Bài viết của đệ tử Pháp Luân Đại Pháp ở Trung Quốc Đại Lục

[MINH HUỆ 18-11-2010]

Con xin kính chào Sư phụ từ bi vĩ đại!
Kính chào các đồng tu!

Tôi là một đệ tử lớn tuổi đắc Pháp vào tháng 3 năm 1996. Hơn 15 năm tu luyện trong mưa gió, tôi cũng như các đệ tử Đại Pháp ở Đại Lục, được Sư phụ bảo hộ mà có thể vượt qua trùng trùng ma nạn mà đi tới ngày hôm nay. Dưới đây, tôi muốn chia sẻ với các đồng tu chặng đường tu luyện của tôi.

1. Thiện đãi chồng hóa giải ân oán

Chồng tôi tính khí nóng nảy nổi tiếng trong vùng. Ông ấy nhiều lần bị tai nạn tại nơi làm việc và hiện tại thân thể đầy rẫy bệnh tật, như bệnh tim, não, và thận. Đầu những năm 1990, có vài lần ông ấy gần như đã chết và không thể làm việc. Nhưng ông ấy không hề nhận được bất kỳ khoản đền bù hay trợ cấp nào sau những lần bị tai nạn đó. Tôi chăm sóc ông ấy toàn diện, không khác gì mẹ chăm con. Tôi cắt tóc, tắm rửa, đo huyết áp cho ông ấy, đồng thời làm việc nhà và chăm lo cho con cái. Tôi phải cáng đáng mọi thứ, và tôi cũng bị mắc bệnh mãn tính như viêm thận,…

Tháng 3 năm 1996, một lần nữa chồng tôi suýt chết, và khi ông ấy từ bệnh viện trở về nhà, tôi đã bắt đầu học luyện Pháp Luân Công cùng mẹ chồng, để khỏi bệnh và khỏe mạnh. Khi tôi đang luyện công, tôi cảm thấy Pháp Luân xoay chuyển khắp thân thể tôi. Thật quá kỳ diệu. Được Sư phụ khích lệ, tôi kiên trì tu luyện Đại Pháp. Nhưng tôi có rất nhiều nghiệp lực, và khởi điểm tu luyện thấp, ngộ tính rất kém. Tuy nhiên, Pháp lý liên quan tới vấn đề nghiệp bệnh tôi có nhận thức nhất định. Tôi biết rằng Sư phụ đã nhiều lần tịnh hóa thân thể tôi. Thời gian đầu, tôi đã không phải uống thuốc nữa, bất tri bất giác mà thân thể trở nên vô bệnh, nhẹ nhàng và khỏe mạnh, tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Tôi đã trực tiếp trải nghiệm sự thần kỳ của Pháp Luân Đại Pháp.

Thông qua học Pháp, tôi đã hiểu rằng giữa người với người vì có nghiệp lực luân báo mà đưa đến các mối quan hệ nhân quả như thiện duyên, oán duyên, ác duyên. Tôi minh bạch ra nhân duyên của cuộc sống hôn nhân đầy thống khổ của tôi ở kiếp này. Tôi đang phải trả nợ nghiệp của mình, và tôi phải đối diện với điều này bằng chính niệm. Tôi hướng nội và tu tâm, đề cao bản thân. Giờ đây, tôi luôn suy nghĩ cho chồng trước trong cuộc sống hàng ngày và thực tâm đối đãi tốt với ông ấy.

Nhưng, vài năm trước, chồng tôi lại tiếp tục nguyền rủa tôi trong mọi tình huống. Ông ấy đuổi tôi ra khỏi nhà và gọi đến số điện thoại khẩn cấp của phân cục cảnh sát để tố giác tôi. Dần dần, tôi có thể nhìn vào bên trong, không tranh cãi với ông ấy, không oán hận hay tránh né, hay cố gắng ngăn cản ông ấy. Tôi bình tĩnh thản nhiên. Ông ấy báo cảnh sát thì tôi cũng không chút hoảng sợ, vẫn tiếp tục đọc sách Đại Pháp. Tôi từ chối gia cường thêm cho trường năng lượng tà ác, tôi xoay trở lại chiến đấu với nó, kết quả là không có sự việc nguy hiểm nào phát sinh.

