Bài viết của Chánh Phi, một học viên Đại Pháp tại Trung Quốc

[MINH HUỆ 12-11-2013]

Tiếp theo Phần 1 và Phần 2:

Phần 1: https://vn.minghui.org/news/44113-phap-hoi-trung-quoc-nhung-la-thu-tu-trong-tu-the-hien-uy-duc-cua-dai-phap-va-su-kinh-hoang-cua-cuoc-buc-hai.html

Phần 2:https://vn.minghui.org/news/44293-phap-hoi-trung-quoc-nhung-la-thu-tu-trong-tu-the-hien-uy-duc-cua-dai-phap-va-su-kinh-hoang-cua-cuoc-buc-hai-2.html

Trích: Việc giảng chân tướng của tôi đã có năng lượng phá trừ ma tính của ông ấy và tiếp thêm sức mạnh cho tôi vượt qua một khổ nạn sắp tới. Giảng chân tướng không chỉ là chìa khóa để vượt qua khổ nạn, mà còn là bảo vật được sử dụng để cứu chúng sinh.

Bức thư thỉnh nguyện tập thể thứ 2:

Tôi ngộ ra rằng Sư phụ kiểm soát mọi tình huống và đưa ra quyết định cuối cùng trong cuộc bức hại mà tôi phải chịu đựng.

Trại lao động cưỡng bức thuê một giám đốc mới – một người đàn ông to lớn khoảng 50 tuổi. Để tạo ra lợi nhuận cho trại lao động, ông ta đã tìm một nhà đầu tư và xây dựng một nhà máy trang bị hơn 50 máy đan găng tay. Nhà đầu tư yêu cầu tất cả các công nhân phải là các học viên Pháp Luân Công.

Một ngày nọ, khoảng 2 giờ chiều, người giám đốc mới này đang đưa một số quan chức đảng cộng sản đi tham quan quanh nhà máy. Tôi nhân cơ hội này để đưa cho ông ấy một lá thư thỉnh nguyện tập thể thứ hai. Ông ấy hỏi tôi: “Cái gì đây?” Tôi đáp: “Trong bữa trưa, đội phó đội tù nhân bị bắt gặp đang thò tay vào túi của một học viên. Anh ta tuyên bố rằng có giấy bên trong túi và người học viên đó đang cố gắng truyền bá các thông tin Pháp Luân Công. Học viên đó nói rằng người đội phó thực sự đang cố móc túi của anh ấy, và người tù nhân đó đã từng bị kết án về tội danh đó 3 lần rồi. Lính canh đang làm nhiệm vụ đã không điều tra sự việc và đưa thẳng học viên đó vào phòng biệt giam. Sáng ngày mai, việc tuyệt thực sẽ bắt đầu trong bữa ăn sáng. Xin hãy xem chi tiết trong thư thỉnh nguyện.” Ông ấy nói với tôi: “Tôi sẽ gặp ông sau.”

Khoảng 2 giờ sau, tôi được thông báo rằng giám đốc đang đợi tôi dưới một cây liễu lớn. Tôi tới đó và ngồi xuống. Giám đốc nói: “Người học viên kia đã trở về bộ phận của anh ấy. Tôi đã khiển trách lính canh. Anh ta đã đi quá quyền hạn của mình. Không có lệnh của tôi thì không ai bị đưa tới phòng biệt giam. Cám ơn anh đã thông báo kịp thời, nếu không, chúng ta sẽ có tổn thất lớn.”

Tôi hỏi ông ấy: “Tại sao nhà máy làm găng tay lại chỉ chọn các học viên làm việc? Có phải vì các học viên tuân theo Chân – Thiện – Nhẫn và là người tốt không? Mọi người đều biết rằng, vì đố kỵ cá nhân, Giang Trạch Dân đã phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Ông ta không quan tâm tới người dân.” Giám đốc nhìn đồng hồ và nói: “Tôi có một cuộc họp sắp tới. Chúng ta hãy nói chuyện sau nhé.” Ông ấy vội vã đi.

