Bài của một đồng tu tại Trung quốc

[Minh Huệ] Từ ngày tôi đắc được Pháp, tôi đặt để đức tin của tôi: tôi tin nơi Sư phụ và Đại pháp, và tôi cũng tin rằng sự chọn lựa của tôi tu luyện trong Pháp Luân Đại Pháp là đúng. Làm người tốt là không sai. Không cần biết điều gì đã xãy ra trong xã hội con người, sự quyết tâm của tôi tu luyện là không bao giờ dời đỗi. Đi theo Sư phụ trên con đường thành Thần là đi trên một con đường sáng lạn. Trong năm năm đầu tu luyện cá nhân của tôi, tôi không bao giờ ngừng học Pháp, tập Công, và truyền bá Pháp. Trong năm năm tu luyện trong khủng bố của tôi, tôi kiên trì đọc sách và kinh văn mới của Sư phụ mỗi ngày. Cả khi tôi bị cầm tù, tôi vẫn đọc thuộc lòng Pháp, làm sáng tỏ sự thật, và phát chính niệm để tiêu trừ tà ác.

Tôi bây giờ 67 tuổi, tôi đắc được Pháp năm 1994. Trước đó, tôi luôn có một cái nhìn yếm thế về đời người. Tôi nghĩ rằng một con người trên thế giới này là chỉ có một vài chục năm để sống và không cần đấu tranh với một ai. Tôi không lưu ý nhiều về quyền lợi và danh vọng cá nhân, không bao giờ tranh đấu với người khác, và không có cái gọi là mưu cầu trong đời sống. Vì vậy tôi xem thường kể cả mấy thứ tập luyện khí công mà được nổi tiếng lúc bấy giờ. Một ngày kia, tháng mời một năm 1994, tôi đọc Pháp Luân Công, mà vợ tôi đã cho tôi và tôi đi vào tu luyện Pháp Luân Đại Pháp như có một cái duyên đã liên kết tôi với nó. Sau khi tôi lắng nghe các bài giảng của Sư phụ trên băng ghi âm và nhìn xem băng hình các bài giảng Pháp của Sư phụ, đức tin của tôi nơi Sư phụ và Đại Pháp đã cắm rễ sâu đậm trong tâm trí của tôi. Sư tu luyện của tôi tiếp tục trong mười năm và không bao giờ bị gián đoạn.

1. Bị cầm tù và khủng bố vì đi khiếu nại tại Bắc Kinh

Ngày 20 tháng bảy 1999, chế độ Giang, vi phạm hiến pháp, bắt đầu cuộc khủng bố tàn bạo Pháp Luân Công dựa trên ý muốn của chính Giang. Từ đó chúng đã cầm tù các đồng tu, bắt các đồng tu đi trại lao động, kêu án tù các đồng tu, và buộc họ tẩy não và ‘chuyển hóa’. Chúng dùng quân đội, cảnh sát, và những tên côn đồ chánh trị địa phương để đánh đập và cản trở những đồng tu muốn đi Bắc Kinh để khiếu nại cho Pháp Luân Công. Chúng buộc tất cả các đài truyền hình truyền thanh và báo chí để nhục mạ, đặt chuyện và buộc tội cho Pháp Luân Công một cách tràn ngập. Để kêu gọi công lý, vợ tôi và tôi đi Bắc Kinh để khiếu nại nhiều lần. Nhưng mỗi lần, chúng tôi đều bị bắt, bị nhốt, phạt vạ và cầm tù. Nhà của chúng tôi cũng bị khám xét và cướp bóc.

Ngày 20 tháng bảy 1999, tất cả các xe lữa, búyt, máy bay và tàu thủy khắp nước đều bị kiểm soát và không có vé đi Bắc Kinh được bán ra. Vì vậy, bảy người trong chúng tôi mướn một chiếc taxi đi Bắc Kinh. Nhưng, chúng tôi bị chận lại trước khi kịp rời thành phố. Ngày hôm sau, chúng tôi chương trình đi Bắc Kinh bằng xe đạp, nhưng thất bại một lần nữa. Ngày thứ ba, bốn người trong chúng tôi mua vé tại một trạm xe cách 250 cây số xa hơn con đường thường đi đến Bắc Kinh. Nhờ vậy chúng tôi lọt được vào Bắc Kinh trên con đường trở về của chúng tôi. Thiên An Môn và con đường Fuyou đầy những cảnh sát được cắt đặt nơi đó để bắt các đồng tu.

