Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục
(Tiếp theo Phần I)
[MINH HUỆ 24-01-2022]
Chính niệm chính hành, không ngừng thăng hoa khi học thuộc Pháp
Thời khắc đó tôi biết rõ con trai tôi cần gì nhất. Đầu tiên, tôi viết ra Hồng Ngâm và một số bài kinh văn của Sư phụ mà tôi vốn đã thuộc chắc trong tâm, và đưa cho con trai, ước chừng khoảng 8.000-9.000 chữ. Con trai tôi trân trọng như báu vật. Mỗi ngày, nó phát chính niệm, giảng chân tướng và liên tục học thuộc Pháp của Sư phụ, vì thế mà nhanh chóng đề cao.
Tôi và con trai trao đổi giao lưu rất nhiều về nhận thức và thể ngộ tại tầng thứ của mình, bất ngờ con tôi không còn như khi ở nhà, dù tôi nói gì nó cũng có thái độ ngược lại, còn giờ đây hầu như đều đồng ý với những gì tôi chia sẻ. Tôi tiến thêm bước nữa, chỉ ra cho con thấy những thiếu sót và chấp trước căn bản của nó. Con tôi không chỉ vô cùng cảm kích, mà còn chủ động tự đào sâu nhiều chấp trước, nhân tâm, tỏ vẻ hối lỗi và vô cùng ân hận về cách cư xử với tôi.
Con trai tôi nói rằng khi đả toạ đã nhìn thấy cảnh tượng ở không gian khác, rằng đó là Sư phụ đang khích lệ nó tinh tấn. Nó cũng nhận ra rằng biến hoá to lớn và sự thăng hoa nhanh chóng của bản thân trong ma nạn đều là nhờ liên tục nhẩm thuộc Pháp. Vậy nên, con trai tôi hầu như mỗi lần viết thư cho tôi đều nói: “Học thuộc Pháp, học thuộc Pháp, nhất định cần học thuộc Pháp!” Bản thân tôi cũng có thể hội sâu sắc về điểm này, vô cùng cảm kích, chính niệm chính hành của đệ tử Đại Pháp toàn bộ đều đến từ Đại Pháp.
Mở ra hoàn cảnh, tăng cường luyện công, tu khứ tâm an dật
Quả thực, tôi cũng nhờ không ngừng học thuộc Pháp mà liên tục gia cường chính niệm, có được sự bảo hộ và gia trì của Sư phụ. Khi đối diện với đủ loại mánh khóe của cục công an, viện kiểm sát và tổ chuyên án, tôi luôn bảo trì được đầu não lý trí thanh tỉnh, đồng thời vừa tận sức giảng chân tướng cho họ, vừa kiên định bày tỏ với họ: “Tâm kiên tu Đại Pháp của tôi sét đánh cũng không động, cho dù dao kề cổ cũng không cau mày!”, từ đó khiến họ từ bỏ hy vọng hão huyền cải biến tôi.
Sau khi chuyển sang phòng giam A03, thông qua giảng chân tướng, nói về vẻ đẹp và thần kỳ của Đại Pháp, đầu tiên tôi đã có được sự tin tưởng và tán thành của trưởng phòng giam, giúp tôi có thể khai sáng hoàn cảnh luyện công tự do trong khi chịu tù oan. Ở đây, giờ đi ngủ phải duy trì có hai người đứng trực ban, mỗi lần trực là hai tiếng. Chỉ có ca trực sáng sớm thì dài hơn, thông thường phải đứng hai tiếng rưỡi tới ba tiếng, từ 4 giờ tới khoảng gần 7 giờ. Mọi người thường đều không muốn nhận ca trực buổi sáng, nhưng đó lại đúng thời gian đệ tử Đại Pháp luyện công sáng, và cũng không sợ thời gian dài, nên tôi nhận ca trực sáng, tận dụng thời gian này để luyện công. Ngoài một tiếng đứng, toàn bộ thời gian còn lại tôi đều dùng để luyện đi luyện lại bài công pháp số 1, 3 và 4.
Sau này, trưởng phòng giam mới đặt vấn đề khó với tôi: “Ông muốn luyện công thì phải trực hai ca liên tiếp, như thế mới cho ông tự do luyện công, nếu không, tự ông cân nhắc.” Tôi đã gần 70 tuổi, là người lớn tuổi nhất trong phòng giam, nếu đứng trực hai ca liên tiếp là gần 5 tiếng, chưa nói tới việc thời gian ngủ sẽ bị giảm bớt đi nhiều thế nào, mà chỉ việc đứng 5 tiếng với người trẻ cũng không chịu nổi. Đây rõ ràng là sự bức hại đối với tôi. Lúc đó, tư tưởng tôi không nghĩ được thêm gì, trong lòng có chút bất bình và cảm thấy đây là thách thức quá lớn.
