Chia sẻ tại Đại hội Pháp Luân Đại Pháp Âu châu 2005 tại Stockholm
Bài một đồng tu tại Đan Mạch
[MINH HUỆ 18-6-2005] Tôi là đệ tử Đại Pháp tại Đan Mạch. Tôi cảm thấy vô cùng danh dự được chia sẻ kinh nghiệm của tôi hôm nay với chư vị. Lòng biết ơn của tôi đối với Sư phụ Lý vượt lời nói. Tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm của tôi trước và sau khi tôi bắt đầu học Pháp Luân Đại Pháp. Vì tôi là một đồng tu mới, và sự hiểu biết Pháp của tôi còn không sâu, xin chư vị vui lòng chỉ điểm cho những điều gì không đúng trong sự chia sẻ của tôi.
Từ một học sinh Trung học không biết gì về Pháp Luân Đại Pháp, qua khó nạn giữa sống và chết, tôi bắt đầu tu luyện và trở nên một đệ tử Đại Pháp trong thời Chính Pháp. Chính Đại Pháp đã cho tôi một đời sống mới.
Khi tôi mới 16 tuổi và học ở lớp 8, sống tại Trung Quốc, một đại nạn bất ngờ giáng xuống gia đình tôi. Một buỗi chiều ngày thứ sau, 23 tháng mười một năm 2001, cả hai cha mẹ tôi đều bị cảnh sát đến bắt đi vì họ tu luyện Pháp Luân Công. Lúc bấy giờ tôi đang ở trường học. Cảnh sát đến trường tôi và tìm tôi nơi văn phòng. Cái thảm kịch bất ngờ đó đã khiến tôi chết điếng. Dưới sự thúc đẩy của các bạn học tôi, tôi chạy thoát khỏi trường học trong sự kinh hoàng. Từ lúc bấy giờ, tôi, mà trước đây sống trong sự bão bộc thương yêu của cha mẹ tôi không một chút âu lo về thế giới, bắt đầu một hành trình dài không gia cư đầy cô độc, buồn lo và sợ hãi.
Đêm đó tôi nhìn thấy cả nhà tôi bị tan vỡ thành mảnh vun như qua một trận động đất. Tôi trải qua một đêm đầu không ngủ trốn trong một bao bố nơi nhà kho của một người hàng xóm. Cảnh sát tìm tôi, người hàng xóm tốt bụng gữi tôi lên đường tìm ông chú của tôi, là một nông dân sống cách đấy hằng ngàn cây số. Sống sót qua bao nhiêu tai nạn trên con đường đi, tôi cuối cùng đến được nơi ông chú tôi ở nơi miền quê tại tỉnh Phúc Kiến. Nữa năm sau, một ngày tháng năm 2002, cảnh sát xuất hiện nơi nhà ông chú tôi. Dưới sự hăm dọa của cảnh sát, ông chú tôi không còn có thể giữ tôi ở lại được nữa; ông gữi tôi trốn trong một nhà kho tại thành phố Thẩm Quyến, tỉnh Quảng Đông. Tôi trải qua 13 tháng trong một nhà kho không người, sống cách biệt. Trong thời gian đó, chung quanh tôi chỉ là cô đơn, buồn khổ và kinh hoàng. Trong đêm tối, tôi thường thức giấc trãi qua cơn ác mộng đầy nước mắt. Sau khi thức giấc, tôi ngồi bó gối nơi một gốc phòng ôm lấy đầu, và khóc. Mỗi ngày mang đến niềm đau và khổ như vậy khiến sức khỏe tinh thần của tôi bị tổn thương nặng nề. Khi tôi rời nhà kho, tôi không còn có thể nói chuyện bình thường được nữa.