Năm 2000, chúng tôi đi Bắc Kinh để khiếu nại vào hai dịp khác. Tháng ba, chúng tôi bị cầm tù ngay sau khi chúng tôi ghi tên vào Văn phòng Khiếu nại của Hội đồng quốc gia nhân dân. (National People’s Congress). Chúng tôi bị mang trở về bỡi những nhân viên từ Văn phòng Liên lạc Địa phương tại Bắc Kinh. Chúng tôi bị cầm tù sau khi trở về. Sau đó, chúng tôi bị mang về nhà và bị theo dõi bỡi đơn vị làm việc. Ngày 6 tháng mười hai 2000, chúng tôi lại đi Thiên An Môn. Chúng tôi vừa kêu lên, ‘Pháp Luân Đại Pháp hảo! Hãy trã lại danh dự cho Thầy chúng tôi.’ Băng vãi của chúng tôi bị cảnh sát xé nát. Chúng đẩy chúng tôi vào xe cảnh sát và sau đó cầm tù chúng tôi tại sở Cảnh sát thiên an Môn.

Trên đường đi trại tù Xicheng tại Bắc Kinh, chúng tôi treo lên một băng vãi với những chữ ‘Pháp Luân Đại Pháp hảo!’ trên xe cảnh sát để cho người đi hai bên đường được nhìn thấy. Vì chúng tôi không cho họ biết tên của chúng tôi, chúng tôi bị cầm tù nơi đó 16 ngày. Lúc bấy giờ, vì có một số lớn các đồng tu bị cầm tù trong mỗi trại tù tại Bắc Kinh, cảnh sát bắt đầu chuyển các đồng tu đến những thành phố gần Bắc Kinh. Tôi bị gữi đi Trại Tù Huyện Baixiang County tại thành phố Xingtai, tĩnh Hồ bắc cho hai tuần nữa. Chỉ vì làm người tốt và theo Chân Thiện Nhẫn chúng tôi bị cầm tù trong một tháng.

Ngày 23 tháng mười hai âm lịch năm 2000, trong khi tôi đi phát tài liệu làm sáng tỏ sự thật, tôi bị bắt. Tôi bị giữ trong hai ngày tại sở cảnh sát trước khi tôi bị gữi đi trại tù. Vì tôi không báo cáo tên tôi, họ chỉ có thể dùng một dấu hiệu (code). Một viên cảnh sát nói với tôi, ‘Trong không hơn hai ngày, ông sẽ khai ra.’ Tôi nói với họ, ‘tôi không làm điều gì xấu. Cầm tù là bất hợp pháp.’

Lúc bấy giờ có một đồng tu khác bị bắt. Tôi trã thuộc lòng các kinh văn mới và ‘Luận ngữ’ cho anh ta. Chúng tôi giảng thanh sự thật cho nhau, độc thuộc lòng Pháp, và lập chưởng để tiêu trừ tà ác mỗi khi chúng tôi có cơ hội. Chúng tôi viết xuống những câu Chánh Pháp của Sư phụ trên tường của phòng tù và trên tường của các nơi khác với các cây đũa, những vật cứng, hoặc móng tay của chúng tôi. Chúng tôi viết xuống mỗi khi có cơ hội. Trong trại tù, chúng tôi bị bắt ngồi có trật tự trên giường trừ khi đến giờ ăn, ngũ, hoặc dùng phòng vệ sinh. Mỗi khi chúng tôi ngồi xuống, tôi dơ bàn tay lên phát chính niệm. Các trưởng phòng giam đều biết tôi làm điều này. Họ cũng biết sự thật về Đại Pháp. Có lúc, họ hỏi tôi viết các bài thơ của Sư phụ trong tập Hồng Ngâm cho họ. Tối thiểu có 5 người nơi đó học biết được sự thật và đắc được Pháp.

