[MINH HUỆ 09-10-2014] (Tiếp theo Phần 4)
15. Địch Nhân Kiệt
Địch Nhân Kiệt, người gốc Thái Nguyên, là tể tướng nhà Đường. Khi còn trẻ, ông có khuôn mặt như quan ngọc, mi thanh mục tú, tướng mạo cao lớn.
Khi trên đường đến kinh đô để dự thi, ông đã lưu lại ở một quán trọ. Đêm hôm đó yên tĩnh trong lúc đang đọc sách, một thiếu phụ xinh đẹp đã vào phòng ông. Đó là người con dâu của chủ quán trọ, kết hôn không lâu thì chồng qua đời.
Lúc ban ngày thấy Địch Nhân Kiệt anh tuấn phi phàm, ý xuân nổi lên không thể kiềm chế được. Đến tối lấy cớ mượn lửa, gợi tình Địch Nhân Kiệt. Không ngờ Địch Nhân Kiệt vốn biết rõ ý tứ của cô nhưng không mảy may động tâm, lại thiện ý nói: “Thấy cô diễm lệ hấp dẫn người khác như thế này, ta nhớ lại lời của một hoà thượng già.” Thiếu phụ hiếu kỳ hỏi: “Ông ấy đã nói gì?”
Địch Nhân Kiệt bèn mượn cơ hội để thức tỉnh cô, nói: “Trước khi đi kinh đô, ta ở tại một ngôi chùa để chuẩn bị cho kỳ thi. Một hoà thượng già thấy tướng mạo của ta đã khuyên ta vài lời: ‘Con tướng mạo đường đường, tương lai nhất định con sẽ đạt được địa vị cao. Nhưng thế nào cũng không được tham sắc phạm dâm, hủy hoại tương lai của mình.’ Lời giáo huấn của hoà thượng già, ta vẫn cẩn thận ghi nhớ trong tâm.”
Ông tiếp tục: “Cô có thể gắng chí thủ tiết, đây là điều đáng quý. Đừng vì nhất thời xung động mà hủy hoại danh tiết của mình. Hơn nữa cô còn phải chăm sóc cha mẹ chồng và con nhỏ. Phụ nữ thời xưa được ca ngợi vì sự thủ tiết của họ.”
Thiếu phụ nghe những lời này cảm động đến rơi lệ, cảm tạ và nói: “Cảm tạ đại đức của ân công, từ giờ trở đi, nhất định kiên trì thủ tiết, để báo đáp sự dạy bảo hôm nay của ân công.” Cuối cùng sau khi bái ba lần, cô đã rời đi.
Có lời khen rằng: Vào lúc thiếu niên, phải giới sắc dục, chớ huỷ tương lai, hãy xem Nhân Kiệt, lại còn khuyến thiện, trung trinh thủ tiết, lợi mình lợi người, truyền mãi muôn đời.
16. Tống Nhân Tông
Triệu Trinh, còn gọi là Nhân Tông, là vị hoàng đế thứ tư của triều Tống. Ông tại vị 42 năm, lâu hơn bất kỳ một vị hoàng đế nhà Tống nào.
Nhân Tông nổi tiếng bởi nhân từ và khiêm tốn. Một ngày nọ, gián quan Vương Tố (chức quan để can vua), một vị quan ngay thẳng, đã đề nghị rằng nhà vua không nên thân cận với nữ sắc.
Nhân Tông nói: “Gần đây, Vương Đức Dụng đã tiến một số mỹ nữ cho ta. Họ đang ở trong cung điện. Ta thực sự thích họ. Khanh không muốn ta giữ họ lại ư?”
Vương Tố đáp: “Lời can gián của thần hôm nay đích thị là chủ đề này. Thần lo rằng bệ hạ sẽ bị nữ sắc mê hoặc.”
Nhân Tông biết lời khuyên này là đúng, và đã miễn cưỡng ra lệnh cho một thái giám: “Hãy cho mỗi mỹ nữ mà Vương Đức Dụng mang đến một ít tiền và gửi họ trở về nhà.”