Tôi nghĩ thiện, hành thiện và đã cảm hóa được chồng tôi, và ông ấy bắt đầu thay đổi. Sư phụ đã thiện giải tiền duyên không tốt giữa hai vợ chồng tôi. Chồng tôi dần dần thay đổi, từ phản đối tôi liên lạc với các học viên khác, nhiều lần báo chúng tôi với chính quyền, giờ đây đã chuyển sang ủng hộ Đại Pháp, thiện đãi các học viên. Thậm chí ông ấy còn chủ động giúp tôi treo áp phích chân tướng trong khu dân cư, và không phối hợp với cảnh sát nữa. Khi tôi bị bắt giữ phi pháp tại nơi làm việc, chồng tôi đã gọi điện đến cơ quan tôi và yêu cầu thả tôi. Ông ấy hùng hồn nói: “Dựa vào đâu mà bắt người? Chỉ bởi vì bà ấy tu luyện Pháp Luân Công sao? Tôi toàn thân mang bệnh, bà ấy tu luyện Pháp Luân Công thân thể trở nên khỏe mạnh, cả nhà tôi đều trông cậy vào bà ấy! Làm tôi bực là tôi cũng sẽ luyện Pháp Luân Công, và tôi sẽ đến ngay trước đồn cảnh sát chỗ các anh để luyện Pháp Luân Công.”

Từ những biến hóa của chồng, tôi thể hội rằng, ngoài việc phát chính niệm diệt trừ tà ác, chúng ta cũng cần tu tâm dựa trên Pháp và bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, chân tâm muốn tốt cho người khác mà không cầu kết quả, đứng trên giác độ của chồng hoặc vợ mà thiện đãi đối phương, chúng ta vô vi mà làm thì kết quả sẽ tự nhiên tốt.

Nhiều năm qua, tôi đã từng chút từng chút tu tâm, và dần dần tôi đã thay đổi từ một người thường trở thành một đệ tử Đại Pháp. Trong quá trình này, nhiều tâm chấp trước và quan niệm của tôi bị phơi bày. Tôi có tâm ích kỷ và coi mình là trung tâm. Tôi thấy rằng tôi có tâm bất mãn. Tôi tranh đấu vì danh vì lợi, tôi thường cảm giác ủy khuất, tôi truy cầu sự thoải mái và nhiều quan niệm biến dị khác, còn có nhân tố vị tư, vị ngã, vị tình. Mỗi tầng chấp trước bị phơi bày, thì tôi liền loại bỏ một tầng đó. Tâm tôi ngày càng thuần tịnh và thản nhiên hơn. Đại Pháp đã cấp cho tôi thân thể khỏe mạnh và cuộc đời mới. Đại Pháp đã cứu vãn gia đình bất hạnh của tôi khỏi bị tan vỡ.

2. Tới Bắc Kinh duy hộ Pháp, một giây cũng không chậm trễ

Khi tà đảng Trung Cộng bắt đầu bức hại Pháp Luân Công vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, tôi đang ở nhà chị gái tại một vùng núi xa xôi. Sau khi quay trở về tỉnh lỵ đi làm, hiệu trưởng gọi tôi đến gặp ông ấy nói chuyện. Ông ấy nói: “Chị là một lãnh đạo và chị cũng là một đảng viên. Chị phải viết tuyên bố từ bỏ tín ngưỡng vào Pháp Luân Công.” Tôi trả lời: “Đại Pháp cho tôi thân thể khỏe mạnh. Tôi sống chiểu theo Chân – Thiện – Nhẫn làm người tốt, tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tu luyện Đại Pháp.” Tôi nhận ra rằng lúc này tôi không chỉ là học Pháp và luyện công hàng ngày nữa, tà ác đang cố gắng để phá hoại Đại Pháp, Sư phụ bị bôi nhọ, và tôi phải bước ra duy hộ Đại Pháp.

