Bài viết của ông Vương Vĩnh Hàng ở Trung Quốc
[MINH HUỆ 7-9-2018] Ông Vương Vĩnh Hàng là một luật sư nhân quyền đã biện hộ cho các học viên Pháp Luân Công kể từ khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động cuộc bức hại pháp môn vào năm 1999. Cũng như luật sư Cao Trí Thịnh và nhiều luật sư khác ủng hộ học viên Pháp Luân Công, ông Vương cũng bị chính quyền trừng phạt tàn khốc, bị kết án bảy năm tù giam phi pháp và tra tấn tàn bạo.
Ông Vương hiểu rằng công chúng sẽ không bao giờ biết về những trải nghiệm của ông và nhiều học viên Pháp Luân Công khác nếu họ không kể lại câu chuyện của mình. Dưới đây là trải nghiệm của chính ông Vương về những vi phạm pháp luật của chính quyền cộng sản khi bức hại các học viên Pháp Luân Công.
Luật sư đoạt giải thưởng
Tôi là Vương Vĩnh Hàng ở huyện Cử Nam, tỉnh Sơn Đông. Từ năm 1993 đến 1997, tôi học ngành kỹ sư cơ khí ở Học viện Đường Sắt Đại Liên (nay là Đại học Giao Thông Đại Liên). Sau đó, tôi làm việc tại Nhà máy Đầu máy Đại Liên. Năm 1999, tôi thi đỗ Kỳ thi Tuyển Quốc gia và trở thành cố vấn pháp lý cho nhà máy. Năm 2002, tôi rời nhà máy để hành nghề luật.
Ông Vương Vĩnh Hàng
Mặc dù là một luật sư không có tên tuổi lắm và đang phải vật lộn để mưu sinh, tôi vẫn cố gắng hết sức để nhận biện hộ miễn phí cho những người bị đối xử bất công. Tôi đã miễn phí cho mười trường hợp được bồi thường vì chết oan, ngoại trừ hai trường hợp chỉ tính mức phí tối thiểu vì phải mất rất nhiều thời gian mới kết thúc.
Để có thêm khách hàng, tôi đã mở một quầy tư vấn luật miễn phí ở Hiệu sách Thành phố Đại Liên vào một dịp cuối tuần năm 2005. Tôi được coi là một trong 18 nhà cung cấp dịch vụ pháp luật tốt nhất ở Đại Liên vào năm 2006.
Bị từ chối cơ hội đại diện cho học viên Pháp Luân Công
Ông Vương Xuân Ngạn, một học viên Pháp Luân Công ở Đại Liên bị đưa ra xét xử vào mùa xuân năm 2008. Với tư cách là luật sư của ông, tôi vào phòng xử với toàn bộ hồ sơ pháp lý của mình. Ở thời điểm đó, hiếm khi thấy có luật sư nào bảo vệ cho học viên Pháp Luân Công. Thẩm phán đã đuổi tôi ra khỏi phòng xử. Bà ta nói sẽ báo cáo lên Sở Tư pháp, một tổ chức giám sát luật sư, để điều tra vai trò của tôi trong vụ việc này. Vài ngày sau, tôi nghe nói Sở Tư pháp đã bắt đầu điều tra.
Điều đó thật nực cười! Thẩm phán, cuối cùng, đã tước đi của tôi quyền đại diện cho thân chủ, mà quan trọng hơn là quyền thuê luật sư của thân chủ tôi.
Có một giai đoạn, tôi không tài nào chấp nhận được sự làm dụng quá đáng của hệ thống pháp luật ấy. Nhưng sau đó, tôi sớm biết rằng bất cứ khi nào có vấn đề liên quan đến Pháp Luân Công thì không có gì là nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền cả.
Vợ tôi bị bắt chỉ vì dán đề-can
Vợ tôi, khi đó, đang học tại Đại học Phục Đán ở Thượng Hải. Cô ấy bị công an đưa đi vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 2008 chỉ vì dán đề-can có dòng chữ “Pháp Luân Đại Pháp hảo”. Cảnh sát giam giữ cô ấy với tội danh “sử dụng tổ chức tà giáo nhằm phá hoại việc thực thi pháp luật.”
Ngày 2 tháng 5, tôi đến Đồn Công an Đường Trường Sa ở Thượng Hải, nơi vợ tôi bị giam. Tôi giải thích cho công an ở đó rằng bắt giữ vợ tôi là phi pháp vì hành động của cô ấy không thể bị coi là phạm tội.
