Bài viết của một học viên Pháp Luân Đại Pháp ở Trung Quốc Đại lục
[MINH HUỆ 16-11-2017]
Con xin kính chào Sư phụ từ bi vĩ đại! Chào các bạn đồng tu!
Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp vào năm 1994. Tôi bị tuyên án bảy năm tù vào năm 2003 sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tiến hành cuộc đàn áp Pháp Luân Công vào năm 1999 và tôi phải thi hành án trong 5 năm.
Tôi muốn chia sẻ những trải nghiệm của bản thân trong quá trình tu luyện và cứu độ chúng sinh trong khi ở hắc lao.
Quay trở lại tu luyện Đại Pháp và thuyết phục mọi người thoái xuất khỏi ĐCSTQ ở trong tù
Khi tôi bị bắt, tôi có một cảm giác vô cùng sợ hãi và đã không làm tốt trên phương diện là một người tu luyện. Tôi cảm thấy xấu hổ cho chính mình khi không có được chính niệm đầy đủ. Tôi cảm thấy đau khổ. Nhưng Sư phụ đã an bài rất nhiều cơ hội để thức tỉnh tôi.
Trời đột nhiên đổ mưa khi mọi người trong đội “cải tạo” đang xếp hàng. Mọi người vội núp dưới mái hiên để tránh mưa. Học viên A đứng ngay trước mặt tôi. Ông ấy bảo với tôi là tập thơ Hồng Ngâm II của Sư phụ vừa được xuất bản.
Sư phụ giảng:
Thiểu tức tự tỉnh thiêm chính niệm
Minh tích bất túc tái tinh tấn
Tạm dịch:
Tự kiểm một hồi thêm chính niệm
Phân tích thiếu sót rồi tinh tấn(“Lý Trí Tỉnh Giác”, Hồng Ngâm II)
Tâm của tôi chợt minh bạch và tôi biết rằng Sư phụ vừa thức tỉnh tôi.
Một ngày, tôi gặp một học viên trên đường tới nhà vệ sinh. Ông ấy nói rằng bài kinh văn mới của Sư phụ “Hãy vứt bỏ tâm con người, và hãy cứu độ thế nhân” vừa mới được đăng. Sau đó, khi tôi đang làm việc ở xưởng, một học viên khác nhẩm đọc bài “Mai” trong Hồng Ngâm II. Quả thực, Sư phụ đã giúp chính niệm của tôi dần thức tỉnh từng bước một.
Một ngày, đội trưởng canh tù đưa tôi đi gặp người nhà. Khi chúng tôi bước tới tầng hai, ông ấy đột nhiên nói: “Nếu ông không bị ‘chuyển hóa’, tôi đã không dẫn ông đi gặp các thành viên gia đình ông.” Tôi quay trở lại ngay lập tức. Sau đó, ông ấy tự đi gặp gia đình tôi và mang về cho tôi các đồ dùng cá nhân mà gia đình tôi mang đến cùng với mẩu tin nhắn của chị gái tôi.
Lúc đó, bất chợt những vẫn thơ trong bài “Kiếp nạn” – Hồng Ngâm II hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi biết là tôi phải thực tâm quay trở lại con đường tu luyện. Khi một lính canh tù hỏi tôi về việc tu luyện của tôi, tôi đã trả lời một cách chắc chắn rằng tôi thật sự vẫn đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
Trong đội cải tạo, có một tù nhân trước đó đã từng làm việc ở huyện Đại Ngộ, tỉnh Hồ Bắc. Tôi đã nói chuyện với ông ấy về Pháp Luân Đại Pháp. Ông ấy nói rằng ông biết các học viên là những người tốt nhưng chính ĐCSTQ đã phát động cuộc đàn áp này. Tôi nói với ông ấy rằng tất cả các điều luật của Trung Quốc đều không đề cập đến Pháp Luân Công.
Ông ấy nói: “Cảm ơn ông đã nhắc nhở tôi. Ông nói đúng. Nó không đề cập tới Pháp Luân Đại Pháp và không hề tuyên bố lý do cho cuộc đàn áp. Nó không thể được dùng như là một chính sách để bức hại các học viên.” Tôi khuyên ông ấy hãy thật tâm trân trọng Đại Pháp, có như vậy ông mới được phúc lành. Sau đó, ông ấy đã hiểu ra vài điều mà trước đây bản thân không lý giải được: Ông đã từng bị điện giật với luồng điện 10.000 vôn khi còn đang làm việc ở Đại Ngộ. Nhưng ông ấy không bị sao cả, điều này đã khiến tất cả mọi người đều kinh ngạc. Ông ấy nhận ra rằng ông ấy có duyên với Đại Pháp. Tôi nói với ông ấy rằng mọi người đều đến đây vì Đại Pháp.