Mặc dù giám đốc có vẻ là người công bằng, ông ta thực ra lại là người dối trá và thủ đoạn. Ông ấy đã cảm ơn tôi khi chúng tôi nói chuyện, nhưng đã tổ chức một cuộc họp tối hôm đó để bàn về việc làm cách nào chuyển tôi đi.

Hướng dẫn viên chính trị của Đội số 5 đã đánh thức tôi dậy vào khoảng lúc 5 giờ sáng hôm sau và yêu cầu tôi gói ghém đồ đạc cá nhân để sẵn sàng rời đi. Tôi hỏi: “Đi đâu?” Anh ta đáp: “Chúng tôi sẽ cho ông biết khi đến lúc.” Anh ta cũng nói: “Ông sẽ đi trong xe của giám đốc mới. Các lãnh đạo số 1 và số 2 sẽ đưa ông đi. Đây là việc chưa từng có tiền lệ. Tình hình của ông sẽ chỉ tốt hơn thôi.” Tôi đáp: “Cảm ơn anh đã nói với tôi như vậy.”

Khi chúng tôi dừng lại để ăn sáng, tôi hỏi: “Tại sao các anh lại chuyển mỗi mình tôi đi?” Chính trị viên đáp: “Chúng tôi nghĩ tốt hơn là tách ông ra khỏi các học viên khác. Nó tốt cho tất cả chúng ta.” Rõ ràng là họ sợ các học viên tạo nên một chỉnh thể! Đó là lý do tại sao họ muốn chia tách chúng tôi.

Một giờ sau, chúng tôi tới sảnh của Sở Tư pháp cấp tỉnh. Giám đốc và quản lý xuống làm thủ tục cho tôi chuyển đi, trong khi chính trị viên đợi trong xe cùng tôi.

Giám đốc quay lại sau 40 phút, trông không được vui vẻ. Ông ấy nói: “Chúng ta đã có thỏa thuận trước chuyến đi này là sẽ chỉ mất 10 phút để làm các thủ tục chuyển giao tới thành phố Cửu Đài (tỉnh Cát Lâm). Bây giờ lại có thay đổi là sẽ chuyển ông tới trại lao động cưỡng bức tiên tiến dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh, và sẽ có trì hoãn. Trại lao động cưỡng bức tiên tiến đã từ chối nhận ông ta. Tất cả học viên ở đó đã bị chuyển tới cơ sở chuyên bức hại Pháp Luân Công. Bây giờ tỉnh đang bàn phương án giải quyết.”

Chính trị viên nhìn tôi và nói: “Trại lao động cưỡng bức tiên tiến là một nơi tốt. Dịch vụ giải trí và nghỉ ngơi ở đó đều là hạng nhất, như là trong khách sạn vậy.” Anh ta nghĩ là tôi sẽ vui khi nghe vậy, nhưng tôi đã không phản ứng gì với những lời của anh ta. Anh ta giữ im lặng và không nói thêm nữa.

Một giờ nữa trôi qua trước khi cuối cùng vị quản lý quay trở lại. Họ đã thông qua quyết định là sẽ chuyển tôi tới trại lao động tiên tiến. Giám đốc nhìn tôi với một nụ cười ngượng ngùng và nói với những người khác: “Gần đây, luôn có những bất ngờ mỗi ngày. Hôm qua, ông già này (ám chỉ tôi) đã đưa tôi một lá thư thỉnh nguyện tập thể. Tôi đã bị sốc và không thể tin được là ông ấy lại làm như vậy. Hôm nay, việc chuyển đi lại không dễ dàng. Nó cũng không phải là điều tôi mong đợi.”

Sau đó ông ấy nhìn tôi và nói: “Chúc mừng ông! Trại lao động cưỡng bức tiên tiến là nơi ông có thể sống cuộc đời về hưu! Chỉ cần ở lại đó thôi. Đừng quá tọc mạch. Dù sao ông cũng quá già rồi.” Chính trị viên nói thêm vào: “Giám đốc của chúng tôi nói những điều này là vì lợi ích của ông đấy!”

Tôi chắp tay lại và nghĩ: “Sư phụ tôn kính, con sẽ làm ba việc tốt hơn tại nơi mới và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình xứng đáng với sự cứu độ của Ngài.”