Mùng một Tết Nguyên đán năm 2000, tôi đi tới Bắc Kinh để thỉnh nguyện cho Pháp Luân Đại Pháp với các cấp chính quyền cao hơn. Tôi bị trục xuất trở lại địa phương và giam giữ phi pháp trong 15 ngày. Sau khi ra khỏi trại tạm giam, tôi gặp chồng tôi, một bí thư đảng, và hiệu trưởng của trường tôi tại phân cục cảnh sát địa phương. Cả ngày họ đe dọa và cố gắng mua chuộc tôi. Họ dành nhiều thời gian gây áp lực ép tôi từ bỏ tu luyện Đại Pháp. Họ nói họ sẽ giam giữ hoặc kết án tù. Tôi đã phủ định hết thảy mọi an bài của tà ác. Đêm hôm đó họ buộc phải vô điều kiện để tôi về nhà.

3. Chứng thực Pháp tại nơi làm việc và thực sự làm một người tốt

Tôi biết rõ ràng khi tôi quyết tâm tiến bước, thì sẽ phải đối mặt với nhiều khảo nghiệm nghiêm khắc hơn. Hành trình tới Bắc Kinh của tôi đã khiến một số phòng ban địa phương đứng ngồi không yên. Đồn cảnh sát địa phương, khu phố, và nơi tôi làm việc, tất cả đều biết tôi tu luyện Đại Pháp. Nhiều năm qua, họ giám sát và sách nhiễu tôi, lục soát nhà và tịch thu đồ đạc cá nhân của tôi, thậm chí còn bắt giữ tôi. Họ cũng bức hại tài chính của tôi tại nơi làm việc khi không trả đủ số tiền lương cho tôi. Hình thức bức hại như vậy vẫn tiếp diễn và nó cũng là một khó khăn cho tôi trên con đường tu luyện.

Để gia tăng áp lực, chính quyền còn tước một số giải thưởng tập thể mà trường tôi đã đạt được, nói rằng đó là lỗi của tôi vì đã đến Bắc Kinh thỉnh nguyện. Hiệu trưởng hết sức tức giận tôi. Cục Giáo dục lo lắng rằng chúng tôi sẽ lại đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện cho Pháp Luân Công. Có một số giáo viên tu luyện Đại Pháp trong khu vực chúng tôi, và họ cố gắng gây áp lực khiến mỗi người chúng tôi phải từ bỏ tu luyện. Họ gửi cho chúng tôi tối hậu thư từ bỏ Pháp Luân Công hoặc là bị đình chỉ công tác. Tôi đường đường chính chính viết: “Tôi kiên quyết tu luyện Pháp Luân Công.” Sau khi tôi ký tên, tôi bị khai trừ công chức. Mặc dù họ vẫn để tôi giữ nguyên chức vụ dưới sự kiểm soát của họ trong một năm, nhưng không cho tôi giảng dạy. Hiệu trưởng bảo tôi không được tới phòng giáo viên và không cho tôi tiếp xúc với học sinh. Hiệu trưởng cũng không cho phép các giáo viên khác nói chuyện với tôi và chỉ cho phép tôi đọc báo trong một góc phòng làm việc.

Tất nhiên, tôi không theo sự an bài này của tà ác. Mỗi ngày tôi đều vui vẻ và chủ động tiếp xúc với các giáo viên khác. Tôi đến trường với tâm ung dung, vui vẻ, và tôi chủ động tự làm vệ sinh sạch sẽ phòng giáo viên. Một số giáo viên không có thời gian để dọn dẹp, nên tôi lẳng lặng lau sàn và quét hành lang. Các giáo viên khác không dám nói chuyện với tôi, nên khi gặp họ tôi chủ động chào hỏi họ trước và tiếp tục tương tác với họ giống như trước. Mỗi ngày tôi đều cố gắng tìm việc nào đó để làm, và tôi cố gắng không gây bất cứ phiền hà gì cho họ. Tôi muốn họ thấy sự thiện lương, khoan dung, và đại nhẫn trong tâm của mỗi đệ tử Đại Pháp.