Tôi nói với một tù nhân khác đến từ thành phố Trường Xuân rằng: “Pháp Luân Đại Pháp bắt nguồn từ Trường Xuân.” “Mọi người ở đó có duyên phận lớn với Đại Pháp. Nhiều người trong lịch sử biết rằng Đại Pháp sẽ bắt đầu truyền ở Trường Xuân, nên trong thế kỷ thứ 18 có một cuộc di dân lớn đến phía bắc Trung Quốc, và Trường Xuân là trung tâm của khu vực này. Mọi người tới để tìm ‘tam bảo’, chúng được cho là nhân sâm, da chồn, và nhung hươu. Nhưng kỳ thật, họ đến là để chờ đợi sự khai truyền của tam tự chân ngôn ‘Chân – Thiện – Nhẫn’.”
Ông ấy nói với tôi rằng một người bạn của ông đã tặng ông một cuốn Chuyển Pháp Luân khi ông ở trong bệnh viện vào năm 1995, nhưng ông đã không đọc nó. Sau này ông bị cầm tù vì kinh doanh phi pháp. Sau khi trao đổi với tôi, ông ấy nhận ra rằng Pháp Luân Đại Pháp là một pháp bảo cứu mệnh.
Khi tôi giảng chân tướng cho tù nhân C, ông ấy đi chân đất, nên tôi tặng ông ấy một đôi dép lê. Ông ấy đã rất cảm động. Sau khi biết sự thật, ông ấy đã giúp tôi giảng chân tướng cho những người khác. Ông ấy nói chuyện với mọi người về những điều kỳ diệu của Đại Pháp, và khi tôi giảng thanh chân tướng cho tù nhân D, ông C đã kể với ông ấy một câu chuyên mà mình đã trải qua.
Ông ấy kể rằng một gia đình có chín người thuộc ba thế hệ đều tu luyện Pháp Luân Đại Pháp trong làng ông ấy. Thời gian trước, làng của ông đã xảy ra một trận hạn hán nghiêm trọng kéo dài một năm. Cả làng không có lấy một giọt mưa, nhưng trời lại mưa hai lần trên ruộng ngô của gia đình học viên Đại Pháp. Các gia đình khác không thu hoạch được gì, nhưng gia đình vị học viên kia lại có một mùa ngô bội thu. Mọi người gần xa đều biết câu chuyện này. Vì được chứng kiến sự mầu nhiệm của Pháp Luân Đại Pháp, nên ông C đã giúp tôi giảng thanh chân tướng cho các tù nhân khác theo hiểu biết của ông ấy.
Học viên D là người mới đến. Ông ấy kể với tôi về việc các học viên đã bắt đầu thuyết phục mọi người thoái ĐCSTQ trên diện rộng vào năm 2005. Sau đó, tôi cũng đã viết tuyên bố thoái xuất khỏi ĐCSTQ trên sàn đá với một cái xẻng và đề ngày lên đó.
Tạo ra môi trường thích hợp
Cuối cùng, tôi rời khỏi đội cải tạo và bị gửi tới một buồng giam khác. Các học viên trong buồng giam này tu luyện rất tinh tấn và nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau. Điều này đã khiến tôi vô cùng xúc động.
Học viên E đưa cho tôi một cái chăn, cùng với một bản chép tay các bài giảng của Sư phụ. Nó được viết trên giấy bọc thuốc lá. Bìa cuốn sách được làm bằng bìa dầy. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy một cuốn sách Đại Pháp kể từ khi tôi vào tù một năm trước đó. Tôi đã vô cùng xúc động.
Học viên G lớn tuổi hơn tôi. Ông ấy gọi tôi bằng tên và bảo tôi nên học Pháp nhiều hơn. Ông ấy cho tôi xem hai bài giảng Pháp của Sư phụ: “Lời cảnh tỉnh” và “Chân tu”, hai bài giảng này đều được ông chép tay. Tôi đọc đi đọc lại hai bài giảng cho tới khi tôi thuộc chúng. Tôi sử dụng chúng như là một lời nhắc nhở trong tu luyện.