Nhưng tôi chuyển niệm và nghĩ, với người tu luyện việc chịu khổ chẳng đúng là hảo sự sao? Cho dù họ xuất phát từ mục đích và động cơ gì, tôi cần tận dụng cơ hội này khai sáng hoàn cảnh luyện công, tăng cường thời gian luyện công, vứt bỏ tâm an dật, đồng thời qua đó triển hiện và chứng thực sự siêu thường và thần kỳ của Đại Pháp, đạt được hiệu quả cứu độ chúng sinh. Đây chẳng phải là tương kế tựu kế, phá trừ bức hại của cựu thế lực sao? Vậy là, tôi quyết định đồng ý trực hai ca liền.
Từ 2 giờ sáng thức dậy tới gần 7 giờ sáng, gần 5 tiếng, tôi gần như đứng tại chỗ một mạch luyện động công, luyện một lần bão luân một tiếng, một lần bão luân 80 phút; thời gian còn lại tôi luyện bài 1, 3, 4 – số lần gần bằng 5 ngày tôi luyện ở nhà. Khi bão luân nếu tâm không tĩnh tôi nhẩm thuộc Pháp, phát chính niệm. Sau ngày trực đầu của tôi, một số người đã kinh ngạc, nói: “Pháp Luân Công thực là lợi hại!” Một số người khác nói: “Mới có ngày một, ngày hai, tới một tuần thì ông ấy sẽ không trụ nổi” Một tuần qua đi, có người lại nói: “Nếu có thể kiên trì một tháng thì tôi tâm phục khẩu phục” Tôi cứ vậy kiên trì 8 tháng, không bỏ một ngày, cho tới khi rời trại tạm giam.
Bằng cách này, tôi đã tạo ra hoàn cảnh tự do, trong đó tôi có thể song bàn luyện tĩnh công và phát chính niệm vào hai buổi trong giờ làm việc theo quy định và thời gian hoạt động tự do trong nhà tù vào buổi sáng, chiều. Mọi người đều nói: “Thật đáng khâm phục, những người trẻ như chúng tôi mà đứng hai giờ cũng khó mà kiên trì nổi, thế mà ông lão 70 tuổi lại có thể đứng năm giờ liền”. Điều này khiến họ cảm thấy được sự phi thường của Đại Pháp.
‘Cáo trạng biện hộ vô tội’ và đối diện với thẩm vấn phi pháp
Sau khi nhận được ‘đơn khởi tố’ phi pháp của viện kiểm sát, tôi mới biết khi con trai tôi bị bắt cóc, có chừng 20 đồng tu trong thành phố cũng bị bắt cóc, trong đó, sáu đồng tu có liên quan trực tiếp tới tôi. Tôi bèn quyết định viết ‘cáo trạng biện hộ vô tội’, kêu oan cho các đồng tu, giảng chân tướng cứu các nhân viên kiểm sát liên quan.
Con trai lo lắng cho sự an nguy của tôi, nên tôi chia sẻ với con nhận thức của bản thân: “Trong tu luyện không có chuyện ngẫu nhiên. Thứ nhất, chúng ta không thể thừa nhận việc cựu thế lực lợi dụng tà đảng Trung Cộng bức hại đệ tử Đại Pháp, nhất định cần vạch trần bức hại, phản đối đức hại, phủ định bức hại. Thứ hai, chúng ta phải nhân cơ hội này để giảng thanh chân tướng cho các nhân viên công an, kiểm sát, viết cáo trạng biện hộ này thành lá thư chân tướng, dù cho chỉ có một người nghe hay đọc và minh bạch chân tướng, trong thụ án mà người này chỉ nói một câu công đạo, thì anh ta cũng đã đặt định cơ sở cho tiền đồ, vận mệnh của bản thân rồi, và những gì chúng ta làm không phải là vô ích. Chúng ta cần biết rằng họ mới là những người đáng thương nhất. Thứ ba, bố đã từng nhiều lần viết thay các đồng tu đơn khởi tố Giang Trạch Dân, cũng từng nhiều lần viết đơn kháng án cho các đồng tu bị bức hại; có thể nhớ được những kiến thức pháp luật liên quan. Nếu như Sư phụ ban cho bố năng lực về phương diện này, nhất định là bố từng có thệ ước và cần phải gánh vác sứ mệnh này.”
