Bài viết của một học viên tại tỉnh Sơn Đông
[MINH HUỆ 23-11-2009] Kính chào Sư phụ từ bi! Xin chào các bạn đồng tu!
Tôi là một học viên ở nông thôn. Vì một số quan niệm cố hữu mà tôi chưa bao giờ viết bài chia sẻ thể ngộ vì nghĩ rằng mình không phải người được ăn học đầy đủ. Giờ đây, tôi nhận ra đã là đệ tử Đại Pháp, chia sẻ thể ngộ cũng là trách nhiệm của tôi. Tôi vinh dự được là một đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp. Chính là Pháp vĩ đại đã quy chính tôi. Tôi tu luyện Đại Pháp đến nay đã được 14 năm; đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời tôi. Ngoài ra, tôi cũng đang tu luyện trong thời kỳ Chính Pháp được 10 năm. Giống như hàng nghìn đệ tử Đại Pháp khác, tôi đã chịu đựng bức hại vô nghĩa, mất đi cuộc sống bình thường, và buộc phải sống xa nhà. Tôi đã chịu vô vàn khổ nạn. Nhưng tôi vẫn kiên định niềm tin vào Sư phụ, vào Đại Pháp, và chưa bao giờ dao động trong tu luyện. Chúng ta đã đi được một chặng đường dài như vậy là nhờ sự bảo hộ nhân từ của Sư phụ.
Chồng tôi bắt đầu bệnh tật khi con trai tôi mới tám tháng tuổi. Sau bảy, tám năm nợ nần, anh ấy vẫn không sao chữa khỏi. Vì thế chúng tôi bắt đầu tu luyện Đại Pháp, với hy vọng việc đó có thể chữa khỏi bệnh cho chồng tôi. Quyền năng kỳ diệu của Đại Pháp khiến cả gia đình chúng tôi sửng sốt, từ đó, họ đều bước vào tu luyện Đại Pháp. Chúng tôi bắt đầu hồng Pháp ở thị trấn của mình và tình nguyện hướng dẫn mọi người luyện công. Dần dần, địa khu của tôi đã có hơn 400 người đắc Pháp.
Khi chính quyền cộng sản bắt đầu bức hại các học viên Đại Pháp vào năm 1999, gia đình tôi đã trở thành tâm điểm. Bởi chồng tôi từng là một phụ đạo viên ở địa phương nên anh ấy bị theo dõi và canh chừng; từ ngày 25 tháng 4 năm 2019, chính quyền địa phương liên tục sách nhiễu gia đình chúng tôi. Đôi khi, chúng tôi còn không được ra khỏi nhà để đi làm. Vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, ba phụ đạo viên ở địa khu của tôi bị bắt giữ. Tất cả các học viên địa phương đã bước ra và đến trụ sở chính quyền địa phương để yêu cầu trả tự do cho ba học viên đó. Cuối cùng, cả ba người đều được trả tự do. Tối hôm ba học viên được thả ra, chúng tôi còn cùng nhau luyện công trong khi công an và viên chức chính quyền địa phương đứng ở ngoài canh chừng đến khi chúng tôi luyện xong. Khi về đến nhà, tôi phát hiện ra cửa ra vào và cửa sổ sau nhà đều bị giám sát và còn có mấy cái bóng đèn ở xung quanh nhà tôi. Họ còn chèn một thanh sắt trước cổng nhà tôi vào ban đêm và bỏ ra vào ban ngày. Họ còn giám sát cửa ra vào để đảm bảo không có ai rời khỏi nhà. Trong thời gian đó, chúng tôi thực sự như bị quản thúc tại nhà.
Ngày 22 tháng 7 năm 1999, nhà tôi bị hơn 30 người lục soát ba lần. Anh trai tôi – không phải học viên – đến thăm tôi, cũng bị công an ở đồn công an và một số viên chức thị trấn đánh đập tàn bạo. Lúc đó, hai vợ chồng tôi bị đưa tới đồn công an và bị tạm giam hơn 10 ngày, bị công an đã đánh đập và tra tấn suốt thời gian đó.
Vào mùa đông năm 1999, một học viên đã tới Bắc Kinh để chứng thực Pháp. Anh đã bị bắt và tra tấn. Chính quyền đã tống tiền gia đình anh 20.000 tệ. Vì họ không chịu nổi áp lực nên đã tiết lộ tên của một số học viên cho chính quyền. Do đó, cháu trai tôi – không phải học viên – cũng bi bắt và đánh đập. Hai vợ chồng tôi còn bị đánh đến mức toàn thân thâm tím.
Vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm lịch năm 2000, cũng là ngày sinh nhật của Sư phụ, hai vợ chồng tôi cùng một học viên khác, bị đưa tới trụ sở chính quyền địa phương và bị đánh đập ở đó. Do bị tuyên truyền của ĐCSTQ đầu độc nên các viên chức cho rằng học viên Pháp Luân Công nào cũng giống như những gì họ thấy trên TV, vì thế họ đánh đập chúng tôi bằng lòng thù hận tột độ. Họ không cho chúng tôi nói mà dùng ba thanh sắt, gậy da có gai của cảnh sát để đánh chúng tôi dã man đến nỗi hai cây gậy của họ bị gẫy. Họ đánh tôi mạnh đến mức tôi không sao ngồi dậy từ sàn xi măng. Hai chân tôi bị sưng tấy đến mức tôi còn không đi được vệ sinh. Thậm chí sau đó một tháng, chân tôi vẫn còn nhiều chỗ sưng tấy. Hai học viên kia còn bị tra tấn dã man hơn tôi. Nếu không có Sư phụ bảo hộ, chúng tôi có lẽ đã bị tàn phế.
Tuy nhiên, bất kể bị bức hại như thế nào, chúng tôi đều kiên định tin vào Sư phụ và Đại Pháp. Chúng tôi kiên định tin rằng chúng tôi không làm sai khi tu luyện và không có gì sai khi trở thành người tốt. Chúng tôi không nên bị bức hại. Chúng tôi muốn đến Bắc Kinh để chứng thực Pháp, nhưng tôi lại bị tâm sợ lại bị tra tấn ngăn trở. Thông qua học Pháp và chia sẻ với đồng tu, tôi có thể đột phá vào tháng 7 năm 2000. Hai vợ chồng tôi đã đi tàu tới Bắc Kinh và chúng tôi còn gặp đồng tu ở trên tàu. Tôi lập tức cảm thấy thân thể mình tràn đầy ánh sáng, và trong tâm thấy rất vui. Tôi tự nhủ: Tôi đến Bắc Kinh để chứng thực Pháp. Tôi sẽ quay lại con đường tôi đi và tôi sẽ không để cho tà ác bức hại một lần nữa.
Sau khi từ Bắc Kinh trở về, tôi nhận ra vì chúng tôi tới Bắc Kinh nên tà ác ở địa phương chúng tôi rất sợ hãi. Chúng giam cầm các học viên ở địa phương tôi và khám xét mọi nơi để tìm kiếm hai vợ chồng tôi. Có thông tin cảnh sát tà ác đã tới Bắc Kinh hai lần để tìm chúng tôi nhưng không thành công. Vì thế, chúng tôi không về nhà mà thuê một nơi để ở và tìm một công việc tạm thời. Khi đến căn hộ để thuê, chúng tôi thấy mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ việc vào ở. Lúc đó, tôi rất xúc động, trong tâm nghĩ Sư phụ vẫn luôn chăm lo cho chúng tôi. Chúng tôi đã giảng chân tướng về Pháp Luân Công cho đồng nghiệp ở chỗ làm để họ hiểu Đại Pháp là tốt.
Giám đốc nhà máy nơi tôi làm việc đã đọc tài liệu tôi đưa anh ấy và anh ấy biết các học viên Pháp Luân Công đều là người tốt, khác với những gì được trình chiếu trên TV. Hai vợ chồng tôi đều làm việc ở nhà máy và chúng tôi đã làm tốt mọi việc. Chính vì vậy, giám đốc nhà máy rất hài lòng với chúng tôi. Chúng tôi đã mở một điểm luyện công ở gần nơi chúng tôi ở. Chúng tôi không có nhiều kinh nghiệm giảng chân tướng nên dành phần lớn thời gian để phát tài liệu và treo/dán biểu ngữ. Trong tháng 12 năm 2000, chồng tôi và một học viên khác bị bắt trong lúc đi phát tài liệu. Họ bị đưa tới đồn công an, bị đánh đập và tra tấn ba ngày đêm để ép khai ra nguồn tài liệu giảng chân tướng. Chồng tôi không nói gì. Cuối cùng, vị học viên kia bị đưa tới trại lao động cưỡng bức, còn chồng tôi thì bị giam tại một trại tạm giam trong một tháng trước khi bị chuyển sang giam ở một trại tạm giam khác trong ba tháng.
