Bài viết của một đệ tử Đại Pháp tại Michigan, Hoa Kỳ

[MINH HUỆ 12-8-2015]

Kính chào Sư phụ từ bi vĩ đại.

Xin chào các đồng tu.

Từ khi đắc Pháp đến nay, tôi luôn nghĩ rằng mình tín Sư, tín Pháp, tín Thần Phật, đặc biệt là lúc này, khi Sư phụ dẫn dắt các đệ tử hoàn thành thệ nguyện lịch sử cứu độ chúng sinh, đồng tại với Sư phụ, người và Thần đồng tại, bản thân tôi vẫn cho rằng mình rất tin vào Thần Phật.

Nhưng khi làm một số hạng mục gần đây, tôi chợt nhận ra rằng dù miệng nói là tín Thần, ở một tầng thứ nhất định trong tư tưởng cũng có thể nói là tín Thần, nhưng sâu thẳm trong tư tưởng, trong vô thức, thuyết vô thần vẫn in dấu sâu trong tư tưởng tôi. Đồng thời, nó cũng phản ánh một cách không tự biết vào những bài viết của tôi, trong giao tiếp với người thường, trong khi giảng chân tướng, và tất nhiên nó cũng ảnh hưởng đến cả độc giả và thế nhân. Cùng với tiến trình Chính Pháp đang ngày tiến tới rất nhanh, nếu như không chú trọng đề cao tầng thứ của bản thân thì lực độ trợ Sư Chính Pháp cũng sẽ suy yếu đi nhiều.

Sư phụ giảng:

Những lý niệm tà ác mà tà đảng Trung Cộng nhồi nhét ấy, đã được nhìn nhận là ‘bình thường’ trong tư tưởng người Trung Quốc ở Đại Lục. Có những người trẻ tuổi, là từ khi sinh ra là sống trong sự nhồi nhét như thế, đối với họ mà nói thì loại văn hoá biến dị tà ác kia đã trở thành tự nhiên mất rồi, vả lại còn cho rằng những điều bình thường trở thành đáng cười, hoặc không hiểu được. (Giảng Pháp tại Pháp hội San Francisco 2014)

Những người trong thời đại của tôi chính là đã trải qua cuộc sống như vậy, văn hóa đảng, thuyết tiến hóa, thuyết vô thần, từ nhỏ đến lớn luôn rót vào đầu não, vào thâm sâu trong tư tưởng của chúng tôi.

Trong một số hạng mục về phá trừ văn hóa đảng, thuyết tiến hóa và thuyết vô thần, cứu độ thế nhân, giúp thế nhân quay trở về văn hóa Thần truyền, đòi hỏi phải hiểu cảnh giới tư tưởng, hành vi cử chỉ, tầng thứ đạo đức của một số nhân vật lịch sử, khơi dậy những đạo lý làm người, triển hiện ra tư tưởng tình cảm, quy phạm làm người mà Thần đã đặt định cho nhân loại thời đó và những tiêu chuẩn về hành vi con người nên có mà cần truyền lại cho hậu nhân. Trong quá trình đó, tôi đã thể ngộ sâu sắc rằng văn hóa đảng, thuyết tiến hóa, thuyết vô thần đã cản trở tôi làm tốt hạng mục, trợ Sư Chính Pháp, cứu độ thế nhân.

Thời xưa, con người một lòng một dạ tín Thần kính Thần, vì thế mà không tiếc xả bỏ danh, lợi, thậm chí sinh mệnh của mình. Bởi vậy, người thời xưa không tham danh trọng tình, tham sống sợ chết như trong tưởng tượng của người hiện đại vốn chịu ảnh hưởng của giáo dục vô thần luận, mà thản nhiên đi tốt con đường sinh mệnh mà Thần đã an bài. Người xưa sống thuận theo Thiên ý, hiểu biết Thiên mệnh, sống tùy kỳ tự nhiên, an cư lạc nghiệp.

Nếu Thần an bài đời này là hoàng đế, khai sáng cục diện, làm việc đại sự, vậy thì phải làm vị hoàng đế tốt, trăm năm sau chuyển sinh tiếp tục sống tốt một đời mà Thần đã an bài. Nếu Thần an bài đời này làm một người dân bình thường, vậy thì nam cày cấy, nữ dệt vải, kính Thiên tín Thần, tích phúc phận, để kiếp sau lại được chuyển sinh thành người, đợi Thần hạ thế cứu độ.