Tôi viết bản cáo trạng biện hộ vô tội, đại thể bắt đầu từ việc Pháp Luân Đại Pháp bị oan chưa từng có; Pháp Luân Đại Pháp là gì; (Pháp Luân Đại Pháp được hồng truyền rộng khắp thế giới, các thần tích trong cứu độ chúng sinh…), câu chuyện ví dụ chân thực về những đệ tử Đại Pháp xung quanh mà tôi biết sau khi tu luyện đã có những thay đổi mạnh mẽ, thoát thai hoán cốt; tà giáo là gì (hình tượng Trung Cộng mang đầy đủ đặc điểm của một tà giáo đích thực); vì sao Giang Trạch Dân muốn bức hại Pháp Luân Công; Hiến pháp của Trung Quốc và pháp luật hiện hành không có văn bản công khai nào về Pháp Luân Công; các ấn phẩm của Pháp Luân Công là hợp pháp; chế độ ‘nhận tội nhận phạt’ tạo ra cạm bẫy và nhân tố dẫn đến án oan, giả, sai; Trung Cộng trong các cuộc vận động chính trị đã nhiều lần gây tai hoạ, cuối cùng tìm cách thoát tội bằng cách biến kẻ khác thành con dê tế thần; lương tâm, thiên lý là tiêu chuẩn xử án cao nhất; thiện ác tất báo là pháp tắc của vũ trụ, v.v. Tôi đã viết tổng cộng 18 trang giấy A4, khoảng 17.000-18.000 từ.
Sau khi đọc bản biện hộ này, con trai tôi đã góp ý chỉnh sửa, nói rằng ‘bản cáo trạng’ này uy nghiêm có dư mà chưa đủ từ bi. Tôi đọc lại một lượt và cảm thấy nó nói rất có lý, tuy nhiên trong hoàn cảnh tồi tệ này đều rất thiếu thốn giấy, bút, mà thư biện hộ này dài như thế muốn viết lại cũng không biết tìm đâu đủ giấy, bút.
Tôi và con trai bàn nhau cùng phát chính niệm thanh trừ can nhiễu. Chúng tôi cầu xin Sư phụ giúp đỡ. Tôi còn có một tâm nguyện là muốn có một bản copy của bản cáo trạng biện hộ để lưu giữ lại làm tài liệu giảng chân tướng. Khi tĩnh toạ, tôi đã cầu xin Sư phụ giúp mình. Tôi đường đường chính chính tới chỗ cai trại đề nghị được copy, ông ta bất ngờ nhanh chóng đồng ý. Trong tâm tôi vô cùng cảm tạ Sư phụ!
Cuối năm ngoái, tòa án tà đảng mở phiên tòa phi pháp qua video với tôi, khi đó chỉ có tôi và con trai cùng năm đồng tu vẫn bị giam giữ phi pháp ở trại tạm giam. Sau hơn một năm rưỡi, tôi và con trai mới được lần đầu trực tiếp gặp nhau ở nơi này. Chúng tôi nắm tay nhau, mắt nhìn nhau và cùng chính niệm gia trì cho nhau. Tôi cảm thấy con trai đã từng bước trưởng thành trong ma nạn.
Khi thẩm phán cho chúng tôi phát biểu ngắn gọn, hai vị đồng tu đều nói về việc nhờ tu luyện Đại Pháp đã khiến căn bệnh lâu năm của họ biến mất, đồng thời đạo đức của họ thăng hoa. Đồng tu D nói: “Hiến pháp có quy định rõ rằng công dân có quyền tự do tín ngưỡng, giở hết tất cả các pháp luật hiện hành, cũng không tìm được văn bản quy định nào nói rằng luyện Pháp Luân Công là vi phạm pháp luật. Luyện Pháp Luân Công là hợp pháp, tất cả các ấn phẩm của Pháp Luân Công cũng là hợp pháp. Việc dùng luật hình sự số 300 mưu hại học viên Pháp Luân Công là lạm dụng pháp luật, trái pháp luật. Chúng tôi vô tội”. Con trai tôi lớn tiếng nói: “Pháp Luân Đại Pháp đã cứu vớt cha tôi, cứu vớt tôi, cứu vớt cả gia đình tôi; thế giới cần có Chân-Thiện-Nhẫn; Pháp Luân Đại Phảp hảo! Chân Thiện Nhẫn hảo! Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp! Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền khắp thế giới!”