Lúc đầu, vì không biết chồng bị bắt nên tôi đã dùng điện thoại bàn để gọi cho anh ấy. Vì thế, chính quyền đã lần theo cuộc gọi và tìm thấy chỗ ở của chúng tôi. Ngay sau khi phát hiện ra chồng tôi bị bắt, tôi nhanh chóng rời khỏi chỗ ở. Sau đó tôi nghĩ: Có gì đó không ổn. Trân quý Đại Pháp chính là trân quý cuộc sống của chính mình. Làm sao tôi có thể không mang theo sách Đại Pháp và băng luyện công khi rời đi? Nếu những tài liệu này bị mất, tôi có còn là đệ tử Đại Pháp nữa không? Vì thế, tôi nhanh chóng quay lại và mang theo toàn bộ tài liệu liên quan đến Pháp Luân Công trước khi rời đi. Ngay sau khi tôi bỏ đi, chính quyền đã tìm đến nơi ở. Lúc đó là vào nửa đêm và tôi đã đến nhà một người họ hàng. Nhưng tôi cũng chỉ ở đây vài ngày khi biết mình không thể luyện công hay học Pháp ở đây. Tôi muốn tìm việc tạm thời có thể nuôi sống bản thân trong lúc tránh chạm trán với chính quyền. Tuy nhiên, vì mọi người lo sợ tôi là học viên, nên không ai nhận tôi. Vì thế, tôi phải lang thang ngoài xã hội hơn ba tháng, chịu đựng đủ mọi khổ nạn. Ngay cả đứa trẻ nhỏ cũng khảo nghiệm tôi. Trải nghiệm này đã giúp tôi loại bỏ được rất nhiều chấp trước.
Khi gần tới Tết Nguyên đán, chấp trước của tôi bắt đầu nổi lên. Tôi nghĩ đến mẹ chồng đã 78 tuổi và con trai 11 tuổi bị bỏ lại ở nhà không có người chăm sóc. Tôi cũng nghĩ về chồng tôi đang bị bức hại ở trại tạm giam. Nhưng tôi không thể quay về nhà vì chính quyền đang tìm kiếm tôi. Tôi thấy thật đau lòng.
Vào đêm giao thừa, chính quyền đến nhà để tìm tôi. Khi không thấy tôi ở nhà, họ đã đến nhà bố mẹ tôi, nhưng cũng không tìm thấy tôi ở đó. Sau đó, tôi biết một người họ hàng của tôi đi vắng nên đến nhà họ trú Tết.
Sau ba tháng bị tạm giam, dưới sự bảo hộ của Sư phụ, chồng tôi được tự do. Chúng tôi tiếp tục tìm được nơi ở tạm. Tôi cũng tìm được một công việc ở gần nơi chúng tôi sống. Tôi biết mọi thứ đều do Sư phụ an bài. Chồng tôi đi phát tài liệu giảng chân tướng trong lúc tôi đi làm. Như vậy, chúng tôi có thể kiếm đủ tiền để trang trải cuộc sống. Nếu có thời gian, tôi cũng ra ngoài để phát tài liệu giảng chân tướng. Lúc đó, có ít học viên ra ngoài để phát tài liệu nên hai vợ chồng tôi phải làm nhiều hơn. Đôi khi, chúng tôi cũng gặp phải can nhiễu, nhưng với sự bảo hộ từ bi của Sư tôn, chúng tôi chưa bao giờ rơi vào tình huống nguy hiểm.
Thời gian trôi qua, ngày càng có thêm nhiều điểm làm tài liệu ở các thôn làng xung quanh. Vì thế, hai vợ chồng tôi đã đi xe máy đến nhiều nơi xa hơn để phát tài liệu. Một lần, có một nhân viên an ninh ở một làng đã ngăn tôi lại. Anh ta đánh, lôi tôi đi và dùng một con dao để đe dọa tôi. Tôi nghĩ: Có Pháp thân của Sư tôn bảo hộ tôi. Tôi không sợ anh. Ngay sau đó, anh ta bỏ đi và tôi đi đến nhiều thôn khác để phát tài liệu.