Để cứu mạng tôi, cuối tháng sáu 2003, ông chú tôi, cũng đang sống trong nghèo đói, mượn một số tiền khổng lồ để giúp tôi được mang đi Đan Mạch. Sau một vài giờ đến nơi, tôi bị những người mang tôi ra ngoại quốc bỏ rơi. Một người tốt bụng mang tôi đến Hồng Thập Tự tại Đan Mạch, nhưng tôi vẫn sống trong sự sợ hãi và buồn khổ lớn lao. Một đêm tôi thức giấc trước một cơn ác mộng sắp bắt đầu, khiến cho các nhân viên sở tại kinh hoảng. Ngày hôm sau, người phụ trách nơi ở Hồng thập tự có một cuộc nói chuyện với tôi. Không biết rỏ tại sao, tôi hỏi cô ta có những học viên Pháp Luân Công tại Đan Mạch không. Với sự giúp đở của cô ta, tôi liên lạc được với các đồng tu Pháp Luân Công tại Đan Mạch. Dần dần tôi bắt đầu biết quí tại sao cha mẹ tôi muốn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Tôi dần hiểu các đồng tu Pháp Luân Công, và dần hiểu Đại Pháp.
Tôi may mắn đắc được Đại Pháp
Những việc đầu tiên mà tôi luôn muốn hiểu là tại sao cha mẹ tôi tu luyện Pháp Luân Công, tại sao cảnh sát bắt họ, và tại sao cảnh sát không cho phép chú tôi giữ tôi cả dù tôi không tu luyện Pháp Luân Công. Tôi có nhiều câu hỏi như vậy để hỏi các đồng tu Pháp Luân Công. Nhưng một khi tôi nhìn thấy họ, tôi không ngăn được nước mắt tuôn trào. Câu đầu tiên của tôi là, “Các ông bà có thể giúp tôi tìm cha mẹ tôi không? Tôi nhớ họ nhiều lắm.” Một người đàn bà tốt bụng nói với tôi, “Nếu em muốn biết vì sao cha mẹ em bị cảnh sát bắt, em hãy đến nơi tập công của chúng tôi tuần tới. Em có thể học biết Pháp Luân Công là gì, và các đồng tu Pháp Luân Công nghĩ và làm gì. Có lẻ em sẽ hiểu cha mẹ em và tại sao họ bị bắt.” Cuối tuần lễ sau đó, tôi đi đến nơi tập công tại công viên Tân Hoàng tại Copenhagen. Người đàn bà này đưa cho tôi một bổn Chuyển Pháp Luân và thúc tôi, “Hãy đọc cuốn sách này, em sẽ tìm thấy câu trã lời cho các câu hỏi của em.” Kể từ đó, tôi được biết càng ngày càng nhiều đồng tu Pháp Luân Công. Sự lưu tâm thiện lành của họ sưởi ấm lòng tôi.
Khi tôi bắt đầu đọc Chuyển Pháp Luân, đầu óc tôi bị mê muội và tinh thần tôi rất thấp. Tôi không hiểu gì cả. Một ngày gần cận sau đó, tôi thình lình đạt được một trạng thái thanh tỉnh khi tôi ngồi định. Tôi nhìn thấy mẹ tôi. Bà ngồi trên một bông sen. Lúc bấy giờ tôi không hiểu quyển sách, vì vậy tôi không biết điều này có nghĩa là gì. Các bạn đồng tu nói với tôi rằng Sư phụ đang khuyến khích tôi bằng cách cho tôi thấy sự huy hoàng của sự tu luyện của mẹ tôi nơi một không gian khác.