Học viên H còn trẻ. Trước khi anh ấy tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, anh trai của anh ấy phải phẫu thuật. Bác sĩ không nhận tiền của họ. Họ cố đưa cho bác sĩ một hộp dầu như là một món quà nhỏ trong lần gặp gỡ thứ hai. Vị bác sĩ nói ông ấy tu luyện Pháp Luân Đại Pháp và không nhận quà từ bệnh nhân. Học viên H đã rất ấn tượng với vị bác sĩ này. Sau khi anh ấy đắc Pháp, anh đã tu luyện tinh tấn. Anh ấy thuộc lòng cuốn Chuyển Pháp Luân. Và trong giờ nghỉ trưa ở xưởng, học viên F và tôi thường ngồi cạnh H để lắng nghe anh ấy nhẩm Chuyển Pháp Luân.
Sư phụ đã viết nhiều bài giảng trong những năm đó. Hầu hết tất cả các bản chép tay kinh văn của Sư phụ đều được chuyển tới chúng tôi. Chúng tôi ghi nhớ chúng và rồi chuyển cho những học viên khác. Chúng tôi nhẩm các bài giảng từ sáng tới đêm. Với sự giúp đỡ của học viên H, chúng tôi bắt đầu học thuộc Chuyển Pháp Luân từng chút mỗi đêm.
Sau khi bản chép tay cuốn Chuyển Pháp Luân được chuyển tới chúng tôi, học viên F chép một bài giảng ở trên giường hàng đêm. Có tổng cộng 20.000 ký tự trên 50 mẩu giấy, với 400 ký tự trên một mẩu. Anh ấy chép mới nhanh làm sao! Nó không phải được viết trên mặt bàn phẳng mà được viết trên mẩu giấy thuốc lá ở trên giường. Anh ấy chưa từng viết nhiều như thế trước đây. Nhưng trong những ngày đáng nhớ đó, anh ấy có thể viết lại các bài chia sẻ trong khi các học viên chia sẻ tâm đắc thể hội của họ. Nó giống như một phép màu, một trải nghiệm phi thường của Đại Pháp.
Với sự đề cao tâm tính bản thân, chúng tôi nhận ra rằng chỉ học Pháp thôi là chưa đủ. Chúng tôi cần phải đột phá, với chính niệm, tất cả những khống chế áp đặt lên chúng tôi. Chúng tôi phải tạo ra một môi trường để phát chính niệm và luyện công thoải mái hơn. Để làm được điều đó, chúng tôi cần phải giải thể các nhân tố tà ác trong các không gian khác. Tất cả các học viên bắt đầu chứng thực Pháp bằng cách riêng của họ theo thể ngộ ở tầng thứ của mình.
Một đêm, khi tôi luyện bài tĩnh công ở trên giường và sau đó phát chính niệm, thì người tù nhân trực đêm bảo tôi rằng anh ấy sẽ không nói gì nếu chúng tôi luyện công, nhưng anh ấy cảm thấy lo lắng và sợ rằng người khác sẽ báo cáo anh ấy. Tôi đã chia sẻ tình huống của anh ấy với những học viên khác. Chúng tôi cần phải giải thể cả các nhân tố tà ác phía sau tù nhân này để anh ấy không can nhiễu chúng tôi nữa. Anh ấy vẫn còn lo sợ trên bề mặt, có nghĩa là chúng tôi chưa thật sự giúp anh ấy hiểu rõ chân tướng về Pháp Luân Đại Pháp. Nó là vấn đề của chúng tôi.
Chúng tôi cũng coi tất cả tù nhân trong buồng giam là bạn của mình và giảng chân tướng cho họ với mức độ sâu hơn. Chúng tôi nói với họ về luật nhân quả và việc họ sẽ đắc được phúc báo thế nào nếu họ hiểu Pháp Luân Đại Pháp là tốt và đối xử tử tế với các học viên. Chúng tôi cũng nói với họ rằng các lính canh hầu như bị lừa dối và rằng họ nên quan tâm đến những ai đang gặp nguy hiểm hoặc bị thương. Nếu có vấn đề gì, họ có thể đến gặp chúng tôi. Đó thực sự là một cơ hội hiếm hoi cho họ, nhưng thật may là họ đã được gặp học viên Đại Pháp ở đây. Họ đã hiểu ra những điều chúng tôi muốn nói và cười vui vẻ. Với sự bảo hộ của Sư phụ, mọi người đều đề cao trong Pháp, và môi trường tu luyện trở nên ngày càng tốt hơn.