Chúng ta thường nghe người xưa dạy, dù đầu có rơi bất quá cũng chỉ như vết sứt to trên cái chén, hai mươi năm sau lại chuyển sinh thành một trang nam tử. Vì thực hiện lời hứa, lời thề của chính mình mà xả thân làm việc nghĩa. Bởi vì họ biết rằng lời thệ ước của mình là lời thề trước Thần nên không thể hàm hồ. Đây mới đúng là trạng thái mà con người nên có. Nhưng khi chịu ảnh hưởng, nhồi nhét của thuyết vô thần, văn hóa đảng, thì con người ngày nay bao gồm cả tôi đều đứng từ góc độ thuyết vô thần mà suy đoán về cách làm, hành vi của người xưa, vậy nên đã dẫn đến một loạt những kết luận sai lầm. Ví dụ: Chúng ta cảm thấy rằng người xưa thật ngốc, vì một câu nói của bản thân mà mất đi cả sinh mệnh, thật không đáng. Cảm thấy không sao lý giải nổi việc các tráng sĩ thời Xuân Thu vì không cách nào báo đáp ơn cứu mạng của ân nhân mà đem nghìn vàng ném xuống nước, thực hiện lời thệ ước “thiên kim tương báo” của họ. Tôi đã không nhận ra rằng thực ra người xưa chịu trách nhiệm trước Thần, nhất ngôn nhất hành đều đặt dưới sự bảo hộ của Thần, đây mới là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến người xưa giữ được đạo đức cao thượng.

Khi giải nghĩa Sử ký và các sách cổ có kể về một số vĩ nhân thời xưa từng phái người đi tìm Thần tiên hái thuốc, tôi lại vô thức mà đứng trên quan điểm của thuyết vô thần để đánh giá, cho rằng họ vì sợ chết nên muốn tìm thuốc trường sinh để có thể trường sinh bất lão. Chưa hiểu rõ nguyên nhân mà tùy tiện lý giải như vậy khác nào vu oan cổ nhân, nghĩ lại thật hổ thẹn.

Khi bản thân tu không tốt, tư tưởng không thể phá trừ ảnh hưởng của văn hóa đảng, thuyết vô thần, thuyết tiến hóa, thì sẽ không thấy được chân tướng của lịch sử, không viết ra được sự thực lịch sử, sức cứu người cũng vì thế mà giảm đi. Đồng tu trong hạng mục cũng giúp tôi nhận ra những biểu hiện của văn hóa đảng, thuyết tiến hóa, thuyết vô thần… phản ứng ra trong tư tưởng của tôi, giúp tôi tống khứ chúng. Sau khi đã chuyển biến quan niệm, gắng sức thanh trừ đi được một chút tư tưởng văn hóa đảng, thuyết tiết hóa, thuyết vô thần thâm căn cố đế trong tư tưởng, nhìn lại người xưa mới thấy được sự cao thượng của họ, tôi mới nhận ra văn hóa đảng, thuyết tiến hóa, thuyết vô thần đã bóp méo lịch sử truyền thống và đầu độc con người thời nay ra sao. Thuyết vô thần và văn hóa đảng đã gây trở ngại cho bản thân tôi, khiến tâm thái tôi bất thuần, cho nên hình ảnh người xưa, thậm chí là những vĩ nhân được khắc họa qua ngòi bút của tôi đã không thể hiện được vẻ đẹp sâu xa của văn hóa thần truyền, cảnh giới tư tưởng chân thật của con người thời xưa cũng như sự vĩ đại của các vĩ nhân, ngược lại còn hạ thấp hình tượng của họ. Đây là bài học vô cùng sâu sắc.

Bài học này khiến tôi liên tưởng đến những hạng mục khác bản thân tham gia phải chăng cũng có vấn đề tương tự. Khi việc cứu người của chúng ta có xuất phát điểm không chính, ngược lại dùng văn hóa đảng một cách vô thức, dùng luận điệu và giọng văn, tư tưởng của vô thần luận mà viết các bài giảng chân tướng cứu người hoặc vạch trần sự bức hại của tà đảng đối với Pháp Luân Công, sẽ thường dùng ngôn ngữ chua cay, mang nội hàm không thiện. Người thường xem xong cảm thấy chúng ta đang đấu với tà đảng Trung Cộng chứ không thấy được rằng mục đích thực sự của việc chúng ta giảng chân tướng, vạch trần tà đảng là muốn cứu độ họ.