Một vài tháng sau, tôi cuối cùng được yên chỗ ở và đọc quyển sách. Sự phá hoại tâm lý từ cuộc sống trốn tránh đã hoàn toàn biến tôi thành một người khác. Khi tôi ở trường học, tôi luôn là một học sinh đứng đầu với những điểm học bạ tốt nhất. Nhưng sau các khó nạn, nhất là sau 13 tháng cô lập trong kho chứa hàng tại thành phố Thẩm Quyến, tôi không thể cả nói ra lời được một cách mạch lạc. Đầu óc lý tính của tôi loạn bậy. Khi đọc quyển sách, tôi không có thể đọc xong một câu mà không lầm lỗi. Các bạn đồng tu để ra rất nhiều thời giờ để giúp và khuyến khích tôi. Từng câu từng câu, họ kiên nhẫn sữa cho tôi đọc. Kiên định đánh ngã những chướng ngại tâm lý, tôi đọc xong các sách Đại Pháp cái này kế tiếp cái kia. Đại Pháp vén mở cho tôi một thế giới tuyệt diệu. Trong thời gian này, tôi để mỗi phút vào việc học Pháp, tập công, và chia sẻ với các bạn đồng tu. Dần dần tâm tôi trở nên càng ngày càng nhẹ nhàng. Tôi bắt đầu hiểu nguồn cội của tất cả những khó nạn, triết lý đời người, và ý nghĩa thật của đời người là trở về bản lai của mình.
Buông bỏ các chấp trước và đi trên con đường của một đệ tử Đại Pháp trong thời Chính Pháp
Tôi quí rất nhiều sự may mắn của mình, kết tụ từ bao nhiêu kiếp, đã đưa tôi đến đắc Đại Pháp. Tôi giành dụm tối đa từ nơi số tiền trợ cấp ít oi hằng tháng của tôi để mua giấy đi Copenhagen học Pháp chung và chia sẻ kinh nghiệm. Trong một môi trường trong sạch tu luyện, tôi tiến bộ nhanh và hết lòng tu luyện trong Chính Pháp.
Trong Ngày thế giới Chống Tra tấn tháng sáu 2004, các đồng tu tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên chống tra tấn tại trung tâm Copenhagen, tôi đóng vai một đệ tử Đại Pháp bị đốt. Tôi nhớ lại cha mẹ tôi và rất nhiều các đồng tu Trung Quốc đang bị bức hại tàn bạo. Tôi phải diễn tả nó ra tất cả. Nhiều người xem cảm động bỡi sự trình diễn của chúng tôi. Tôi bị trói chặt và giữ một tư thế suốt từ đầu đến cuối. Trong gió lạnh của miền Bắc Âu, tôi không cảm thấy lạnh chút nào. Đầu óc tôi hoàn toàn tập trung trong sự làm sáng tỏ sự thật cho người dân trên thế giới. Khi cuộc trình diễn kết thúc, các bạn đồng tu thiện từ hỏi tôi có lạnh không. Chỉ lúc bấy giờ tôi mới ý thức cái lạnh và ngay tức thì tôi run rẩy vì lạnh. Sức mạnh của buỗi trình diễn rất lớn lao. Tất cả các đồng tu đã tham gia hết lòng và chịu đựng những đau đớn thể chất. Trường năng lượng phi thường mạnh.
Sau đó, tôi tham gia nhiều họat động chống tra tấn nơi các thành phố lớn tại Bắc Âu, kể cả Phần Lan, Na Uy và Thuỵ Điển. Dù đời sống trên đường đi khá cực, tôi cảm thấy vui và hài lòng được tham gia trong các họat động Chính Pháp của các đệ tử Đại Pháp.
Tháng bảy 2004, trên đường trở về nhà sau một cuộc trình diễn chống tra tấn tại Na Uy, tôi gặp khó nạn. Đêm đến tôi nằm mộng thấy cha mẹ tôi qua đời và chú tôi ký một cái giấy dưới sự hăm dọa của cảnh sát. Nghe như vậy, các bạn đồng tu tại Đan Mạch tức thời gọi điện thoại cho chú tôi. Đây là lần đầu tiên, chú tôi nói sự thật cho tôi nghe. Sự thật, tháng tư 2002, năm tháng sau khi họ bị bắt, cha mẹ tôi cả hai đều bị khủng bố đến chết. Tại vì vậy mà cảnh sát gọi chú tôi vào tháng năm 2002. Họ không đưa ra tài liệu hoặc chứng cớ gì, họ chỉ buộc rằng cha mẹ tôi đã ‘tự vẫn’. Trong khi đó, họ buộc chú tôi ký một tờ tuyên bố chấm dứt mọi liên hệ với gia đình tôi. Không thể che chở cho tôi lâu hơn nữa, chú tôi phải gữi tôi đi trốn trong một kho chứa hàng tại thành phố Thẩm Quyến. Tại Trung Quốc tôi không còn có thân nhân nào khác để có thể che chở cho tôi, và không có cách nào khác. Để cứu tôi khỏi tay của cảnh sát, chú tôi mắc một số nợ lớn để gữi tôi đi ngoại quốc.