Đối xử với chúng sinh một cách công bằng
Nhà tù nơi chúng tôi ở có hơn chục buồng giam. Hầu hết các tù nhân ở đó đều là tử tù hoặc bị án chung thân. Bởi vì các học viên bị giam chung với họ trong thời gian lâu như vậy, nên những tù nhân này đã có nhận thức sâu hơn về Đại Pháp.
Một ngày, một vài tù nhân đánh học viên M rất thô bạo dưới sự xúi giục của lính canh. Học viên M hét to: “Pháp Luân Đại Pháp hảo”, và tất cả các buồng giam đều nghe thấy ông ấy nói. Chúng tôi chia sẻ với nhau và nhận ra rằng nhiều lính canh vẫn chưa được biết sự thật về Đại Pháp. Họ bị đầu độc bởi những lời dối trá và bị điều khiển bởi lợi ích cá nhân nên họ mới đánh đập các học viên như vậy. Mặc dù, tư tưởng của họ bị tà ác khống chế, nhưng họ cũng là những sinh mệnh đến vì Pháp và cần được cứu độ. Chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi nên phát chính niệm để giải thể các nhân tố tà ác đang thao túng họ. Sau đó, chúng tôi giảng thanh chân tướng và phơi bày những vu cáo dối trá của ĐCSTQ để xóa bỏ những hiểu lầm của họ. Chúng tôi biết là không nên bỏ sót bất kỳ chúng sinh nào.
Tù nhân E trước đó là một giám đốc điều hành của một nhà máy lớn. Học viên F nói chuyện với tôi về tù nhân này bởi vì họ cùng một buồng giam. Người tù nhân này sau đó tới bắt tay tôi và chúng tôi giới thiệu về nhau. Tôi nói với ông ấy về những vụ sát hại được cho là do học viên Đại Pháp làm, mà chính quyền tuyên truyền trên Đài Truyền hình trung ương Trung Quốc, là những lời dối trá và nó được ngụy tạo như thế nào để đầu độc người dân Trung Quốc. Một lính canh đồng tình, và nói rằng kẻ sát nhân thật sự không phải là người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Người lính canh kể cho tôi nghe về gia đình kẻ sát nhân, về công việc của anh ta, và việc anh ta đã phạm tội sát nhân như thế nào.
Tù nhân E khẳng định rằng tôi nói đúng. Cha của kẻ tình nghi là cán bộ nguồn của ĐCSTQ và được Phòng 610 sử dụng. Phòng 610 nói rằng họ sẽ giảm án cho con trai ông ta nếu cậu ta thừa nhận tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Anh ấy nói rằng vị cán bộ nguồn kia là đồng nghiệp của bố mẹ vợ anh ấy và họ đã kể cho anh nghe câu chuyện này.
Tôi nói chuyện với quản giáo nhà tù về vụ án mạng này. Ông ấy lắng nghe và hỏi tôi rằng có phải tôi đã trực tiếp nói chuyện với người này không. Tôi đáp lại là đúng, nhưng tôi không thể tiết lộ danh tính của người cung cấp thông tin. Tôi gợi ý người quản giáo nói chuyện với những người biết về nhân vật cán bộ kia nếu ông ấy quan tâm. Tôi nói rằng họ đều biết câu chuyện này. Ông ấy hiểu ra và cảm động.
Học viên F kể với chúng tôi rằng ông ấy đã đọc bảng thông tin tuyên truyền ở ngoài hành lang, trong đó có nêu rõ trách nhiệm của lính canh trong việc kiểm tra xem có điều luật nào bị vi phạm trong nhà tù không. Nhân cơ hội này, tôi đã giảng chân tướng cho lính cánh C. Tôi nói với ông ấy rằng cuộc đàn áp Pháp Luân Đại Pháp là vi phạm pháp luật, nó là một cuộc vận động chính trị do Giang Trạch Dân khởi xướng và được tuyên truyền bằng những lời dối trá.
