. Sau đó Lương Hồng khiêm tốn cầm mâm bằng cả hai tay, rồi cả hai bắt đầu ăn.
Lương Hồng nổi tiếng trong làng về sự uyên bác, trung hậu và trung thực. Mạnh Quang xấu xí nhưng thiện tâm. Họ sống trong cảnh nghèo khó, an bần lạc đạo. Hai người là những người bạn đời thực sự có cùng chí hướng. Mối quan hệ lễ nhượng và hòa thuận của họ rất nhanh chóng trở thành giai thoại. “Lễ ký” có viết: “Lễ là đạo kính nhường. Kính sinh lễ, lễ sinh hòa”. Các bậc hiền triết xưa biết lễ, giữ lễ dĩ hòa vi quý (coi sự hài hòa là quan trọng nhất), lễ phép là phương thức quan trọng để con người hòa thuận với nhau trong cuộc sống.
Nhân: Trưởng Tôn Hoàng hậu nhân ái vô biên
Nhân mang ý nghĩa nhân ái, thương yêu lẫn nhau. Sách “Thuyết văn” có viết: “Nhân là thân thương, gồm chữ nhân (người) và chữ nhị (hai)”. Sách “Lễ ký – Lễ vận” có viết: “Nhân là gốc của nghĩa, là sự thể hiện của thuận. Người có đức ‘nhân’ được tôn trọng”.
Trưởng Tôn Hoàng hậu bên cạnh Đại Đường Thánh chủ Đường Thái Tông là một hoàng hậu hiền đức nhân từ và vị tha. Sinh ra trong một gia đình quyền quý, bà được giáo dục tốt hiểu lẽ sự, chính trực và thiện lương. Khi còn trẻ, bà đã được tiên tri rằng “đức Khôn (của đất, của người nữ) mang chở vạn vật, đức hợp vô cương, thực hành trung dung, cư xử thuận hòa, cao quý không kể xiết”. Khi mười ba tuổi, bà kết hôn với Lý Thế Dân, người khi đó vẫn còn là Tần Vương. Bà phụng sự cha mẹ chồng, giúp chồng dạy con cái, và trở thành người trợ giúp hiền đức mọi việc trong gia đình cho chồng.
Trong thời gian Tần Vương Nam chinh Bắc chiến, Trưởng Tôn bôn ba đi theo đại quân, chăm sóc đời sống hàng ngày của Tần Vương, để ông yên tâm chiến đấu. Tần Vương lên ngôi xưng đế, Trưởng Tôn Hoàng hậu vẫn tôn kính Thái thượng hoàng như một người con dâu bình thường, sống cuộc đời giản dị thanh đạm. Đối với các phi tần, bà rất khoan dung và độ lượng, duy trì sự hòa thuận trong hậu cung, để Đường Thái Tông chuyên tâm xử lý quốc sự. Nếu Đường Thái Tông hỏi bà về chính sự, thì bà luôn tuân thủ nghi thức truyền thống của hậu cung không can thiệp vào chính trị, và đưa ra các nguyên tắc “cư an tư nguy” (khi yên bình thì nghĩ đến những nguy cơ) và “trọng dụng người hiền đức, tiếp thu lời can gián”, và khuyên can một cách uyển chuyển. Hoàng hậu Trưởng Tôn đã giành được sự kính trọng của Đường Thái Tông bằng lời nói, việc làm và tư cách đạo đức, đồng thời cũng là tấm gương mẫu mực của một người vợ hiền và một hoàng hậu tốt.
Tín: Vương Bảo Xuyến gìn giữ trong hang lạnh
Nghĩa gốc của chữ tín sự chân thật trong ngôn ngữ, và nó được mở rộng ra thành thật, không dối trá, giữ chữ tín. “Thuyết văn giải tự” có viết: “Tín tức là thành thực, gồm chữ nhân (người) và chữ ngôn (lời nói)”. Sách “Tả truyện“ có viết: “Tuân thủ mệnh lệnh và thời gian được gọi là tín”.
Vương Bảo Xuyến, thiên kim tiểu thư của tể tướng của triều đại nhà Đường, đã kết hôn với chàng trai nghèo Tiết Bình Quý bằng cách ném một quả cầu tú cầu. Tuy nhiên, cha cô ghét người nghèo và thích người giàu, đồng thời coi thường Tiết Bình Quý, người tuy có võ nghệ cao cường nhưng xuất thân từ một gia đình nghèo khó, nên muốn phá hôn ước. Vương Bảo Xuyến tin vào ý Trời, coi trọng nhân cách của Tiết Bình Quý, đã tuân thủ hôn ước, nhưng bị cha đuổi ra khỏi nhà.
Hai người sống một cuộc sống nghèo khó nhưng tràn đầy tình yêu thương trong hang động lạnh giá. Để chồng thực hiện lý tưởng của mình, Vương Bảo Xuyến đã khuyến khích Tiết Bình Quý đến kinh thành dự thi, một mình cô ở trong hang lạnh chờ chồng trở về. Tiết Bình Quý theo quân đội chiến đấu trên chiến trường, lập công lớn trong chiến trận, nhưng anh đã không trở lại trong mười tám năm trời do chiến tranh loạn lạc. Hơn mười tám năm qua, cuộc sống của Vương Xuyên Bảo vô cùng khó khăn, không hề có chút tin tức gì về chồng, còn cô thì cô đơn bơ vơ, chịu đói rét. Nhưng cô vẫn giữ lời thề hôn nhân và tin chắc rằng vợ chồng sẽ được đoàn tụ. Với niềm tin không lay chuyển, cuối cùng Vương Bảo Xuyến đã đợi được ngày Tiết Bình Quý trở về. Cô cũng đã khổ tận cam lai, sống với chồng cho đến cuối đời.
(Bản gốc từ NTDTV)
Bản quyền các tác phẩm đăng trên Minh Huệ Net thuộc sở hữu của Minh Huệ Net. Nếu đăng lại phi lợi nhuận, vui lòng ghi rõ nguồn ở phía trước tác phẩm (“Theo Minh Huệ Net đưa tin, …”), sau đó ghi chú đường dẫn đến bản gốc của Minh Huệ Net. Nếu đăng lại cho mục đích thương mại, vui lòng trao đổi với Ban Biên tập về thủ tục ủy quyền.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/2/13/456726.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/4/27/208234.html
Đăng ngày 11-06-2023; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.