Tin tức về cha mẹ tôi mà tôi tìm kiếm từ bao lâu, cuối cùng là cái chết bởi khủng bố. Tà ác đã lấy đi mạng sống của họ vì họ tin nơi Chân Thiện Nhẫn. Lại lần nữa Sư phụ và các bạn đồng tu giúp tôi vượt qua một cú sốc như vậy. Tôi xin cám ơn sự cứu độ từ bi của Sư phụ.
Tháng bảy 2004, đơn xin tỵ nạn của tôi bị từ chối. Chỉ còn lại một dịp may cuối cùng để khiếu nại. Lúc bấy giờ, tôi cảm thấy tuyệt vọng lần nữa như một con người thường. Tôi có một ý tưởng không đúng đắn. Khi tôi mới đến Đan Mạch, vì sợ, tôi nói với cảnh sát một điều gì mà lẻ ra không được nói. Bây giờ cha mẹ tôi đã qua đời. Cả chú tôi, người thân còn lại của tôi trên đời, cũng không dám giữ tôi. Tôi không còn có ai để nương dựa và không còn hy vọng vào gì nữa. Tôi cảm thấy mặc kệ nếu tôi bị gữi trở về. Khi các bạn đồng tu mang tôi đi gặp một luật sư, tôi trã lời các câu hỏi một cách máy móc. Tôi như ngớ ngẫn, không có sáng suốt. Tôi không nghĩ tới dùng trường hợp của cha mẹ tôi để làm sáng tỏ sự thật. Sau cuộc gặp gỡ, các đồng tu chỉ điểm cho tôi một vài điều. Họ nói, “Cuộc đi gặp gỡ luật sư này không có nghĩa là làm cho lấy có hoặc là chấp trước vào sự cháu có ở lại Đan Mạch hay không. Đó là làm sáng tỏ sự thật dựa nơi kinh nghiệm của chính cháu. Hiện tại, cháu là một cô nhi duy nhất của đồng tu Pháp Luân Công mà được ra ngoại quốc. Còn biết bao nhiêu đứa trẻ cũng như cháu tại Trung Quốc. Nhiều đứa là những đứa trẻ bị khủng bố. Chúng đang trong tuyệt vọng chờ đợi chúng ta cứu chúng ra. Cháu cần có một sự hiểu biết rõ ràng vai trò của cháu trong việc làm sáng tỏ sự thật. Cháu cần bình tỉnh, lý trí, và biết phải làm sao như là một đệ tử Đại Pháp. Cháu không muốn nói lên nhân danh cha mẹ cháu sao?”
Sau khi học Pháp đêm đó, các bạn đồng tu giải thích với tôi một cách từ bi, “Chúng tôi cảm thông với cháu. Cháu mất cha mẹ. Chúng tôi mất những bạn đồng tu. Đó là càng có lý do để cho chúng ta tố cáo cuộc khủng bố tà ác đến những cấp khác nhau của chính quyền và dân chúng. Điều này sẽ làm nhẹ đi sự khủng bố các đồng tu tại lục địa. Đó cũng là làm cho những đứa trẻ vẫn còn tại Trung Quốc, cho chúng có gia đình và một đời sống yên ổn. Chúng ta cần cứu những người trên thế giới. Qua sự hiểu biết sự thật về Pháp Luân Đại Pháp, chống lại sự khủng bố, và giúp đỡ các bạn đồng tu Pháp Luân Công, họ sẽ tự đặt vị trí tốt cho họ.”