Lính canh C trở nên tức giận. Bình thường, ông ấy là người khá nền nã. Ông ấy hét lên: “Cuộc đàn áp này là do chính quyền phát động.” Tôi nói với ông ấy rằng ông đã bị đầu độc bởi những tuyên truyền giả dối của ĐCSTQ, không có bất kỳ điều luật nào cấm tập Pháp Luân Công. Ông ấy ngạc nhiên và nói ông sẽ không nói tới nó nữa cho tới hôm sau. Tôi đoán rằng ông ấy không chắc chắn lắm sau khi tôi chất vấn ông ấy, nên ông về nhà để tìm hiểu thêm. Tôi nhận thấy rằng ông ấy không nói gì cả vào ngày hôm sau. Khi tôi đang đọc cuốn Chuyển Pháp Luân, ông ấy đi tới và nhìn vào cuốn sách, rồi trả lại nó cho tôi. Ông ấy nói: “Ông đang đọc cái này à?” Ông ấy không hề chỉ trích tôi. Tôi cảm thấy rằng ông ấy đã hiểu ra sự thật.
Học viên B bị giam trong phòng biệt giam vì từ chối mặc đồng phục nhà tù. Các học viên ở trong các buồng giam khác cũng ủng hộ ông ấy bằng nhiều cách khác nhau. Chúng tôi chia sẻ và đồng ý rằng chúng tôi nên giảng chân tướng cho lính canh thêm nữa. Học viên F đã thay mặt chúng tôi viết một lá thư gửi tới lãnh đạo nhà tù. Chúng tôi yêu cầu thả học viên B ra khỏi phòng biệt giam ngay lập tức. Tất cả chúng tôi đều ký tên vào thư thỉnh nguyện. Tôi được yêu cầu gửi lá thư cho quản giáo, vì ông ấy là người sẽ đọc nó. Ông ấy nói rằng chúng tôi nên quan tâm tới việc của mình thôi, nhưng sau đó ông lại nói thêm rằng mỗi học viên nên viết một lá thư như vậy.
Học viên B đang bị nhốt trong phòng biệt giam, nên chúng tôi cảm thấy bản thân mỗi người cần phải có trách nhiệm quan tâm tới ông ấy. Tôi yêu cầu người quản giáo chuyển yêu cầu của chúng tôi tới ban quản lý nhà tù. Tôi nói với ông ấy rằng tôi sẽ nói chuyện với các học viên khác về lời khuyên của ông. Chúng tôi không hề nhận ra rằng đó là điểm hóa của Sư phụ: tất cả chúng tôi cần phải viết một bản tuyên bố nhằm biểu đạt sự kiên định của chúng tôi vào Đại Pháp và trong nỗ lực phản bức hại.
Khi chúng tôi nhận được các bài giảng mới của Sư phụ: “Chuyển Luân hướng thế gian” và “Không phải là làm chính trị”, chúng tôi đã hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu sắc của việc chúng sinh cần phải thoái xuất khỏi ĐCSTQ để có một tương lai an toàn. Các học viên sau đó đã bắt đầu khuyên các tù nhân tam thoái.
Một đêm, tôi nghe thấy một cuộc đối thoại giữa hai tù nhân ở hành lang:
“Tâm của tôi trở nên rất thanh thản sau khi tôi thoái ĐCSTQ.”
“Thế sao nó không có hiệu quả với tôi nhỉ?” một người khác hỏi.
“Ông nên biết tại sao. Ông chỉ mới thoái khỏi Đội thiếu niên nhưng chưa hề thoái Đoàn thanh niên. Điều đó có nghĩa là ông chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó. Ông chưa thật tâm thoái. Cho nên hãy nhanh chóng thoái xuất khỏi Đoàn thanh niên đi!”
Khi chúng tôi nhận được một bản chép tay cuốn Chín bài bình luận về Đảng Cộng sản, hàng ngày học viên F đều đọc hết một chương vào giờ ăn trưa. Tôi lắng nghe ông ấy đọc. Sau khi chúng tôi đọc xong chương cuối, các tù nhân nói rằng họ cũng đang lắng nghe. Quả thật, không khí rất yên bình trong giờ nghỉ trưa những ngày hôm đó, không có ai đi lại loanh quanh hay nói chuyện. Cuốn sách cũng được truyền tay đến các tù nhân.
Một ngày, trời mưa trước bữa trưa. Một người đàn ông từ buồng giam khác đứng bên cạnh tôi. Tôi bắt đầu giảng chân tướng cho ông ấy. Ông ấy trông rất hạnh phúc và bảo tôi rằng ông ấy đã biết chân tướng từ trước và đã thoái ĐCSTQ. Ông ấy đã được hoãn án tử hình và cũng đã bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Ông còn nói với các tù nhân khác rằng mình là một học viên Pháp Luân Đại Pháp. Ông nói rằng Sư phụ đã ban cho ông một cuộc đời thứ hai.