Vào mùa hè năm 2001, chồng tôi cùng bảy học viên khác bị bắt. Họ bị đưa tới trại lao động cưỡng bức, còn chồng tôi bị giam tại một trại tạm giam một tháng, rồi bị đưa tới đồn công an ở địa phương. Dù công an muốn đưa chồng tôi tới trại lao động cưỡng bức, nhưng anh không đủ sức khỏe vào trại. Đồn công an đã hối lộ trại lao động để họ nhận chồng tôi nhưng không thành công, nên họ đã tra tấn anh. Chồng tôi đã tuyệt thực để phản đối. Sau ba ngày ba đêm, do anh bắt đầu rơi vào tình trạng nguy hiểm nên cuối cùng công an đã thả anh ra.
Trong ba ngày sau khi chồng tôi về tới nhà, dù vẫn đang nằm trên giường chờ phục hồi nhưng hai viên chức ở địa phương đã tới nhà tôi. Họ bắt mẹ chồng tôi ra khỏi nhà, khóa cửa, và bắt đầu đánh chồng tôi một cách tàn bạo. Ba ngày sau, họ lại tới và đưa anh đi nhưng chồng tôi phản kháng. Nhận thấy ở nhà không an toàn nên chồng tôi buộc phải rời khỏi nhà.
Vào năm 2003, một số học viên vận hành điểm sản xuất tài liệu đã bị bắt và chỉ còn một vài học viên vẫn làm tài liệu giảng chân tướng. Vì thế hai vợ chồng tôi quyết định mở điểm sản xuất tài liệu. Tôi nghĩ Sư phụ đã thấy tâm nguyện của chúng tôi nên đã an bài cho một học viên gửi thiết bị cho chúng tôi để chúng tôi tự mở điểm làm tài liệu. Điểm sản xuất này đã vận hành hiệu quả trong năm năm. Vào tháng 10 năm 2008, điểm sản xuất tài liệu của chúng tôi bị khám xét và tôi đã bị bắt, còn chồng tôi đã thoát được và anh cũng báo với những học viên từng liên hệ với anh.
Họ đưa tôi tới đồn công an vào tối hôm đó. Tôi tự nhủ: Ngay cả khi bị lột cả bộ da nguời này, tôi cũng không hợp tác với tà ác để phản bội các đồng tu. Sau đó, tôi nghĩ: Tôi không nên nghĩ như thế. Nếu tôi phải chết thì đó không phải an bài của Sư phụ, mà là do tôi đi theo an bài của cựu thế lực. Tôi nên hoàn toàn phủ nhận ý niệm này và bước đi trên con đường Sư phụ an bài cho tôi.
Tôi quyết tâm không hợp tác với tà ác, mà hoàn toàn phủ nhận an bài của cựu thế lực. Tôi giữ im lặng không nói một lời nào. Một trong những người này yêu cầu tôi ngẩng đầu lên nhìn anh ta. Tôi ngẩng lên, nhìn thẳng vào mắt anh ấy trong khi phát chính niệm tiêu hủy các nhân tố tà ác đang thao túng đằng sau các viên chức. Cảnh sát thấy tôi không bị dao động nên đã đá chân tôi và dùng gót giày đạp vào đầu gối của tôi. Tôi tiếp tục nhìn thẳng vào anh ta với chính niệm mạnh mẽ. Anh ta không thể chịu đựng được và không dám nhìn tôi nữa. Tôi tự nói: Bất kể tà ác có điên cuồng thế nào, tôi vẫn bất động thì sẽ xử lý được mọi tình huống. Việc này đã kết thúc vào ngày hôm sau. Công an đều rất mệt nên đã về nhà để ngủ. Tôi bị còng tay trong tư thế hai tay ở sau lưng và bịt mắt. Tôi tiếp tục phát chính niệm.