Quả thực là “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.” Không lâu sau, giám đốc Cục Giáo dục – người thông đồng với ác đảng Trung Cộng—đã bị điều chuyển khỏi địa phương chúng tôi. Một giám đốc mới đến, và đồng thời một hiệu trưởng trẻ tuổi được điều chuyển tới trường tôi để thay thế hiệu trưởng cũ, người còn chưa đến tuổi nghỉ hưu. Tôi nghĩ: “Là một đệ tử Đại Pháp, chúng ta cần phải luôn đối xử tốt với người khác. Thật không dễ gì cho một vị hiệu trưởng mới khi vừa tới nhậm chức ở một hoàn cảnh xa lạ, tôi nên giúp đỡ cô ấy.” Tôi chủ động tiếp xúc với cô ấy, giới thiệu với cô ấy về đội ngũ giáo viên của trường, về tình huống giảng dạy ở trường chúng tôi. Tôi chân thành ngỏ lời rằng bất cứ lúc nào cô ấy quá bận rộn thì tôi luôn sẵn lòng giúp đỡ. Cô ấy rất vui vẻ và nói rằng tôi có thể thoải mái ngồi trong các lớp học khác nghe giảng, trợ giảng, hoặc giúp việc ở căng-tin. Tôi nhân cơ hội này nhận giúp việc bếp núc ở căng-tin trường và nói chuyện với các giáo viên khác khi họ đến.

Nhiều người sẵn lòng chia sẻ chuyện đời tư của họ với tôi. Điều này chẳng những giúp tôi đặt định cơ sở tốt để khuyên họ thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó, mà khi chính quyền tà đảng cố gắng bức hại tôi, những người tốt này đã đến và tìm cách giúp đỡ tôi. Có lần cả hiệu trưởng mới lẫn bí thư đảng của trường tôi mang thẻ đảng ra bảo lãnh tôi với Cục Giáo dục và Ban Thường vụ Đảng ủy rằng tôi có biểu hiện rất tốt và do đó tôi không cần phải đến trung tâm tẩy não. Nhiều lần, khi tà ác đến trường hòng bắt tôi, một số giáo viên và ban giám hiệu nhà trường đã giấu ba lô của tôi ngay trước mũi họ khiến họ không thể tìm thấy tài liệu Đại Pháp và cách sách điện tử trong ba lô của tôi. Đặc biệt, họ còn tìm biện pháp để kịp thời báo tin cho tôi để tôi có thể nhanh chóng rời đi, được an toàn thoát khỏi bàn tay cảnh sát mỗi khi họ đột nhiên tới trường.

Môi trường tu luyện tại trường tôi được cải thiện rất nhiều đến mức hiệu trưởng đề nghị tôi quay trở lại giảng dạy. Mùa xuân năm 2001, hiệu trưởng bảo tôi viết báo cáo tư tưởng. Cô ấy đưa cho tôi vài lời khuyên về cách viết báo cáo, bằng không, cô ấy nói rằng tôi sẽ lại bị sa thải và gặp rắc rối. Tôi nhân cơ hội này đường đường đường chính chính viết nội dung giảng chân tướng cho cô ấy. Sau khi đọc báo cáo của tôi, cô ấy khuyên tôi nên viết lại, vì cô ấy lo lắng cho sự an toàn của tôi. Tôi chỉ nói: “Tôi sẽ nộp bản đó.” Bí thư đảng của Cục Giáo dục đã đến nhà tôi, cầm theo báo cáo đó. Lúc này, chồng tôi đang ốm nặng nằm trên giường và tôi đang chăm sóc ông ấy. Chúng tôi sống trong một phòng đi thuê rộng chưa đầy 10 mét vuông. Khi ông ấy thấy vậy, ông ấy nói: “Chồng chị ốm quá, nhưng anh ấy được chăm sóc rất chu đáo. Lãnh đạo trường và khu dân cư của chị cũng nói rằng chị là người rất tốt. Chúng tôi nên trao thưởng cho chị, nhưng…” Ông ấy không kết câu nói đó, thay vào đó, ông ấy nói: “Tôi đã đọc báo cáo của chị và có thể thấy rằng chị không hề thay đổi.” Tôi nói: “Tôi vĩnh viễn vẫn luôn như thế.” Ông ấy không nói gì thêm và rời đi.

Về phương diện tiền lương, năm 1999, sau khi lần đầu tiên tôi đến thỉnh nguyện ở Bắc Kinh quay trở về, họ đưa cho tôi 200 tệ mỗi tháng tiền lương làm sinh hoạt phí. Khi chúng tôi gặp khó khăn về tài chính, trường học lại đưa cho chúng tôi hai đến ba nghìn tệ theo yêu cầu. Năm 2003, họ trả lại cho tôi toàn bộ số tiền lương đã giữ. Bức hại tài chính chấm dứt.