Một cảnh sát mặc thường phục quát lên: “Anh phải tin tưởng chúng tôi chứ. Dù sao thì Trung Quốc cũng là quốc gia pháp quyền.”
Tôi đáp lại: “Trung Quốc không phải là quốc gia pháp quyền. Một quốc gia được cai trị bằng luật pháp thì, ít nhất, sẽ không có trại lao động cưỡng bức.”
Ông ta liền bật dậy, rồi chửi rủa tôi.
Tôi muốn thuê một luật sư địa phương đến thăm vợ tôi ở trại tạm giam.Tôi đã đến nhiều công ty luật, nhưng ai cũng lo ngại về việc đại diện cho học viên Pháp Luân Công. Tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ người thân gửi giấy tờ luật sư của tôi tới Thượng Hải để tôi có thể vào thăm vợ, với tư cách luật sư.
Ngày 5 tháng 5, tôi gặp vợ mình với tư cách là luật sư của cô ấy. Sau đó, tôi viết một bức thư ngỏ gửi người đứng đầu nhà nước Trung Quốc để yêu cầu họ tuân thủ luật pháp, trả tự do cho vợ tôi, và chấp dứt bức hại Pháp Luân Công. Bức thư này đã được đăng trên Epoch Times (Thời báo Đại Kỷ Nguyên), một hãng truyền thông của người Hoa tại hải ngoại. Nào ngờ, nó lại trở thành bằng chứng được chính phủ dùng để chống lại tôi.
Ngày 14 tháng 5, vợ tôi được trả tự do, nhưng ngay sau đó, tôi lại trở thành mục tiêu để trả thù.
Bị trở thành mục tiêu bắt giữ vì công bố thư ngỏ trên truyền thông hải ngoại
Cùng tháng vợ tôi được thả ra, Sở Tư pháp Tỉnh Liêu Ninh đã tước bằng luật sư của tôi. Tôi nghe nói ông Trương Gia Thành, người đứng đầu Sở Tư pháp, thậm chí còn đi từ Thẩm Dương (thủ phủ tỉnh Liêu Ninh) đến Đại Liên để chủ trì một nhóm thảo luận làm sao để “cứu” tôi và loại bỏ “ảnh hưởng tiêu cực” của những thông tin tôi viết gửi Sở Tư pháp Liêu Ninh.
Một số viên chức trong hiệp hội luật sư đã đến gặp tôi.
Một người trong họ nói: “Luật sư Vương, chúng tôi đã đọc bài viết của anh. Những gì anh nói là đúng. Chính phủ không thể bác bỏ những vấn đề mà anh nêu ra. Tuy nhiên, đừng để Pháp Luân Công lợi dụng anh. Chúng tôi không ngại những người cao tuổi của Pháp Luân Công, nhưng chúng tôi lo cho những người hiểu luật như anh.”
Tôi nói với ông ta rằng tôi có thể tự biết phải làm gì và sẽ không để bị lợi dụng.
Rồi ông ta yêu cầu tôi. Rằng trước hết, tôi phải xin lỗi và cam kết sẽ không đăng bài viết về các lãnh đạo quốc gia lên các trang web hải ngoại. Tiếp theo, tôi phải hứa không đăng bài trên Epoch Times nữa. Đổi lại, tôi sẽ được trả lại bằng luật sư và hiệp hội luật sư sẽ tạo nhiều điều kiện cho tôi sau này.
Tôi nói với họ rằng tôi viết thư vì tôi không còn lựa chọn nào khác, và tôi cũng không thể nhận lỗi trái với lương tâm mình. Buổi gặp đầu tiên vậy là kết thúc.
Buổi gặp thứ hai diễn ra tại Sở Tư pháp Đại Liên. Phó giám đốc sở chỉ trích tôi vì đã đăng các bài viết nhắm vào lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc và đề cập đến Pháp Luân Công trên truyền thông hải ngoại.
“Làm gì có chuyện bức hại ở nhà tù như các học viên Pháp Luân Công tuyên bố. Nếu anh không tin, tôi có thể sắp xếp cho anh đến Nhà tù Thành phố Đại Liên.”