Chiều hôm sau, họ đưa tôi tới trại giam. Đến nơi, tôi tự hỏi: “Nguyên nhân nào khiến tôi bị bắt lần này? Tôi bắt đầu bình tĩnh và hướng nội. Tôi tìm thấy nhiều chấp trước của mình – chấp trước an nhàn, tâm tranh đấu, tâm ích kỷ, chấp trước vào chứng thực bản thân và không muốn bị chỉ trích. Có lần, tôi cãi nhau to với chồng vì tôi không chấp nhận bị chỉ trích. Tôi đã rất vô lý và hành động như một người thường. Bị chi phối bởi những chấp trước đó, tôi đã mắng chồng: “Ước gì tôi bị bắt đi để tôi không cần phải ở đây với anh mà bực tức thế này.” Tôi vừa nói xong, chồng tôi đã yêu cầu tôi thu hồi lại những gì vừa nói. Nhưng vì quá quan tâm đến việc giữ thể diện nên tôi không muốn thu lại những lời nói đó, dù biết mình đã sai. cựu thế lực lợi dụng ý niệm bất chính ấy của tôi. Tôi không những bị bắt mà còn gây ra tổn thất lớn cho Đại Pháp. Tôi vượt quan trong sự hối lỗi.
Ngay khi tôi tìm thấy gốc rễ của vấn đề, tôi đã loại bỏ tất cả tâm người thường. Bên cạnh việc phát chính niệm, tôi nhẩm lại các bài giảng của Sư phụ. Tôi cũng đã cố gắng giảng chân tướng cho các tù nhân và yêu cầu họ thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó. Tôi thức dậy lúc 3 giờ 40 sáng hàng ngày để luyện công. Đôi khi, nếu ngủ quên, các tù nhân sẽ đánh thức tôi dậy.
Nhân đây, tôi cũng muốn chia sẻ suy nghĩ của tôi về những gì tôi nhận thấy trong trại giam. Một số học viên đã tuyệt thực trong trại giam và phải chịu nhiều hậu quả. Tôi không nghĩ tuyệt thực là sai. Nhưng chúng ta cần phải thanh tỉnh về lý do tại sao chúng ta nên tuyệt thực, đó là cái tâm nào và khi nào thì nên. Chúng ta, là đệ tử Đại Pháp, là hình ảnh của Đại Pháp. Bất kể làm gì, chúng ta đều nên nghĩ việc đó có hữu ích cho việc chứng thực Pháp và cứu độ chúng sinh hay không. Vậy tại sao chúng ta tuyệt thực? Nếu đó là vì sợ bị đưa đến trại lao động cưỡng bức hoặc hy vọng được trả tự do sớm thì tôi cho rằng mục đích này không thuần tịnh. Cái lậu này sẽ bị cựu thế lực lợi dụng để tiếp tục bức hại chúng ta. Nhiều học viên phải chịu đủ loại hình tra tấn mà cuối cùng vẫn không tránh được bị đưa vào trại lao động cưỡng bức hay bị kết án. Nhiều người trong số họ vẫn bị giam giữ tại nhà tù. Tôi thấy hầu hết các học viên tuyệt thực là những người đang điều hành các điểm tài liệu. Cá nhân tôi nghĩ rằng bất kể chúng ta đã làm bao nhiêu cho Đại Pháp thì cựu thế lực cũng không thể lấy đó làm lý do để bức hại chúng ta. Chúng ta không thể thú tội, ký tên, hay trả lời bất kỳ câu hỏi nào của họ trong lúc ép cung. Tóm lại, chúng ta không thể hợp tác với tà ác. Chúng ta không làm gì sai, và Sư phụ luôn dõi theo chúng ta.
Sư phụ giảng:
“Thân ngọa lao lung biệt thương ai
Chính niệm chính hành hữu Pháp tại
Tĩnh tư kỷ đa chấp trước sự
Liễu khước nhân tâm ác tự bại“(Biệt Ai, Hồng Ngâm II)
Tạm diễn nghĩa:
Đừng Đau Buồn
Thân người nằm trong tù ngục đừng có đau buồn
Niệm chân chính hành sự chân chính có Pháp tại đây
Tĩnh lặng suy nghĩ xem bản thân có bao nhiêu chấp trước
Dứt đi được tâm người thường thì tà ác sẽ tự thất bại
Những gì Sư phụ giảng đều là Pháp. Miễn là chúng ta thực sự lấy Pháp làm thầy, hướng nội và loại bỏ tâm con người, chúng ta hoàn toàn có thể phủ định an bài của cựu thế lực và bước đi trên con đường Sư phụ an bài cho chúng ta. Chúng ta không nhất thiết phải tuyệt thực và chịu đựng về thể xác.