Sau đó khi các học viên nói về sự kiện này, chúng tôi nhận ra rằng chỉnh thể của chúng tôi là điều mà những kẻ bức hại lo sợ nhất. Tại trại lao động cưỡng bức Hoan Hỉ Lĩnh thành phố Cát Lâm, các học viên đã tạo thành một chỉnh thể rất mạnh mẽ và thật sự có tác dụng phản bức hại, chấn nhiếp tà ác. Kết quả là, các học viên tinh tấn đã bị chuyển tới các trại lao động khác nhau. Tuy nhiên, bất cứ nơi nào mà những học viên này chuyển tới, họ đều phối hợp tốt với những người khác để ngăn chặn và thanh trừ tà ác, do đó tỷ lệ chuyển hóa 100% của trại lao động đã trở thành tỷ lệ 100% học viên quay trở lại tu luyện. Những kẻ bức hại đã sợ hãi khi chuyện đó xảy ra và lần nữa lại chuyển các học viên tinh tấn tới những nơi khác nhau.

Viết các lá thư để chứng thực Đại Pháp và giúp những tù nhân hiểu rõ chân tướng

Môi trường ở trại lao động cưỡng bức cấp tỉnh khác với những trại lao động khác mà tôi đã từng bị giam giữ. Tôi mất môi trường chỉnh thể và cảm thấy cô đơn trong một môi trường tàn ác và đầy áp lực. Sau đó, tôi nhớ rằng không có gì phải sợ miễn là tôi có Sư phụ và Pháp ở bên. Bất cứ tới đâu, chúng ta chỉ đơn giản là nhớ tới thệ ước của mình, vạch trần bức hại, giảng chân tướng và cứu chúng sinh!

Bốn tù nhân hình sự đã được sắp xếp để giám sát tôi 24/7: hai người vào buổi sáng và hai người vào buổi chiều. Vào buổi tối, một người theo dõi tôi tới nửa đêm và một người khác theo dõi tôi thời gian còn lại. Hoàn toàn không có không gian riêng. Thậm chí khi chúng tôi tới nhà ăn, hai tù nhân cũng kẹp tôi ở giữa và giữ tay tôi, sợ rằng tôi cố gắng bỏ trốn.

Tại hai trại lao động đầu tiên, tôi chưa trải qua bức hại kiểu này. Mặc dù môi trường trong các trại lao động khác là tà ác, nhưng tôi vẫn có khoảng không gian riêng. Sau đó tôi nghĩ “Tại sao những tù nhân này lại hành xử như vậy? Vấn đề chính là gì? Làm thế nào mình có thể khiến họ dừng lối hành xử đó lại?”

Sư phụ đã nói với chúng ta rằng: “Giảng chân tướng là chiếc chìa khóa vạn năng” (Giảng Pháp tại Pháp hội Atlanta 2003)

Tôi nhận ra rằng tôi nên giảng chân tướng cho họ về Đại Pháp và cuộc bức hại bất cứ khi nào tôi có cơ hội.

Chúng tôi liên tục bị bắt phải viết “báo cáo tư tưởng”, do đó tôi nhân cơ hội này để giảng chân tướng. Mỗi tuần, tôi chọn một chủ đề để bàn và chú trọng làm rõ một hoặc hai sự kiện. Mỗi lần các tù nhân đọc các “báo cáo tư tưởng” của tôi, họ dường như đều thu hoạch được điều gì đó.

Người ta thường thấy trưởng ban tại trại lao động cưỡng bức tỉnh thường bị thõng vai do đau dạ dày. Trong tuần đầu tiên đến trại lao động, tôi đã viết một lá thư dài cho ông ấy. Tôi nói với ông ấy tại sao mọi người bị bệnh, tại sao những người tu luyện không có bệnh, và những điều tương đồng cũng như những sự khác biệt giữa chữa bệnh tại bệnh viện và chữa bệnh bằng khí công. Tôi cũng viết về các đơn thuốc dân gian và chế độ ăn uống dựa trên những thông tin tôi đã đọc trên báo và tạp chí. Tôi kết thúc lá thư với thông tin về Pháp Luân Đại Pháp và cuộc bức hại.