4. Dùng các hình thức khách nhau để chứng thực Pháp và dũng cảm truyền chân tướng đến thế nhân

Tôi chưa từng dao động niềm tin vào Đại Pháp, ngay cả sau ngày 20 tháng 7 năm 1999. Biến hóa to lớn về sức khỏe của bản thân tôi đã đủ để minh chứng cho sự siêu thường của Đại Pháp, chưa kể các học viên ở xung quanh tôi cũng thấy Pháp thân của Sư phụ và Pháp Luân. Tôi luôn kiên trì học Pháp và luyện công hàng ngày, kết hợp với trải nghiệm cá nhân để không ngừng hướng đến những người hữu duyên mà tôi gặp trong cuộc sống để giảng chân tướng Đại Pháp cho họ, phá trừ dối trá trên truyền thông của Trung Cộng, để mọi người có thể lý trí tin rằng Pháp Luân Đại Pháp là tốt. Cùng với các học viên Pháp Luân Công địa phương, chúng tôi đã viết thư, làm tài liệu chân tướng, áp phích, và biểu ngữ, dán thông điệp chân tướng bên ngoài các tòa nhà chung cư, và các hình thức khác để chứng thực Pháp. Ví dụ, tôi thường phát tài liệu chân tướng ở các tòa nhà căn hộ dọc được từ nhà đến nơi làm việc, giảng chân tướng mặt đối mặt cho những người hữu duyên mà tôi gặp trong cuộc sống. Sau bữa tối, tôi thường phát tài liệu chân tướng quanh khu nhà tôi. Trong những ngày nghỉ, tôi đi xe buýt hoặc đi bộ đến những nơi xa hơn để phát tài liệu chân tướng.

Khi vừa ra khỏi nhà tôi thường nghĩ trong tâm: “Chính Thần hộ Pháp, xin hãy dẫn đường và phá trừ can nhiễu, chúng ta hãy đi cứu người.” Có khi trời mưa to như thác đổ hoặc quá tối khiến tôi không thể nhìn thấy gì. Tuy nhiên, với chính niệm như vậy, tôi biết rằng có nhiều chính Thần đang ở bên tôi và tôi không sợ gì cả. Chỉ cần trong tay tôi có tài liệu chân tướng, tôi sẽ đi ra ngoài—đặc biệt là trong khi trời mưa và tuyệt rời, trong hoàn cảnh thời tiết xấu như vậy, việc phát tài liệu tới mỗi người hay mỗi hộ gia đình lại dễ dàng hơn.

Một hôm khi tôi phát tài liệu chân tướng Đại Pháp ở khu tập thể của một nhà máy quy mô lớn. Lúc đó, trời quang mây tạnh, nhiều người đang chơi đùa và trò chuyện ở ngoài sân và không dễ đến phát tài liệu mà không bị để ý. Tôi nghĩ “Giá kể trời mưa thì tốt.” Tôi tiếp tục phát tài liệu, không lâu sau, mây đen kéo đến và sấm sét nổi lên, mưa xuống và chuyển thành bão. Nhanh chóng tôi đi phát tài liệu chân tướng đến mỗi cửa nhà. Tôi ghi nhớ mình phát hết tài liệu ở nhà nào để ngày hôm sau tôi tiếp tục từ đó. Quần và giày của tôi đều ướt sũng, nhưng tâm tôi nhẹ nhõm sung sướng.

Một ngày khác sau khi ăn tối xong trời bắt đầu mưa to, nên tôi đã để tài liệu vào trong những chiếc túi nhựa và mang theo một chiếc đèn pin nhỏ rời khỏi nhà. Không lâu sau trời bắt đầu có sấm sét và tôi không thể cầm ô để che, tôi phải khom người cúi đầu xuống và đi vào lề đường để chống chọi với những cơn gió. Nhiều cành cây bị gẫy và có cây còn bật gốc. Trên đường không có một bóng người và xe ô tô đều phải dừng lại. Tôi ướt sũng và đi vào trong một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Người chủ nói: “Đừng ra ngoài, nguy hiểm lắm.” Tôi nghĩ: “Thời tiết xấu thế này thực ra là đang giúp tôi.” Khi cơn bão yếu hơn một chút, tôi lại tiếp tục đi. Với ánh sáng hắt ra từ các căn nhà và chiếc đèn pin nhỏ của tôi, tôi tìm cách để bỏ những chiếc túi nhựa đựng chân tướng vào khe cửa, khung cửa sổ, dưới các tấm ván gỗ, v.v. những nơi mà khi trời mưa thì tôi không thể tiếp cận. Trời vẫn mưa nặng hạt, gió và sấm che đi mọi tiếng động mà tôi vô tình tạo ra. Rất nhanh chóng tôi đã phát hết toàn bộ số tài liệu mà tôi mang theo. Toàn thân ướt đầm đìa và bước đi hạnh phúc trở về nhà.