Tôi giải thích cho ông ấy rằng tôi không còn cách nào khác ngoài việc làm những gì đã làm. Rồi tôi hỏi lại ông ta: “Thứ nhất, vợ tôi bị giam giữ chỉ vì dán mấy tờ đề-can. Cảnh sát không buồn nghe lập luận pháp lý của tôi mà kết thúc cuộc thảo luận khi tuyên bố: ‘Việc này do cấp trên quyết định, chúng tôi làm gì có quyền’. Thứ hai, tôi viết về vấn đề pháp lý. Là viên chức của Sở Tư pháp, ông nên tập trung vào vấn đề tôi nêu ra có đáng chú ý không, chứ không phải việc tôi đăng bài ở đâu, hay nhắm vào ai. Thứ ba, ông biết rất nhiều chuyên gia luật. Tại sao ông không mời mười chuyên gia luật hình sự nêu ý kiến về bài viết của tôi? Chỉ cần có một người nói rằng tôi không dựa trên pháp lý, tôi sẽ làm tất cả những gì mà ông yêu cầu.”
Vị này kết thúc cuộc nói chuyện bằng lời đe dọa: “Vậy nếu đó là Cao Trí Thịnh, nếu là Lý Đức Quân thì sao? Họ có giỏi hơn anh không? Họ chẳng bị chúng tôi bắt rồi còn gì!”
Chu Vĩnh Khang là người phụ trách chương trình “duy trì ổn định“ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông ta đã gia tăng bắt giữ học viên Pháp Luân Công vào tháng 7 năm 2008, trước kỳ Thế Vận hội.
Tôi đã viết và gửi thư ngỏ tới Toà án Tối cao và Viện Kiểm sát Tối cao để chỉ ra những vô lý khi áp dụng Điều 300 của Bộ Luật Hình sự để kết tội các học viên Pháp Luân Công. Nhưng họ có trả lời tôi đâu.
Hai học viên Pháp Luân Công bị kết án tù cho dù tôi nỗ lực biện hộ vô tội cho họ
Vào tháng 8 năm 2008, thành phố Đại Liên đưa hai học viên Pháp Luân Công là bà Cốc Lệ và Khâu Thục Bình ra xét xử. Tôi tới tòa không phải với tư cách luật sư đại diện vì tôi không còn thẻ luật sư hành nghề nữa. Học viên Diêm Thọ Lân ở Đại Liên đi cùng tôi để biện hộ cho họ.
Công tố viên và thẩm phán không thể bác bỏ lập luận của chúng tôi rằng tu luyện Pháp Luân Công là không phạm pháp. Một số người thân của hai thân chủ của tôi cũng đã thay đổi thái độ tiêu cực đối với chúng tôi, thậm chí, chồng của một trong hai học viên còn xin lỗi chúng tôi vì đã tin vào tuyên truyền của chính phủ.
Tuy nhiên, thân chủ của tôi đã bị kết án bốn năm tù, lâu hơn một năm so với học viên mà tôi không biện hộ. Tòa án từ chối không đưa bản án cho tôi, ngay cả khi tôi đến gặp thẩm phán để yêu cầu nhận bản ản.
Bị bắt vì đại diện cho một học viên khác
Một luật sư ở Bắc Kinh và tôi cùng đứng ra biện hộ cho ông Tùng Nhật Húc vào tháng 6 năm 2009.
Ngày 4 tháng 7 năm 2009, khi tôi và mấy người bạn đang ăn trưa tại nhà của bạn tôi thì có một nhóm người xông vào và nói: “Không được cử động. Chúng tôi là cảnh sát của Phòng Cảnh sát Đại Liên.” Rồi họ bắt đầu lục soát xung quanh.
Tôi yêu cầu những người khác tiếp tục ăn, không cần để ý đến họ. Sau đó, một công an đã chỉ vào tôi và nói: “Đưa anh ta đi!”
Hai người đứng đằng sau tôi và ra lệnh cho tôi đứng lên, nhưng tôi không đứng dậy. Họ túm tay, lôi tôi sang một phòng khác có một nhóm công an đứng đợi sẵn. Họ bắt đầu đấm đá và đạp lên người tôi.
Một cảnh sát gọi tên tôi và bắt đầu nhạo báng tôi. Tôi nhận ra rằng họ đã theo dõi tôi sát sao.
Tôi hỏi: “Vì các ông đến để bắt tôi, hãy để họ đi.”
Câu trả lời tôi nhận được là những lời nhạo báng và đấm đá nhiều hơn.