Những người giám sát tù nhân phải kiểm duyệt lá thư trước khi nó có thể tới tay trưởng bộ phận. Hai trong số những người giám sát không đồng ý với nhau: một người nghĩ rằng lá thư có thể chuyển cho trưởng bộ phận, trong khi người kia không nghĩ thế. Người tù đồng ý chuyển lá thư đã hiểu những gì tôi viết. Anh ấy nghĩ rằng phần giảng chân tướng là một số những thuyết cao tầng nhất quán với y học dân gian.

Tôi nói với anh ấy rằng nghiệp và đức không phải là mê tín, mà thực sự tồn tại. Khoa học hiện đại có thể phát hiện ra sóng não điện tử, và chúng thậm chí còn vi quan hơn cả các hạt. Mặc dù mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy chúng, chúng vẫn tồn tại. Người tù nhân đó hiểu những gì tôi nói và tin tôi. Anh ấy cũng thích thảo luận với tôi nhiều thứ khác. Anh ấy nói: “Nói chuyện với ông giúp tôi hiểu nhiều hơn cả khi tôi học ở trường! Nếu tôi hiểu được những gì ông nói với tôi sớm hơn, tôi đã không ở đây.”

Trưởng bộ phận đã đọc thư của tôi và chấp nhận những gì tôi viết cho ông ấy. Sau một thời gian, ông ấy không còn bị thõng vai nhiều như trước nữa. Ông ấy cũng trở nên dễ dãi hơn với tôi và thường chào hỏi tôi.

Tôi viết cho ông ấy lá thư thứ hai ngay sau lá thư thứ nhất. Nó tập trung vào giảng chân tướng ở mức độ sâu hơn. Tôi viết khoảng 6.000 từ. Vào lúc đó, những người giám sát đều đã trở thành bạn tôi, do đó họ không còn can nhiễu tôi. Trưởng ban cũng đã thay đổi. Ông ấy nói với lính canh: “Hãy nhìn ông già này mà xem! Ông ấy đã hơn 60 tuổi, nhưng không có bệnh. Tôi không thấy ông ấy phải uống thuốc bao giờ. Tôi thì có quá nhiều vấn đề về sức khỏe, và tôi thậm chí mới chỉ 50 tuổi! Tôi sẽ tu luyện Pháp Luân Công sau khi tôi nghỉ hưu.”

Tôi cũng viết một lá thư thật dài, hơn 10 trang, cho con trai và con gái tôi. Tôi viết về cách tôi được dạy dỗ, về những gì mà tổ tiên đã dạy chúng ta liên quan đến làm việc tốt và tích đức, về việc bố mẹ tôi đã tu Phật như thế nào, những trải nghiệm của tôi trong quân đội, và tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công như thế nào. Tôi tập trung vào việc làm thế nào để trở thành một người tốt và làm thế nào tôi có được sức khỏe tốt thông qua tu luyện Pháp Luân Công.

Tất cả 4 tù nhân chịu trách nhiệm theo dõi tôi đều đã đọc lá thư và đều cảm động. Ngoài ra, hầu hết tất cả các tù nhân trong trại lao động cưỡng bức đã đọc lá thư của tôi. Tù nhân A nói với tôi: “Không ai, thậm chí cả bố mẹ con, đã dạy con những điều mà bác viết trong lá thư đó. Nếu con được học những điều này từ khi còn trên ghế nhà trường, thì rốt cuộc con hoàn toàn sẽ không phải vào đây.” Cậu ấy muốn tôi trở thành cha đỡ đầu, nhưng e ngại không dám hỏi. Tôi nói với cậu ấy: “Con bây giờ hoàn toàn là người thân của bác. Bác có thể giúp con viết những lá thư gửi về nhà nếu con không biết phải làm thế nào.”