5. Đường đường chính chính giảng chân tướng, giảng một người minh bạch một người

Tại thời khắc lịch sử vô cùng trân quý này, mỗi từng đệ tử Đại Pháp chúng ta đều cần phải tu luyện bản thân cho tốt, đồng thời, sử dụng nhiều cách khác nhau để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Tôi từ ngày 20 tháng 7 năm 1999 tới nay, tôi vẫn luôn một mạch giảng chân tướng trực diện. Đây là một phần công việc hàng ngày và là cuộc sống của tôi, không rầm rầm rộ rộ, thủy chung từng ly từng tý giảng chân tướng cứu độ người hữu duyên.

Tôi giảng chân tướng về sự kiện ngày 20 tháng 7 và chân tướng Đại Pháp. Tôi chỉ ra sơ hở và lời dối trá trong việc dàn dựng “vụ tự thiêu giả mạo”. Tôi nói với mọi người rằng Trời đang diệt Trung Cộng và tôi sẽ giúp họ làm tam thoái. Tôi cố gắng hết sức để đảm bảo rằng những người mà tôi giảng đều thực sự hiểu chân tướng. Lúc ban đầu, tôi thao thao bất tuyệt, không cân nhắc đến năng lực tiếp thụ của đối phương mà giảng. Sau này, tôi nhận ra rằng tôi nên thuận theo năng lực tiếp thụ của người nghe, thuận theo ‘khẩu vị’ của họ mà giảng. Đây cũng chính là quá trình tôi thăng hoa trong việc học Pháp và hòa tan trong Pháp.

Năm 2004, tôi ra khỏi trại lao động cưỡng bức. Bởi chúng tôi vẫn luôn đọc được các bài giảng Pháp mới của Sư phụ và tôi đã học thuộc toàn bộ các bài kinh văn đó. Bởi vậy, ngay khi vừa ra ngoài, tôi liền bắt đầu giảng chân tướng và giúp mọi người thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó. Tôi bắt đầu giảng chân tướng cho anh chị em trong nhà, các cháu trái, cháu gái, và các thân nhân khác. Tôi vận dụng trí huệ để giảng chân tướng cho các giáo viên, hiệu trưởng và bí thư đảng trong trường tôi. Một nửa trong số họ đã làm tam thoái. Tôi cũng tận lực thiện ý giảng chân tướng theo nhiều cách khác nhau và cứu được hàng xóm và các học sinh của tôi.

Mấy năm qua khi tôi giảng chân tướng Đại Pháp cho thế nhân, tôi cảm thấy rằng đều chính là Sư phụ đã lợi dụng các chủng hoàn cảnh mà đưa người hữu duyên đến trước mặt tôi. Đi mua sắm, mua thức ăn, sửa đồ gia dụng, sửa giày, ở trong bệnh viện, trên tàu hỏa, các điểm du lịch, v.v… tôi đều gặp họ. Những người tôi ngẫu nhiên gặp này đều cần tôi chủ động đi giảng. Tôi thường căn cứ vào tình huống hiện tại của họ mà tự nhiên nói chuyện. Ví dụ, tôi sẽ chủ động nói: “Xin cho hỏi mấy giờ rồi?” hoặc “Hôm nay bạn có xem dự báo thời tiết không? Có vẻ như hôm nay khá lạnh”,… Khi tôi thấy họ cần giúp đỡ, tôi sẽ giúp họ. Chỉ cần có cơ hội là tôi liền tiếp cận họ, dù họ là ai tôi cũng đều nói chuyện với họ, chỉ cần đối phương vui vẻ tiếp lời, thì đều có cơ hội giảng chân tướng. Khi họ đáp lời, thì tôi thường căn cứ vào nghề nghiệp, tuổi tác, văn hóa, tín ngưỡng Thần và đạo đức của họ, để tìm ra cách giảng chân tướng. Tôi thuận theo chấp trước, sở thích cá nhân, và nhân tâm của họ mà giảng, hiệu quả khá tốt.