Hôm đó, cảnh sát đã bắt giữ 13 người, trong đó có ông Phùng Cương, một giáo sư nghệ thuật ở Học viện Thuỷ sản Đại Liên. Ông Phùng đã qua đời trong một tình huống đáng ngờ vào ngày 14 tháng 8 năm 2009. Gia đình ông đã nhận được thi thể đông lạnh của ông nên họ có thể yêu cầu điều tra về cái chết của ông.
Thương tích sau lần bị bắt giữ
Cảnh sát đưa tôi đến một đồn công an địa phương và giam tôi trên tầng hai. Một cảnh sát mặc thường phục, tên là Tiêu Kiện, gọi điện cho hết người này đến người khác và hào hứng trả lời điện thoại.
Sau khi anh ta kết thúc các cuộc điện thoại, tôi hỏi anh ta: “Anh cần phải đeo thẻ khi làm nhiệm vụ chứ. Tên anh là gì, anh làm ở bộ phận nào?”
Anh ta khinh khỉnh đáp: “Tôi chẳng việc gì phải nói cho anh cả.”
“Anh bắt tôi thì phải có lý do chứ. Anh có thể cho tôi biết lý do bắt giữ tôi được không?”
“Việc đó tôi cũng chẳng cần phải nói cho anh.”
“Vậy thì tôi cũng không cần phải hợp tác với anh.” Tôi đứng dậy và chạy ra cầu thang.
Khi tôi chạy đến giữa cầu thang thì nhìn thấy cửa vào tầng một đã bị khóa.
Tiêu Kiện đuổi theo tôi và hô người đến giúp. Sau đó, thêm ba công an nữa đến, họ kéo tôi lên tầng hai rồi bắt đầu đánh đập tôi.
Khi họ thấm mệt, họ lôi tôi vào phòng hội thảo. Tôi chỉ bước được vài bước, rồi đột nhiên, tôi cảm thấy mắt cá chân bên phải của tôi tê bại đi.
Họ quẳng tôi xuống đất. Tiêu Kiện vừa đá vào đầu tôi mấy cái, vừa chửi rủa tôi.
Mắt cá chân bên phải của tôi bị sưng tấy, tím bầm và đau nhức. Đến chiều tối, họ lôi tôi xuống tầng một và nhốt tôi trong lồng sắt. Họ còn nhìn thấy mắt cá chân của tôi bị thương.
Rồi họ đưa tôi đến Bệnh viện Trung tâm Đại Liên để chụp X quang. Bác sỹ hỏi tôi sao lại bị thế này.
Tôi trả lời: “Tôi không biết chính xác là vì sao, tôi vừa chạy vài bước thì bị đánh.”
“Thông tin ban đầu rất quan trọng. Anh phải giải thích rõ [nguyên nhân bị chấn thương].”
Có thể là tôi bị thương khi chạy đi, hoặc là, công an đã làm thương mắt cá chân của tôi trong khi họ đánh tôi.
Tôi nghĩ nhiều khả năng là như vậy, nên tôi yêu cầu bác sỹ ghi lại lý do này.
Rồi cảnh sát tìm cách đưa tôi đến trại tạm giam vào tối hôm đó, nhưng trại giam từ chối nhận tôi sau khi nhìn thấy mắt cá chân của tôi. Hôm sau, họ đưa tôi đến Bệnh viên Trung tâm để bó bột. Tuy nhiên, đến chiều, trại tạm giam vẫn không tiếp nhận tôi. Một cảnh sát đã gọi cho cấp trên của ông ta và ép trại tạm giam nhận tôi.
Lính canh ở trại tạm giam đã ra lệnh cho một số tù nhân canh chừng tôi, không cho tôi động vào băng bó bột. Một tháng sau, tôi thấy rất đau ở mắt cá chân bên phải. Khi Tiêu Kiện đến thẩm vấn tôi, tôi bỏ băng bó ở chân và mắt cá chân của tôi đã bị mưng mủ đến nỗi chúng tôi có thể nhìn thấy cả xương.
Từ lúc đó, cứ vài ngày trại tạm giam lại sắp xếp cho công an địa phương đưa tôi đến bệnh viện lấy thuốc.
Cưỡng chế phẫu thuật
Vào giữa tháng 8, một viên chức ở trại tạm giam đã yêu cầu Bệnh viện Trung tâm chụp X quang mắt cá chân của tôi. Kết quả lần chụp đó rất tệ. Viên chức này rất tức giận vì đồn công an đã cẩu thả trong việc điều trị mắt cá chân của tôi. Ông ta gọi cho cấp trên để báo cáo mức độ nghiêm trọng của vết thương của tôi.