Tới lượt tôi trình bày, tôi nói: “Tôi có bản cáo trạng biện hộ vô tội 18 trang ở đây, mong toà án chiểu theo pháp luật cho phép tôi đọc tại đây”. Thẩm phán nói: “Vì thời tiết quá lạnh, cân nhắc tới tình trạng sức khỏe của những người cao tuổi ở phòng xét thẩm, ông có thể đưa bản cáo trạng cho trại tạm giam để giao lại cho tòa án”. Tôi chỉ có thể đọc tóm tắt các đề mục và phần thỉnh cầu của bản cáo trạng, yêu cầu tòa án trả lại sự trong sạch cho Pháp Luân Đại Pháp! Trả lại sự trong sạch cho Sư phụ Đại Pháp! Trả lại sự trong sạch cho đệ tử Đại Pháp!
‘Tuần báo Minh Huệ’ trong trại giam
Trong phòng giam tôi ở, có nhiều người tốt nghiệp đại học. Họ đều rất thích đọc thư từ trao đổi giữa hai cha con tôi. Họ còn đề nghị, sau khi tôi viết thư xong, đưa cho họ truyền đọc trước khi gửi đi. Trong số họ còn có người từng đọc tài liệu chân tướng Đại Pháp, và nói đùa rằng những lá thư của hai cha con tôi là ‘Tuần báo Minh Huệ’. Mặc cho tôi giải thích là ‘không dám nhận’, nhưng cũng chẳng ăn thua. Nhưng qua sự việc này tôi cảm thấy được khích lệ, tôi liền hệ thống lại những vấn đề tôi phát hiện ra khi giảng chân tướng mà phần lớn mọi người khúc mắc, từ đó viết các nội dung thư chân tướng cho mọi người truyền đọc. Phòng giam A03 đọc xong hết, tôi đưa sang phong A01, A04, thu được hiệu quả khá tốt.
Một lần, phòng A01 chuyển tới tờ giấy ký tên “một người mong được bước vào Pháp Luân Công”, trong đó có hỏi một số vấn đề chưa hiểu khi được con trai tôi giảng chân tướng, tôi đã cẩn thận gửi lại thư hồi đáp chi tiết, khiến anh ấy rất cảm động, có thêm bước tiến trong nhận thức và hảo cảm đối với Đại Pháp. Bức thư đó cũng trở thành lá thư chân tướng được công khai. Phòng A01 cũng có một nhóm người đọc ‘Tuần báo Minh Huệ’ (các lá thư chân tướng), và qua đó mà nhiều người đã minh bạch chân tướng, lựa chọn tam thoái, chân thành niệm chín chữ chân ngôn ‘Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân Thiện Nhẫn hảo’.
Trong đó có một người, trước khi vào tù từng là cán bộ cấp phó của Trung Cộng, là một người rất tài năng, từng viết sách. Ông ấy sau thời gian dài đọc thư từ qua lại của hai cha con tôi, đã ngỏ ý khen ngợi trình độ viết văn của tôi, tán đồng từ cảnh giới tư tưởng tới quan điểm nhận thức của tôi. Đầu tiên, qua hành động lý trí và cảnh giới siêu thường của chúng tôi, ông ấy đã hiểu ra đệ tử Đại Pháp không phải là cái gọi là ‘kẻ si mê’ như truyền thông Trung Cộng tà đảng bịa đặt và bêu xấu. Đồng thời, nhờ sự cảm hoá của con trai tôi qua các hành động thực tế chứng thực Đại Pháp, ông ấy dần dần đã minh bạch ra chân tướng Đại Pháp, lựa chọn tương lai tốt đẹp, hơn nữa khi trực, ông ấy còn đứng luyện bão luân 40 phút. Ông ấy cũng thường quan tâm đến tình trạng thiếu giấy mực của tôi. Hễ thấy tôi bắt đầu sử dụng giấy vệ sinh hay giấy lộn để viết, ông ấy sẽ nhờ con trai tôi gửi cho tôi toàn bộ chỗ giấy bút còn lại của ông ấy.