Qua kinh nghiệm đó, tôi hiểu rằng tôi có khuyết điểm trong sự tu luyện khiến khó khăn cho các bạn đồng tu của tôi đế làm sáng tỏ sự thật. Tôi quyết định tu luyện tinh tấn và buông bỏ chấp trước. Từ đó, mỗi ngày tôi làm ba điều đòi hỏi nơi đệ tử Đại Pháp. Tôi tập Công, học Pháp, phát chính niệm và nói với mọi người quanh tôi về những sự bất hạnh trong gia đình tôi. Để bù đắp vào chỗ hiểu biết hạn chế tiếng nói địa phương, tôi kêu các bạn đồng tu viết những tài liệu dựa trên câu chuyện của tôi để tôi phát ra khắp nơi với số lượng lớn.
Kiên định chính tín nơi Sư phụ, giữ vững Chính Niệm và Chính Hành
Tháng mười 2004, Tòa Tỵ nạn Đan Mạch quyết định cuối cùng về đơn xin của tôi. Nhiều đồng tu tại Đan Mạch đến tòa án để phát chính niệm. Một số đồng tu còn đến từ các thành phố xa xôi. Giữ chính niệm an tỉnh, tôi trã lời chân thật những câu hỏi của quan tòa. Cả dù các bạn đồng tu giúp tôi sắp xếp các tài liệu làm sáng tỏ sự thật về sự khủng bố của cha mẹ tôi, quyết định vẫn là không! Vì các tin tức về cha mẹ tôi chỉ đến ngay trước ngày quyết định cuối cùng. Chính phủ Đan Mạch cho lệnh tôi rời để đi Trung Quốc càng sớm càng tốt. Trong tình trạng đó, tôi không thối chí. Tôi kiên trì tin nơi Sư phụ và Đại Pháp. Tôi vẫn làm ba điều mà các đệ tử Đại Pháp phải làm như thường: tập Công, học Pháp, phát chính niệm và làm sáng tỏ sự thật. Qua trao đỗi kinh nghiệm, các đồng tu hiểu được rằng chúng tôi cần phải vận dụng cơ hội này để làm sáng tỏ sự thật hơn nữa cho chính phủ và thông tấn Đan Mạch.
Sau đó, các đồng tu Đại Pháp trên khắp thế giới được thông tri. Các thư làm sáng tỏ sự thật từ khắp nơi chảy về chính phủ Đan Mạch. Các đồng tu làm những tờ báo cáo thông tấn làm sáng tỏ sự thật dựa trên sự việc của tôi. Tại Đan Mạch và các nước Âu châu khác, các đồng tu đi xuống đường để xin chử ký và kêu gọi sự giúp đở của Quốc Hội, thông tấn, các tổ chức không-thuộc-chính phủ, và Liên hiệp quốc. Một số tổ chức phi chính phủ rất có uy thế tại Đan Mạch viết thư cho chính phủ kêu gọi chú ý trường hợp của tôi. Vị Chủ tịch Hội đồng Luật pháp tại Quốc hội trã lời nhiều buỗi phỏng vấn thông tín về trường hợp của tôi. Ông cũng nghĩ rằng chính phủ đã không thường sự khủng bố các đồng tu Trung Quốc Pháp Luân Công. Ông tỏ rõ sự ủng hộ của ông về trường hợp của tôi. Một đài Truyền Hình địa phương cũng phát hành một báo cáo đặc biệt về tôi. Nhiều người tốt bụng tỏ sự cảm tình đối với Đại Pháp, cũng như sự bất nhẫn của họ đối với sự khủng bố tàn bạo của ĐCSTQ. Khi làm như vậy, họ tự vị trí tốt cho tương lai của họ.