Tù nhân G thường nói chuyện với các học viên. Ông ấy đã thoái xuất khỏi ĐCSTQ và cũng muốn học Đại Pháp. Lính canh đã cảnh báo ông ấy về điều đó. Tuy nhiên, ông ấy không nghe theo và nói với các tù nhân khác rằng: “Đúng thế, tôi rất thân thiết với họ. Trong thời gian tôi ở cùng với các học viên, tôi đã thấy họ hành xử như thế nào. Họ đã cho tôi biết rất nhiều giá trị tốt đẹp và nội hàm chân chính của văn hóa truyền thống. Nhìn vào cách hành xử của họ, tôi biết họ là những người tốt. Họ là những học viên với tiêu chuẩn đạo đức cao. Họ thường giúp đỡ các tù nhân khác một cách vô tư vô ngã. Các bạn đều nên biết điều này.”
Cứ khi nào có các tù nhân mới tình cờ ngồi bên cạnh, thì các học viên lại nắm lấy cơ hội để giảng thanh chân tướng. Học viên L biết tên các tù nhân từ danh sách điểm danh trên bảng và anh ấy đã giảng chân tướng cho những ai chưa thoái Đảng.
Chúng tôi không ngừng khuyên các tù nhân thoái ĐCSTQ và các tổ chức liên đới của nó. Ngày càng có nhiều tù nhân hào hứng tam thoái. Một ngày, một tù nhân chặn tôi ở hành lang và nói tôi đã coi thường ông ấy. Tôi hỏi ông ấy sao ông lại nói như vậy. Ông ấy nói tôi đối xử tốt với người khác nhưng lại không đối tốt với ông ấy. Tôi nhận ra rằng tôi chưa khuyên ông ấy thoái ĐCSTQ. Ông ấy nói rằng đã từng tham gia Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên nhưng không phải là đảng viên. Sau đó, ông ấy đã chọn một bí danh và thoái xuất khỏi những tổ chức trên.
Sư phụ định đoạt mọi chuyện
Tôi đang học thuộc Bài giảng số 8 trong cuốn Chuyển Pháp Luân ở xưởng sản xuất vào một ngày năm 2008. Đó là lần đầu tiên tôi có thể đọc thuộc cả bài giảng mà không bị vấp. Đột nhiên có điều gì đó xảy ra trong tim tôi, và tôi bị thổ huyết. Tôi đã chia sẻ với học viên F ở một xưởng khác. Chúng tôi đều cho rằng đó là hảo sự. Vài ngày sau, tôi bị đau khủng khiếp ở ngực và tim rồi lại thổ ra dịch màu hồng. Ai đó báo cho lính canh. Họ đo nhiệt độ của tôi. Tôi bị sốt cao và bị gửi tới bệnh viện của nhà tù.
Tôi vẫn tỉnh táo và lạc quan. Tôi không cảm thấy sợ hãi. Nhiệt độ của tôi giảm xuống ngay trong đêm hôm đó và tôi được xuất viện vào ngày ôm sau. Tôi bị chặn lại ở cổng bệnh viện và bị đưa tới khoa truyền nhiễm lao phổi. Bác sĩ tiêm cho tôi mỗi ngày nhưng không nói là ông ấy đang làm gì. Tôi được điều trị như là một bệnh nhân mắc bệnh lao phổi. Tôi nói với bác sĩ rằng tôi không bị lao và không có triệu chứng của bệnh lao. Vị bác sĩ không nói gì và bỏ đi.
Một ngày, một bác sĩ chuyên khoa tới kiểm tra ngực và dạ dày của tôi. Ông ấy không nói với tôi điều gì sau khi khám xong. Bác sĩ bảo tôi rằng ông ấy đang chuẩn bị một báo cáo về tình trạng nguy kịch của tôi. Lính canh thông báo với các thành viên gia đình tôi đến để gặp tôi. Lính canh cũng yêu cầu họ thuyết phục tôi uống thuốc.
Vợ tôi, cũng là một học viên, em trai tôi, và dì tôi cũng tới gặp tôi. Khi nhìn thấy đôi chân sưng phồng của tôi, họ đã khóc. Họ yêu cầu thả tôi ra khỏi nhà tù. Các nhà chức trách nói rằng gia đình tôi phải tuân theo các quy trình nếu muốn tôi được thả ra để điều trị y tế. Vị cán bộ này nói rằng ông ta sẽ hỏi ban quản lý nhà tù. Các học viên trong tù đều phát chính niệm cho tôi vào lúc đó.