Sau đó, đồn cảnh sát đã đồng ý cho tôi đi phẫu thuật để xử lý vấn đề này. Thay vào đó, tôi lại yêu cầu họ thả tôi, và tôi không đồng ý phẫu thuật.
Một ngày nọ, Trưởng khoa Chỉnh hình của Bệnh viện Trung tâm đến nói chuyện với tôi: “Về ca phẫu thuật của anh, anh hãy hợp tác với chúng tôi nếu anh muốn; kể cả anh không muốn thì anh vẫn phải hợp tác. Đây là bệnh viện của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng tôi chỉ nghe lời Đảng. Nếu anh không hợp tác, chúng tôi sẽ gây mê cho anh toàn phần để thực hiện phẫu thuật.”
Vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 25 tháng 8 năm 2009, họ đưa tôi lên bàn mổ. Sau một tiếng chờ, Trưởng khoa Chỉnh hình đến và giận dữ nói: “Công an yêu cầu chúng tôi làm phẫu thuật vào buổi sáng, giờ trưa rồi mà vẫn chưa đưa tiền cho chúng tôi. Bệnh viện chúng tôi có quy định là không nhận được tiền trước thì không có được thiết bị cần có. Chúng tôi chỉ thực hiện ca phẫu thuật với những gì chúng tôi có thôi đấy.”
Trong ca phẫu thuật, tôi nghe thấy bác sỹ này nói với y tá rằng họ không có đúng loại đinh nên phải dùng một loại khác.
Đầu tiên, họ gây mê tôi từ phần hông trở xuống. Sau khi đóng đinh, họ chụp X quang để kiểm tra kết quả. Tôi nghe họ nói: “Xương bị trệch rồi.” Sau đó, họ cho tôi thêm thuốc mê, khiến tôi bất tỉnh.
Trước sự kiên quyết của gia đình tôi, Nhà tù Thẩm Dương Số 1 đã đưa tôi đi kiểm tra chân vào tháng 6 năm 2010. Sau khi xem phim X quang, một giáo sư ở Bệnh viện Liên kết Đại học Y Khoa Trung Quốc Số 2 hỏi tôi phẫu thuật ở đâu. Sau đó, ông ấy nói: “Các bác sỹ ở Đại Liên các anh quá thành thạo rồi.” Tôi thấy giọng mỉa mai trong lời ông ấy và hỏi ông ấy nghĩa là gì. Ông ấy nhìn viên cảnh sát bên cạnh tôi, không nói gì.
Bối cảnh
Ông Vương Vĩnh Hàng, học viên Pháp Luân Công, là luật sư của Văn phòng Luật Càn Quân ở tỉnh Liêu Ninh. Ông đã tư vấn, đại diện và biện hộ cho nhiều học viên Pháp Luân Công từ năm 2007.
Ông đã đăng bảy bài viết trên trang web Epoch Times (tiếng Trung), cùng một thư ngỏ gửi đến văn phòng tư pháp tối cao ở Trung Quốc. Trong bức thư ngỏ với tiêu đề: “Những sai lầm trong quá khứ cần được nhanh chóng khắc phục ngay hôm nay”, ông Vương đã chỉ ra rằng, ĐCSTQ kiểm soát cả hệ thống hành pháp lẫn tư pháp mà không có sự kiểm tra, cân đối, đồng thời lại sử dụng các hệ thống này để bức hại các học viên Pháp Luân Công dưới chiêu bài pháp luật.
Chính vì lá thư này, và dưới áp lực lớn của chính quyền, công ty luật nơi ông làm việc đã chấm dứt hợp đồng với ông. Chính quyền còn tịch thu và giữ giấy phép hành nghề luật sư của ông.
Ông Vương bị bắt vào tháng 7 năm 2009 và bị kết án bảy năm tù giam. Vụ việc của ông đã được đề cập trong báo cáo năm 2010 của Liên Hợp Quốc về tra tấn và các hình thức tàn bạo, vô nhân đạo, ngược đãi hoặc trừng phạt khác.
(Xem tiếp Phần II)
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2018/7/9/370825.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2018/9/19/171964.html
Đăng ngày 02-10-2018; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.