Nhờ vào sự ủng hộ mạnh mẽ của các đồng tu trên thế giới, chính phủ Đan Mạch xét lại quyết định của họ về việc trã tôi lại Trung Quốc. Sau khi được làm sáng tỏ sự thật vững chắc, chính phủ Đan Mạch tỏ ra hiểu biết rất nhiều hơn sự nghiêm trọng của cuộc khủng bố chống Pháp Luân Công. Kết quả là hai đơn xin tỵ nạn của đồng tu khác cũng được chấp thuận khá dễ dàng.
Trong môi trường học Pháp va chia sẻ với các đồng tu, tôi tiến bộ nhanh trong sự tu luyện Pháp chính.
Sau này tôi thuyên chuyển đi nhiều nơi khác xa Copenhagen. Tôi không thể tụ hội với phần đông các đồng tu như trước kia. Cho dù môi trường tu luyện tương đối đơn độc, tôi hiểu ra rằng đi ở những nơi khác mà không có nhiều đệ tử Đại Pháp là một cơ hội để mang Đại Pháp đến cho những người ở những nơi này. Tôi có thể dùng trường hợp của tôi để làm sáng tỏ sự thật với nhiều người hơn và cứu độ họ. Một người phải tự tạo ra môi trường tu luyện cho chính họ. Tôi mau mắn chỉnh đốn tôi lại và lập ra nhóm học Pháp và tập công chung với nhiều đồng tu địa phương. Mỗi ngày tôi tập công, học Pháp, phát chính niệm và làm sáng tỏ sự thật. Tôi giữ mức sống của tôi thấp nhất để giành tiền cho những họat động Pháp chính, và gữi những tài liệu làm sáng tỏ sự thật và Cửu Bình về ĐCSTQ (đăng bỡi nhóm Đại Kỷ Nguyên Thời báo) về Trung Quốc.
Một cuối tuần nọ, một bạn đồng tu và tôi trình bày công pháp nơi một chỗ đông ngừơi, điều này thu hút một phóng viên báo chí đi ngang qua đấy. Mặc dù khó khăn ngôn ngữ, tôi đưa cho ông ta những tài liệu của tôi và làm sáng tỏ sự thật với một ít tiếng Đan Mạch mà tôi biết được. Ngày hôm sau, một bức hình to về công pháp của chúng ta được đăng trong tờ báo địa phương đó.
Sau khi xem lại một số lượng lớn những tài liệu làm sáng tỏ sự thật, Tòa án Tỵ nạn Đan Mạch mở lại hồ sơ của tôi để xử. Vào cuối tháng Tư 2005, đơn xin tỵ nạn của tôi được chấp thuận.
Quí trọng sự may mắn của tôi đắc được Đại Pháp, tu luyện tinh tấn
Từ một đứa trẻ không biết gì về Đại Pháp, tôi gần bị tiêu hủy bởi cuộc khủng bố. Nhờ vào sự cứu độ từ bi của Sư phụ, trên bờ sụp đổ, tôi trở nên một người tu mạnh khỏe cả tinh thần lẫn thể chất. Sư phụ thật sự cứu mạng tôi. Không có lời gì có thể diễn tả sự biết ơn của tôi đối với Sư phụ. Các đệ tử Đại Pháp khắp thế giới đã cho tôi biết bao nhiêu sự chăm sóc thương mến. Sư phụ kính thương, cám ơn Sư phụ! Các đệ tử Đại Pháp thế giới, cám ơn chư vị!
Nơi cõi khác cha mẹ tôi chắc là cảm thấy rất an ủi. Con đường mà tôi đang đi bây giờ là con đường mà họ hy vọng cho tôi nhất. Đó là con đường sáng lạng nhất, với một tương lai tươi đẹp nhất. Tôi quyết chí làm tốt ba điều mà đệ tử Đại Pháp phải làm và dùng câu chuyện của đời tôi để làm sáng tỏ sự thật và cứu độ người trên thế giới.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2005/6/18/104311.html;
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2005/6/26/62273.html.
Dịch ngày 8-7-2005, đăng ngày 17-7-2005; bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên tác.