Bác sĩ nhà tù đã gửi mẫu nước tiểu của tôi để kiểm tra bệnh học. Ông ấy nói rằng thận và gan của tôi hoạt động bình thường. Đối mặt với tình huống khó khăn này, tôi chỉ còn biết kiên tín vào Sư phụ và Đại Pháp.
Học viên M có cơ hội để chăm sóc các bệnh nhân ở bệnh viện. Ông ấy thấy tôi ở bệnh viện và đề nghị tôi chia sẻ với học viên N, đang nằm ở buồng kế bên. Học viên N ngộ Pháp rất tốt. Ông ấy học Pháp tốt và luôn hướng nội tìm mỗi khi gặp khổ nạn. Ngay sau khi chia sẻ với ông ấy, tôi đã nhận ra hai vấn đề chính của mình.
Ông ấy nghĩ rằng tốt nhất tôi nên xin bảo lãnh tại ngoại để điều trị y tế và cũng là cơ hội để tôi có thể giảng thanh chân tướng và làm ba việc ở bên ngoài. Ông ấy nói rằng tôi không cần phải lo lắng gì cả, bởi vì tình huống này có thể được Sư phụ an bài.
Sau đó, ông ấy đề xuất là chúng tôi không nên dành quá nhiều thời gian để chia sẻ thể ngộ bản thân. Điều quan trọng nhất là chúng tôi cần phải hoàn toàn phủ định sự an bài của cựu thế lực và hướng nội vô điều kiện trong mọi tình huống. Sư phụ đã ban cho tôi một cơ hội hiếm hoi để hướng nội và đề cao chính mình.
Một vấn đề xuất hiện trong tâm trí tôi: Tôi đã dự thảo một bản dự án cho người giám đốc điều hành mà trước đây tôi từng làm việc dưới quyền. Người giám đốc điều hành mới không phê chuẩn dự án này và chỉ trích tôi về việc này. Lúc đó, tôi mới bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, nhưng đã có thể giải quyết công việc một cách tốt đẹp cho tất cả các bên liên quan.
Tôi biết là Sư phụ đã giúp đỡ tôi. Tôi cũng hoàn toàn ủng hộ vị giám đốc mới. Nhưng sâu trong tâm tôi, tôi vẫn có những bất mãn với ông ấy, đồng thời có tâm hiển thị và truy cầu lợi ích cá nhân. Tôi cũng có tâm tật đố. Tôi không nhận ra những vấn đề này cho tới khi chia sẻ với học viên N. Sư phụ đã hóa giải thống khổ cho tôi trong khi tôi cố gắng giải quyết nó bằng năng lực của mình. Vấn đề này cho thấy tôi có chấp trước mạnh mẽ vào năng lực của bản thân và không tín Sư tín Pháp.
Ngay sau khi tôi phát hiện ra những chấp trước này của mình, tôi cảm thấy một tầng vật chất xấu đã bị giải thể.
Sư phụ giảng:
Thân ngọa lao lung biệt thương ai
Chính niệm chính hành hữu Pháp tại
Tĩnh tư kỷ đa chấp trước sự
Liễu khước nhân tâm ác tự bại
Tạm dịch:
Thân trong ngục tù đừng đau buồn
Chính niệm chính hành Pháp ở đây
Tĩnh tâm suy nghĩ bao chấp trước
Dứt được nhân tâm ác tự bại(“Biệt Ai”, Hồng Ngâm II)
Vài ngày sau, tôi nhận được thông báo rằng các thành viên gia đình tôi đã gửi quần áo mới cho tôi để chuẩn bị cho việc phóng thích. Họ sẽ đón tôi vào sáng sớm hôm sau.
Dưới sự bảo hộ từ bi của Sư phụ, tôi đã được thả sớm hai năm nhờ bảo lãnh điều trị y tế. Nhờ đó mà tôi có thể giảng thanh chân tướng và cứu độ chúng sinh trên diện rộng ở bên ngoài.
Con xin cảm tạ Sư phụ từ bi vĩ đại!
Cảm ơn các bạn đồng tu!
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2017/11/16/356190.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2017/11/27/166548.html
Đăng ngày 28-12-2017; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.