Sau khi tìm biết được chỗ tôi bị cầm tù, gia đình tôi yêu cầu thả tôi ra. Cuối cùng, sau khi tên trưởng chánh trị của sơ cảnh sát rút tỉa được 5000 đồng nhân dân tệ từ gia đình tôi mà không phát ra một tờ chứng nhận nào cả, họ thả tôi ra.

2. Làm sáng tỏ sự thật về Đại pháp và giúp những người có duyên đắc được Pháp

Từ năm 2001, vợ tôi và tôi đã phát ra những tài liệu giảng rõ sự thật, treo lên các tờ posters, và treo các băng vãi. Chúng tôi đi đến những nơi 20-30 cây số xa nhà chúng tôi để làm sáng tỏ sự thật. Chúng tôi cũng đi đến những thành phố nhỏ và đồng quê. Chúng tôi đi thăm bạn bè, thân nhân, bạn học cũ, và bạn sở. Chúng tôi phát những tờ tài liệu giảng rõ sự thật trong những họp thơ, võ sách trên xe đạp, xe đẩy những nông sản, chợ rau và nhà của nông dân. Chúng tôi treo những tờ posters trên những cột trụ điện, và cầu xe lữa. Chúng tôi phát ra những tài liệu giảng rõ sự thật, phát tối thiểu là 10 đến 20 bản mỗi lần và có lúc nhiều đến 100 bản. Những họat động cá nhân của chúng tôi được kết liên với tổng thể.

Trong năm 2001, tôi bị bắt buộc rời nhà và trở thành vô gia cư để tránh bị bắt. Trong một thành phố, tôi giúp bốn người trong một gia đình có sáu người đắc được Pháp qua sự giảng rõ sự thật của tôi với họ. Một bà lão trong gia đình được hết bệnh đau tim nặng của bà mà không cần thuốc men. Gia đình có một cơ sở làm ăn nuôi gà. Khi bệnh SARS và bệnh cún gia cầm trở nên trầm trọng, không một con gà trong bầy gà 5, 000 con của họ bị bệnh. Số trứng gà cũng không bị sút giảm, trái lại còn gia tăng. Con trai của họ làm việc nơi một vùng khác và có một gia đình ba người, hai người trong họ đắc được Pháp. Người con trai bị mất sở làm năm 2000, nhưng không bao lâu có được việc làm trong một cơ sở khác. Người chủ thấy anh ta làm việc rất tốt, và vì vậy gia tăng lương hằng tháng của anh ta từ 600 đồng lên đến 1200 đồng và thăng chức cho anh ta làm trưởng nhóm. Từ đó anh được thăng lên làm giám đốc của sở máy móc. Từ khi anh ta đắc được Pháp. Anh ta làm việc gì cũng theo yêu cầu của Chân thiện Nhẫn. Anh ta nói với mọi người rằng Pháp Luân Đại Pháp rất tốt. Khi chế độ Giang gia tăng sự khủng bố Đại Pháp trong các trường học, anh ta nói với con gái anh ta rằng nếu người ta kêu nó nói xấu Đại Pháp trong bài thi, thì nói không nên trã lời những câu hỏi đó và như vậy nó sẽ bị mất điểm hơn là trã lời những câu hỏi đó. Dù nó bị mất một số điểm vì không trã lời những câu hỏi nhục mạ Đại Pháp, nó vẫn được thâu nhận vào một trường cao học gương mẫu.

Trong những ngày mà ‘Gió mây đột biến, trời muốn sập’, và ‘ác sóng nỗi lên’, (từ bài ‘Tâm tự minh’, Hồng Ngâm), niềm tin của tôi nơi Đại Pháp không bao giờ phai, đó cũng là cái căn bản giúp tôi ‘Kiên tu Đại Pháp khẩn tùy Sư’ (cũng từ ‘Tâm tự minh’). Có những điều mà tôi đã không làm được tốt. Tôi sẽ dùng tất cả thời gian tôi có để làm tốt những điều mà tôi đã không làm được tốt trong thời Chánh Pháp, và sẽ xứng đáng với sự cứu độ khó nhọc và từ bi của Sư phụ.

17-1-2005

Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2005/1/17/93661.html;

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2005/2/2/57102.html.

Dịch ngày 9-2-2005, đăng ngày 11-2-2005; bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.

Share