Điểm luyện công trong công ty tôi do thay đổi nhân sự nên bây giờ chỉ còn mình tôi luyện công. Một vài đồng nghiệp biết về Pháp Luân Công trong công ty hỏi tôi rằng “Chỉ còn có mình anh, sao còn kiên trì làm gì”, tôi nói với họ, tôi luyện công không phải để cho người khác xem, mà vì tôi đã thệ ước với chư Thần rằng tôi sẽ kiên trì đến điểm luyện công. Người thường thời xưa đều rất thủy chung với lời thệ ước của mình, đệ tử Đại Pháp chúng tôi tất nhiên càng phải làm được điều đó. Trừ phi có việc không thể luyện công ra, tôi chưa từng để ngắt quãng việc luyện công ở công ty. Điểm luyện công của chúng tôi ở công viên cũng đã kiên trì gần 20 năm qua không ngắt quãng. Dù trời mưa to chúng tôi vẫn tập dưới mái hiên các nhà chòi trong công viên. Mùa đông chúng tôi vẫn kiên trì luyện công trong phòng học mà chúng tôi thuê được của trường đại học.

Cùng với Thần Vận cứu độ những người có duyên trong giới chủ lưu, chúng tôi cũng bắt đầu tiếp xúc với ngày càng nhiều nhân sĩ trong giới chủ lưu và những người thuộc giai tầng cao trong xã hội. Khi bán vé Thần Vận, chúng tôi không sử dụng hình thức bán vé giá rẻ như trước nữa, mà tiếp xúc với những người trong giới chủ lưu như lãnh đạo công ty, luật sư, bác sỹ, giáo sư, những người này có lý niệm và trình độ văn hóa khác nhau.

Chúng ta đều biết rằng, phúc phận của con người trong đời này là nhờ vào căn cơ của người đó, nhờ vào đức họ tích được từ các đời trước. Những người trong giới chủ lưu trong đời này của họ mà có được địa vị nhất định, giàu sang phú quý, được giáo dục tốt trong xã hội ngày nay thì chắc chắn cũng có căn nguyên của nó. Đồng thời, điều này cũng gây nên khó khăn nhất định cho chúng ta khi muốn tiếp xúc và giảng chân tướng cho họ. Họ thường sống kín cổng cao tường, không tham gia các hoạt động, hội họp của người thường, chú trọng lễ nghi, cách ăn mặc, cử chỉ. Họ thường hoài nghi những người muốn đến gần họ, lo lắng rằng có việc nào đó cần nhờ vả họ, do vậy thường giữ khoảng cách với những người muốn đến tìm họ. Hồi đầu giảng chân tướng, khi có cơ hội tiếp xúc với họ, tôi thường không cân nhắc về hoàn cảnh của họ, nghĩ cách nhanh chóng đưa tài liệu chân tướng cho họ mà không quan tâm xem hiệu quả ra sao. Tôi không nghĩ nhiều về cách ăn mặc, cử chỉ, ngôn từ của mình. Nhưng phần lớn phản ứng tôi nhận được lại là họ chẳng thèm ngó ngàng tới. Lâu dần, tôi cảm thấy thật khó tiếp xúc với họ.

Nhớ lại kinh nghiệm thời đầu tiếp xúc với các nhân sỹ ở tầng lớp chủ lưu và các nhân vật quan trọng trong chính phủ để giảng chân tướng, tôi thường muốn mau chóng thành công, sợ không đủ thời gian, sợ bỏ lỡ cơ duyên, kết quả ngược lại khiến họ sợ hãi mà bỏ chạy. Có một nhân sỹ chủ lưu khi tiếp xúc với tôi đã không nỡ phê bình tôi trực tiếp, mà trích dẫn một câu ngạn ngữ nói với tôi: “Anh có thể dắt được con ngựa đến hồ nước, nhưng anh không thể bắt nó uống nước”. Ý nói là tôi không nên nóng vội mà có thể khiến người ta sợ hãi chạy mất. Trước đây, tôi có việc gấp mới đến tìm họ, không có việc thì rất ít khi đến.