Lần này, tôi bị giam 40 ngày. Trong thời gian đó, tôi bị ép cung chín lần. Lần nào tôi cũng chính niệm chính hành từ chối hợp tác với tà ác. Tôi có Pháp trong tâm và tôi dùng Pháp để đo lường mọi thứ. Khi tôi gỡ bỏ chấp trước của mình và lấy Pháp làm thầy, tôi có thể thấy rõ mục đích của tà ác đằng sau mỗi lời nói, từng cử chỉ của họ. Vì tôi từ chối hợp tác với tà ác nên họ không lấy được bất kỳ lời thú tội hay chữ ký nào của tôi. Họ cố gắng dùng những gì tịch thu được từ điểm tài liệu làm bằng chứng để kết án tôi. Đến ngày 32 bị ép cung, tôi đã nói với viện kiểm sát rằng bất cứ điều gì tôi đã làm đều tốt, nếu họ cố gắng sử dụng những tài liệu này làm bằng chứng để bức hại tôi, tôi sẽ không thừa nhận. Sau mười phút, họ không thể tiếp tục thẩm vấn thêm chút nào nữa. Vào ngày 37, trại giam đã sẵn sàng trả tự do cho tôi. Nhưng công an lại từ chối. Họ nói: “Chị không thú nhận thì làm sao chúng tôi có thể thả chị?” Vì vậy, họ đưa tôi đến một khách sạn và giam tôi ở đó.
Khi tôi không biết phải làm gì, Sư phụ nhắc nhở tôi rằng đã đến lúc tôi tuyệt thực. Được Sư phụ từ bi gia trì, tôi không cảm thấy khát hay đói trong ba ngày đêm. Một trong những viên chức này muốn bức thực tôi. Tôi nói với anh ta: “Tôi không sợ bị bức thực. Anh đọc Minh Huệ Net hàng ngày thì anh hẳn đã biết có một tổ chức thế giới điều tra cuộc bức hại Pháp Luân Công. Nếu anh bức thực tôi hôm nay, anh sẽ được bị tòa án công lý xét xử trong tương lai.” Anh ta đã rất sốc khi nghe điều này đến nỗi mặt đỏ lên. Sau đó, không ai tìm cách bức thực tôi nữa. Khi tôi tiếp tục giảng chân tướng cho họ, thái độ của họ đối với tôi ngày càng tốt hơn. Có người nói với tôi: “Lúc nào chị muốn ăn uống gì thì chị ăn. Khi chính quyền đến kiểm tra, chúng tôi sẽ chỉ nói với họ rằng chị đã tuyệt thực là được.” Tôi nhận ra rằng đó là một khảo nghiệm khác cho tôi. Một đêm, khi tôi thức dậy vào nửa đêm, người bảo vệ cho tôi một ít nước để uống. Tôi từ chối uống. Anh nói: “Chị không tin tôi sao?” Tôi nói: “Không phải vì tôi không tin anh. Tôi tuyệt thực và tôi sẽ không nhận bất kỳ thức ăn hay đồ uống nào.” Anh ta im lặng. Sau đó tôi phát hiện ra nếu tôi nhận bất kỳ đồ ăn nào, thời hạn giam cầm của tôi sẽ bị kéo dài. Sau ba ngày đêm, với chính niệm của đồng tu và được Sư phụ từ bi bảo hộ, tôi được thả ra và trở về nhà một cách trang nghiêm.
Những khổ nạn và bài học này đã khiến tôi lý trí và thanh tỉnh hơn. Tôi càng hiểu tu luyện là nghiêm túc và phải đi trên con đường tu luyện còn lại của mình như thế nào. Chúng con có Sư phụ, có Pháp. Chúng con sẽ học Pháp tốt và lấy Pháp làm thầy. Chúng con chính niệm chính hành và đặt yêu cầu nghiêm khắc cho bản thân. Chúng con sẽ hướng nội bất cứ khi nào gặp khổ nạn và thực tu bản thân, sẽ làm tốt ba việc theo yêu cầu của Sư phụ và cứu nhiều chúng sinh hơn. Chúng con sẽ bước đi tốt và chính niệm đi trên con đường thiêng liêng mà Sư phụ đã an bài để cứu chúng sinh để có thể hoàn thành thệ ước từ tiền sử. Chúng con cũng mong sớm được gặp Sư phụ.
Cảm tạ Sư phụ từ bi!
Bản tiếng Hán: https://minghui.ca/mh/articles/2009/11/23/212949.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2009/12/9/112938.html
Đăng ngày 10-06-2019; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.