Mặc dù số người tôi giảng chân tướng không quá nhiều, nhưng căn bản là những người tôi giảng đều thực sự hiểu chân tướng và có thể họ đã được cứu. Khi nói chuyện với họ, tôi rất cởi mở và chính niệm. Tôi không sợ và không cố gắng bảo vệ bản thân. Tôi rất chân thành. Nếu họ hỏi tên và nghề nghiệp của tôi, tôi không tránh né câu hỏi của họ. Một số đối xử với tôi như người thân và khi họ hỏi số điện thoại để họ giữ liên lạc với tôi, tôi không bao giờ từ chối, cũng chưa từng có ai vì vậy mà gây phiền hà gì cho tôi. Kỳ thực hết thảy đều là Sư phụ vĩ đại của chúng ta an bài cả rồi, những cuộc gặp gỡ định mệnh này và mọi thứ đều phụ thuộc vào tín tâm của chúng ta với Sư phụ và Đại Pháp.

6. Sao chép và phát đĩa DVD Thần Vận để cứu người

Anh chị tôi đã nghỉ hưu và chuyển về phương Nam sinh sống. Họ đều sống ở những khu đô thị lớn, ở những nơi đó có hàng nghìn căn hộ. Mười năm trước, người thân của tôi chưa từng nhận bất kỳ tài liệu Đại Pháp hay đĩa DVD nào gửi đến hòm thư của họ. Tôi biết môi trường sống của họ khá khác biệt so với một số thành phố ở phía Bắc. Trong khu dân cư họ sinh sống có bảo vệ canh gác ở cửa ra vào giám sát qua màn hình điện tử, vì vậy rất khó để các đồng tu không sinh sống trong khu vực đó có thể vào đó phát tài liệu. May thay, tôi để ý thấy có nhiều hòm thư thực sự được đặt ở những nơi kín đáo, nên không quá khó để tôi có thể để tài liệu chân tướng vào đó. Tôi học cách sao các đĩa DVD Thần Vận và phân phát chúng ở những khu vực mà tôi quen thuộc. Tôi rất cảm kích vì có thể cứu được những người dân Trung Quốc ở nơi đây – những người có tiền duyên với tôi, đặc biệt là tôi biết rằng họ đang được cứu trong khi thưởng thức chương trình Nghệ thuật Biểu diễn Thần Vận thuần chân, thuần thiện, thuần mỹ.

Tôi mua đĩa trắng và dùng máy tính xách tay của mình để sao đĩa biểu diễn Thần Vận 2008. Máy tính của tôi có chương trình ghi đĩa, nhưng trước kia tôi chưa từng sử dụng nó, nên tôi đã phát xuất một niệm cho chiếc máy tính xách tay: “Bạn là Pháp khí của tôi, tôi đã chọn bạn, điều đó có nghĩa là bạn đã có sự lựa chọn tối hảo cho bản thân. Bạn nên đối đãi và sao chép đĩa cho tốt để có thể cống hiến cho Chính Pháp.” Khi tôi làm từng bước theo hướng dẫn của chương trình, và nhanh chóng máy tính xác tay hiển thị “Sao đĩa hoàn thành. Hãy chèn một đĩa trống mới vào.” Tôi lấy đĩa ra và thử mở nó bằng đầu đĩa DVD, âm thanh thật dễ nghe, hình ảnh hoàn mỹ, tư thế, vũ đạo ưu mỹ. Ghi đĩa thành công rồi! Tôi lại có thêm một cách khác để chứng thực Pháp.

Tôi thường dành mọi thời gian có thể để sao đĩa DVD Thần Vận. Tôi nhờ các con tôi sao vỏ đĩa tại nơi làm việc của chúng. Năm 2008, tôi đã sao hơn 500 đĩa và phân phát ở khu dân cư mà tôi quen. Tôi luôn mang đĩa DVD Thần Vận trong túi xách của mình, và tôi phát tặng nó cho những người hữu duyên mà tôi gặp trong một số hoàn cảnh nhất định.