Nhờ sự dẫn dắt của Sư phụ, sự giúp đỡ của đồng tu, cũng như các phản hồi từ người thường, tôi đã nhận ra rằng cần phải tu tốt bản thân. Tầng thứ của bản thân chưa đủ, họ chưa thấy phục mình thì không dễ mà cứu độ họ được. Tôi không chỉ cần phải đề cao trong Pháp lý, mà sống trong xã hội người thường còn phải làm thật chính, bước đi thật ngay thẳng, đường đường chính chính, luyện công nghiêm túc, bán vé đàng hoàng, đối đãi đúng mực với mọi người, đường đường chính chính. Để họ thấy rằng chúng ta là đệ tử Đại Pháp, chứ không giống những người thường khác vì có việc cần nhờ vả nên mới đến tìm gặp họ. Chúng ta thực tâm muốn cứu họ. Họ có thể nhất thời không hiểu nổi, đó là do bản thân những gì chúng ta làm còn có chỗ sơ hở, chưa đạt tiêu chuẩn, cựu thế lực sẽ ngăn cản không cho họ được cứu. Vậy chúng ta cần phải đề cao tầng thứ tu luyện của bản thân, phải làm người tốt trong người thường, phù hợp với trạng thái của người thường, không để cho cựu thế lực lấy cớ để dùi vào, khiến cho họ thực lòng tin phục.

Nhờ sự nhắc nhở của đồng tu, vào dịp lễ Tết, tôi cũng không quên liên hệ hỏi thăm những người quan trọng, duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Hiện giờ thái độ của họ khi gặp gỡ trao đổi với chúng tôi đã có sự thay đổi đáng kể, không tránh né chúng tôi như trước đây, có khi còn chủ động tìm chúng tôi, hỏi thăm tình hình mới thế nào, Pháp Luân Công phát triển ra sao. Các cuộc hẹn gặp với họ cũng trở nên rất thuận lợi. Một nghị viên quốc hội ở khu vực chúng tôi năm ngoái đã ký tên ủng hộ Nghị quyết 281. Năm nay, chúng tôi nói với ông rằng Nghị quyết mới 343 đã ban hành rồi, hi vọng ông tiếp tục ký tên ủng hộ. Cùng với sự nỗ lực của các đồng tu trong vùng, đặc biệt là các đồng tu phụ trách hạng mục VIP đến gặp gỡ nói chuyện tại văn phòng của ông, tình hình rất nhanh chóng không còn trở ngại gì nữa. Chúng tôi đã thấy vị nghị viên quốc hội thâm niên này ký tên vào Nghị quyết 343 mới, tiếp tục con đường ủng hộ chính nghĩa, khống chế tà ác.

Trên đây chỉ là hai thể ngộ trong tu luyện gần đây của tôi. Tâm hiển thị, tâm tranh đấu của tôi vẫn thường xuyên xuất hiện, nói ra những lời không tu khẩu thì sau đó trong tâm vô cùng khó chịu, dằn vặt đến mức không ngủ được. Vậy mà khi thời điểm phù hợp, tâm hiển thị lại nổi lên, rất ngoan cố, thật không dễ tống khứ đi, không phải một hai lần là có thể thanh trừ hết được. Gần đây, tôi quảng bá Thần Vận trong một hội chợ mỹ thuật, tiếp xúc với người trong tôn giáo khác, khi ông ấy muốn khuyên tôi chuyển sang tôn giáo nào đó, tôi lại không kiềm chế được tâm tranh đấu của mình, gần như đã cãi nhau với ông. Kết quả là ông không vui bỏ đi mất. Khi bình tĩnh lại, khắc chế được tâm tranh đấu, tôi dùng trí huệ mà Sư tôn và Đại Pháp ban cho để giới thiệu về Thần Vận cho một số người trong tôn giáo khác, đồng thời nói với họ chân tướng cuộc bức hại Pháp Luân Công, kết quả rất tốt đẹp.

Tôi biết rõ rằng bản thân mình còn nhiều tâm người thường, có một số tâm quả thật thâm căn cố đế, khó mà tống khứ nổi. Có lúc vì muốn bớt phiền hà mà che đậy nó lại, tưởng rằng không có gì quan trọng, bản thân không bộc lộ ra thì người khác cũng không biết, sau này dần dần, âm thầm mà tống khứ đi là được. Tu luyện nhiều năm như vậy mà còn có nhiều tâm chưa tống khứ được, mỗi lần nhớ tới lại cảm thấy sốt ruột, áy náy. Đệ tử sẽ cố gắng nhất ngôn nhất hành đều chiểu theo Pháp mà làm, mà tu, để Sư phụ thêm yên lòng.

Con xin tạ ơn Sư tôn! Cám ơn các đồng tu!

(Bài viết chia sẻ trong Pháp hội miền trung Mỹ quốc năm 2015)


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2015/8/12/313985.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2015/8/14/152059.html

Đăng ngày 17-11-2015; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share