Nói xong ông nước mắt đầm đìa. Vương Tố nói: “Giờ bệ hạ đã đồng ý với lời khuyên của thần, không cần phải vội vàng, giờ họ đã vào cung rồi, hãy để qua một đoạn thời gian rồi để họ đi cũng ổn rồi.”
Nhân Tông nói: “Dù là hoàng đế nhưng ta không thể thoát khỏi tình cảm con người. Nếu họ ở đây lâu hơn, ta sẽ có tình cảm với họ và không thể để họ đi.”
Có một bài thơ ca ngợi Nhân Tông: Nhân giả nhân dã, nhân nghĩa hữu đạo, nhân giả nhẫn dã, nhẫn khổ nhẫn lao, Nhân Tông nhẫn dục, thượng hành hạ hiệu, thái bình thịnh thế, dĩ nhân vi hào.
Tạm dịch:
Làm người thì phải có lòng nhân, Theo con đường nhân nghĩa, Làm người cũng phải nhẫn, Nhẫn khổ và khó nhọc, Nhân Tông nhẫn được dục, Bề trên làm được thì hiệu lệnh được kẻ dưới, Được thái bình thịnh thế, Mới lấy Nhân làm danh hiệu.
17. Tư Mã Quang
Tư Mã Quang, một nhà sử học và nhà văn thời Bắc Tống, đã phục vụ qua bốn đời hoàng đế Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông và Triết Tông. Ông được phong là Thái Sư, Ôn Quốc Công, Ích Văn Chính, ông hiền hoà khiêm tốn lại cương trực thẳng thắn với người khác; làm việc thì dụng công khắc khổ, cần cù.
Khi phu nhân của ông là Trương thị không có thai sau hơn mười năm chung sống, bà bắt đầu lo lắng.
Tư Mã Quang đã an ủi vợ: “Có con hay không là do mệnh quyết định, không thể cưỡng cầu mà đạt được. Còn nữa, trẻ con khắp thiên hạ nhiều lắm! Chỉ cần làm nhiều những việc có ích một chút cho chúng, sẽ khiến chúng trở thành nhân tài có ích cho nước cho dân, hà tất cứ nhất định phải tự mình sinh ra mới được?”
Trương thị luôn muốn Tư Mã Quang lấy thêm một người thiếp, nhưng ông thuỷ chung vẫn không đồng ý.
Một ngày nọ Trương thị tìm thấy một cô nương trẻ đẹp mà bà cho rằng là một đối tượng tốt để làm thiếp của Tư Mã Quang. Người con gái được đưa đến thư phòng của ông, khi đó ông đang tập trung vào công việc và vì thế không để ý đến cô.
Cô nương vì để thu hút sự chú ý của ông bèn cầm lên một cuốn sách và hỏi: “Xin hỏi đại nhân, đây là sách gì?”
Không ngờ ông chắp tay một cách trang trọng, và nói: “Đó là Thượng Thư.” Và ông tiếp tục tập trung vào công việc, hoàn toàn không ngó ngàng gì đến cô nương. Sau một lúc, cô ta thấy khó và rời đi.
Trương thị không bỏ cuộc. Trước khi ra khỏi kinh thành, bà đã tìm được một cô nương khác và bảo cô ấy buổi tối đến gặp Tư Mã Quang. Khi cô gái ăn mặc thoả đáng rồi đến thư phòng và dâng trà cho ông, ông nói: “Phu nhân không có nhà. Tại sao cô ở đây? Xin hãy rời đi ngay lập tức.”
Có một bài thơ ca ngợi Tư Mã Quang: Nho gia tam thánh, Như nhất biểu lý, Tự thiểu chí lão, Vị thường vọng ngữ, Cư xử hữu pháp, Động tác hữu lễ, Lạc thiên tri mệnh, Cần kiệm quả dục.
Tạm dịch:
Nho gia tam thánh, Như một khuôn mẫu, Từ bé đến lớn, Chưa từng vọng ngữ, Cư xử có phép, Động tác có lễ, Vui biết mệnh trời, Cần kiệm quả dục.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2014/10/9/298582.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2014/11/3/146670.html
Đăng ngày 13-05-2015; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.