Điều thần kỳ là, tôi ước tính sơ sơ mình đã viết thư khoảng gần 200.000 từ trong thời gian ở trại tạm giam. Mặc dù trong tình trạng rất thiếu giấy bút, nhưng chúng không hề ảnh hưởng tới việc tôi cần làm. Chúng tôi chưa bao giờ vì thế mà bị can nhiễu hay bị bức hại thêm. Tôi biết đó đều là Sư phụ thời thời khắc khắc đang bảo hộ chúng tôi.
Trong tròn một năm bị bức hại, tôi đã làm một bài thơ ‘tù oan ngâm’ thể hiện tâm chí:
“Thân bị hãm hại tù oan tròn một năm 一 đã coi sinh tử là bình thường
Vinh nhục khổ vui thưởng trà 一 danh lợi tình hận hóa mây khói
Ân Sư từ bi tuỳ thời che chở 一 Pháp lý hạo hãn thấm trong tâm
Thần công luyện đến kim cang thể 一 trợ Sư cứu chúng sinh viên mãn trở về”.
Năm ngoái, khi xảy ra thiên tai lũ lụt khắp cả nước, trưởng phòng giam chỗ tôi là một người yêu thơ, anh ấy muốn kiểm chứng năng lực của tôi trong lĩnh vực này nên đã yêu cầu tôi viết một bài thơ về lũ lụt. Tôi đã kết hợp với tình hình dịch bệnh để viết một bài thơ dài, nêu lên nguồn gốc của những thiên tai nhân họa là do tuyên truyền về chủ nghĩa vô thần của Trung Cộng, dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức nên phải chịu sự trừng phạt của thiên thượng; Trung Cộng bức hại Phật Pháp nên sẽ bị trời diệt. Trưởng phòng giam đã tán thành và khen ngợi bài viết của tôi. Anh ấy cũng đưa nhiều bài thơ của tôi sang các phòng giam khác để mọi người truyền đọc, điều này cũng đóng một vai trò trong việc giảng chân tướng.
Hoàn thành sứ mệnh, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
Trong một năm rưỡi con trai tôi bị bức hại, một buổi chiều, vào giờ giải lao ngoài trời, tôi nghe thấy một giọng nói xa lạ gọi tên tôi trong phòng giam A01, và có lá thư được ném vào trong phòng giam. Thanh niên trong phòng giam tranh nhau đọc lá thư, và tôi đã quen với việc mình là người đọc cuối cùng. Lần này, sau khi đọc xong, họ không cho tôi xem, họ nói một cách bí ẩn: “Con trai ông vì đánh nhau nên bị điều đi”. Nhưng trong lòng tôi vui mừng khôn xiết và nói không chút do dự: “Không thể nào như thế. Con trai tôi chắc chắn đã được thả.“
Cuối cùng, khi họ trả lá thư cho tôi đọc, trong đó con trai tôi viết vài lời ngắn gọn: “Bố, sau khi ăn trưa xong con chợt nhận được thông báo thả tự do, cảm ân Sư phụ! Nhất định hãy tin lời con, nhẩm thuộc Pháp, nhẩm thuộc Pháp… đồng hóa Đại Pháp, liễu ám hoa minh”. Tôi vô cùng xúc động, song thủ hợp thập, liên tục nói: “Cảm tạ Sư phụ! Cảm tạ Sư phụ!” Tôi ngộ ra rằng sứ mệnh của con trai ở nơi này đã hoàn thành, ma nạn của nó đã qua, mục đích của cựu thế lực đã hoàn toàn thất bại.
Thấy năm mới sắp đến, tôi cao hứng rất nhiều, đã phát ra một niệm đầu, cầu xin Sư phụ đưa các đệ tử Đại Pháp vẫn bị giam giữ tới các phòng giam gần phòng tôi. Chỉ vài ngày sau, đồng tu D được chuyển sang phòng A02, chỉ cách tôi một bức tường, chúng tôi lập tức liên lạc với nhau. Tôi chuyển cho anh ấy những lá thư con trai tôi viết, bản cáo trạng vô tội do tôi viết, tôi cũng chia sẻ với anh tình huống tu luyện và tâm đắc về việc nhẩm thuộc Pháp của con trai tôi. Anh ấy quá đỗi vui mừng cũng lập tức bắt đầu nhẩm thuộc Pháp. Đồng thời, anh ấy cũng đem các tài liệu chân tướng của tôi chia sẻ truyền cho mọi người trong phòng giam của anh đọc.