Năm 2009, một người bà con của tôi và cũng là đồng tu đã mang cho tôi một đĩa DVD Thần Vận cùng vỏ đĩa khác. Tôi tiếp tục sao đĩa và tặng chúng cho người hữu duyên như tài xế xe buýt, hành khách, người bán hàng ở cửa hàng, bác sỹ, thợ điện sửa đồ gia dụng cho tôi, và nói chung là những người mà tôi có thể nói chuyện. Tôi bảo họ đó là chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc chân chính và do người Trung Quốc lớn lên ở phương Tây biểu diễn, họ đã lưu diễn ở hơn 100 thành phố trên khắp thế giới, và chương trình này được rất được hoan nghênh. Mọi người vui vẻ tiếp nhận và liên tục cảm ơn tôi.

7. Học cách làm thiệp chúc mừng tạ ân Sư

Vài năm trước, mỗi khi thấy những tấm thiệp tinh mỹ do các đồng tu trên khắp thế giới công phu chế tác để gửi tới Sư phụ nhân các ngày lễ tết hay sinh nhật Sư phụ, tôi vô cùng cảm kích và trân quý những tấm thiệp đó. Là một đệ tử Đại Pháp lâu năm của Sư phụ, Sư phụ đã ban cho tôi sức khỏe, trí huệ, và cuộc đời mới. Tôi luôn trăn trở rằng khi nào tôi có thể làm được một tấm thiệp để bày tỏ lòng cảm ân của tôi tới Sư phụ. Vào dịp Trung thu năm ngoái, tôi đã mở những tấm thiệp của năm trước, tôi cẩn thận xem, và thấy rất thích chúng, tôi hạ quyết tâm sẽ tự mình làm một tấm thiệp để chúc Sư tôn Tết Trung thu vui vẻ.

Đầu tiên, tôi tìm những hình ảnh về hoa sen và hoa mai, và chọn ra mấy tấm vừa ý. Tôi nghĩ đến việc các con tôi dùng phần mềm để nâng cao chất lượng hình ảnh của chúng, nên tôi tìm phần mềm đó, rồi làm theo hướng dẫn để gõ chữ, tăng thêm màu sắc, và chọn khung hình. Tôi đã làm được ba tấm thiệp. Tôi gửi thư điện tử cho người họ hàng và đồng tu, hỏi họ cách gửi các tấm thiệp đó. Sau vài lần vấp váp, vài ngày sau, tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên tự gửi. Sư phụ ban cho tôi trí huệ, và tôi đã thành công khi gửi những tấm thiệp mà tôi tự làm kính tặng Sư phụ tới Minh Huệ Net ngay trong lần đầu tiên. Tôi vô cùng xúc động khi tôi nhận được phản hồi cảm ơn của Ban Biên tập Minh Huệ. Tôi hiểu rằng, là đệ tử Đại Pháp, chúng ta phải tự làm những điều mà chúng ta cần làm, không nên có tâm ỷ lại vào người khác. Khi đối mặt với tình huống khó khăn, chỉ cần chúng ta giữ tâm cho chính, Sư phụ sẽ ban cho chúng ta trí huệ nếu chúng ta chưa có đủ, chỉ cần chúng ta đặt tâm thì không gì là không thể.

Khi Tết Trung thu đến, tôi truy cập internet một lần nữa để xem thiệp chúc mừng mà các đồng tu trên toàn cầu làm, thấy trong đó có tấm thiệp mà tôi làm. Nước mắt tôi trào dâng, tôi đã tu luyện Đại Pháp 15 năm, tôi chưa từng được trực tiếp gặp Sư phụ. Hiện tại, tôi đã 75 tuổi rồi, nhưng tôi vẫn có thể tự mình làm thiệp để biểu đạt sự kính ý tới Sư phụ.

Khi nghĩ lại toàn bộ quá trình làm và gửi thiệp, tôi thực sự cảm nhận được rằng chính là Sư phụ đã gia trì để tôi làm, trí huệ đến mỗi khi tôi cần, tôi lại một lần nữa được thể nghiệm sự siêu thường của Đại Pháp.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2010/11/18/232102.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2010/12/6/121805.html

Đăng ngày 29-10-2018; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share