Trước đó, từng có đồng tu C ở phòng A04 cách tôi một bức tường, tôi cũng viết cho anh những nội dung Đại Pháp theo trí nhớ của mình, và đồng tu cũng thường xuyên truyền đọc các tài liệu được gọi là ‘Tuần báo Minh Huệ’ trong phòng giam A04. Mùa xuân qua đi, đồng tu E được chuyển tới phòng giam A05, chúng tôi thực sự không cách nào biểu đạt được sư cảm ân với Sư phụ.
Bởi vì, phòng đồng tu C ở giữa nên tôi và đồng tu E liên hệ với nhau rất tiện. Tôi cũng sắp xếp và nhanh chóng gửi cho đồng tu các tài liệu, tôi còn viết cho anh ấy một lá thư dài, tôi vứt bỏ thể diện và tình cảm bên ngoài để chỉ ra cho anh ấy những chấp trước và thiếu sót trong tu luyện của anh mà tôi nhìn thấy được, mong muốn giúp anh nhanh chóng quy chính. Mới đây, anh nói rằng ‘bản cáo trạng vô tội’ tôi gửi qua và bài thơ chân tướng tôi viết… được mọi người trong phòng A05 đón nhận và khởi được hiệu quả giảng chân tướng.
Khi làm xong những việc tôi nghĩ cần phải làm, một sáng trong khi chờ hồi âm của đồng tu E, đúng lúc tôi vừa hoàn thành hai ca trực xong, tôi rửa mặt, lên giường phát chính niệm, cảm thấy có chút toàn thân vô lực, không thể song bàn. Mọi người hỏi tôi: ‘Sao hôm nay ông không luyện công à?’ Tôi nói: ‘Tôi hơi mệt, muốn nằm một chút’. Mặc dù quy định trong trại giam không được tùy tiện nằm nhưng trưởng phòng giam vẫn để tôi nằm. Ai ngờ, vừa nằm xuống, tôi không còn biết gì nữa.
Khi mở mắt ra, bao quanh tôi là cảnh sát, bác sỹ trại giam, tôi lơ mơ nghe thấy tiếng nói: ‘Huyết áp thấp 35’. Rất nhanh sau đó mọi người vội vã đưa tôi lên xe cấp cứu. Tôi biết mình là đệ tử Đại Pháp, không có bệnh, tôi nghĩ đây nhất định là Sư phụ muốn cứu tôi ra khỏi trại giam, là giả tướng Sư phụ diễn hoá. Trong tâm, tôi không hề hoang mang, lo sợ. Tôi nói với Sư phụ: “Cảm tạ Sư phụ! Cảm tạ Sư phụ!”
Tình trạng ‘bệnh’ của tôi rất nghiêm trọng, được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt có hộ lý riêng, và thông báo bệnh nguy kịch. Bác sỹ yêu cầu: dừng mọi đồ ăn thức uống, tuyệt đối nằm trên giường bất động, cả ngày truyền dịch cấp cứu. Tôi giằng co như vậy năm ngày năm đêm, không có chuyển biến gì. Tới chiều tối ngày thứ Sáu, bác sỹ đưa ra thông báo nguy kịch lần thứ hai. Đội trưởng trại tạm giam lo lắng, sau khi đích thân ký vào thông báo bệnh nguy kịch, đã quyết định không dám giam giữ tôi nữa và sắp xếp thả tôi.
Chạng vạng ngày thứ Bảy, người nhà đón tôi từ bệnh viện về. Tối hôm đó, tôi ăn cơm nhà bình thường, đi ra đi vào học Pháp luyện công bình thường, thân thể ngày càng khỏe lại như thường. Trong tâm tôi chứa đựng Đại Pháp, kiên tín Sư phụ luôn bên cạnh bảo hộ tôi, chăm sóc tôi. Tôi là đệ tử Đại Pháp thời kỳ chính Pháp, không thừa nhận bất kỳ an bài và hình thức bức hại cưỡng chế nào.
Tôi học Pháp không sâu, tầng thứ có hạn, con đường của Thần dù không còn xa, nhưng sứ mệnh vẫn luôn nặng! Mong rằng tôi cùng các đồng tu cộng đồng tinh tấn, thực hiện thệ ước, viên mãn hồi thăng!
Bài viết chỉ thể hiện quan điểm hoặc nhận thức của tác giả. Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên Minghui.org đều thuộc bản quyền của trang Minh Huệ. Khi sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, vui lòng ghi lại tiêu đề gốc và đường link URL, cũng như dẫn nguồn Minghui.org.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2022/1/24/89-437188.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2022/2/11/199142.html
Đăng ngày 02-04-2022; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.