Sau đó, tù nhân A đã chăm sóc tôi rất tốt. Cậu ấy biết tôi thích trà, do đó cậu ấy đã mang đến cho tôi một ấm trà. Vào mùa hè, cậu ấy lấy cho tôi một cái gối và một cái chiếu. Trong ngày khi hầu hết các tù nhân xếp hàng đến làm việc tại cửa hàng in ấn, cậu ấy sẽ “nhốt” tôi trong phòng tập thể dục. Bằng cách đó, tôi có thể học Pháp và luyện công mà không bị can nhiễu. Cậu ấy cũng không khóa cửa trong 2 tiếng đồng hồ. Vào buổi tối, cậu ấy ngủ gần dưới chân tôi, trong khi tôi luyện bài công pháp số 5.

Những ngày tôi ở trong trại lao động cưỡng bức là những ngày tôi luyện công, học Pháp và giảng chân tướng trong thời gian 1 năm 4 tháng.

Những tội phạm được bố trí để giám sát tôi bị thay đổi định kỳ một người, cứ một hoặc hai tháng một lần. Khi người giám sát mới tới, ba người còn lại sẽ “dạy dỗ” anh ta, và trong tuần đầu tiên, anh ta sẽ hiểu được chân tướng. Giảng chân tướng và chứng thực Pháp thông qua những lời nói và hành động của tôi đã cải biến họ thành người tốt hơn và tạo ra một môi trường bớt áp lực hơn cho tôi.

Tôi hiểu thêm những gì Sư phụ đã nói trong bài “Lộ” trong Tinh tấn yếu chỉ II:

“Con đường một đệ tử Đại Pháp đi chính là một bước lịch sử thật huy hoàng, bước lịch sử ấy nhất định phải tự mình chứng ngộ mà khai sáng.”

Giảng chân tướng là chìa khóa

Sư phụ đã nói trong “Thế nào là đệ tử Đại Pháp”:

 “trong ma nạn bức hại thì mỗi suy nghĩ mỗi ý niệm đều rất then chốt. Chư vị làm được tốt hay không tốt, chư vị có thể bị bức hại hay không, chư vị làm được chính hay không chính, bức hại đến mức độ nào, đều có quan hệ trực tiếp với con đường chư vị tự mình đi, và vấn đề mà tư tưởng chư vị suy xét.”

Tôi nhớ đoạn giảng Pháp này khi một trưởng bộ phận khác phụ trách việc bức hại các học viên Pháp Luân Công cố gắng “chuyển hóa” tôi.

Trưởng bộ phận đã gọi tôi vào phòng ông ấy. Ông ấy có biệt danh là “Cái lưỡi bạc” vì ông ấy được biết tới là người có biệt tài ăn nói nhưng có máu lạnh.

Khi tôi bước vào văn phòng ông ấy và ngồi xuống, tôi nghĩ: “Không vấn đề gì cho dù ông là ‘Cái lưỡi bạc’ hay ‘Cái lưỡi thép’. Tôi chỉ đơn giản là giảng chân tướng. Giảng chân tướng là chìa khóa để phá trừ an bài của cựu thế lực và kết nối nhân tâm.”

Ông ấy tình cờ hỏi làm thế nào mà tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công. Tôi hỏi ông ấy: “Ông sẽ không dùng những lời tôi nói để chống lại tôi đấy chứ?” Ông ấy nói: “Tôi thích những người đến từ tỉnh Sơn Đông như ông. Ông đơn giản và trung thực. Chỉ cần nói cho tôi những gì ông phải nói.”

Tôi nói với ông ấy về gia đình tôi là Phật tử – những người luôn nhấn mạnh việc làm những điều tốt và tìm kiếm hồi báo cho kiếp sau, và về một người bạn trong quân đội đã dạy tôi các bài công pháp của Pháp Luân Đại Pháp. Sau khi học các bài công pháp này, tôi đã khỏi bệnh gan. Nửa năm sau, thị giác của tôi thậm chí còn phục hồi và tôi đã không cần phải đeo kính nữa. Ông ấy lắng nghe chăm chú, do đó tôi đã nói với ông ấy nhiều hơn về luân hồi, về chủ nghĩa vô thần phi lý, về phép nhiệm màu của Đại Pháp, và về những cảnh mà tôi đã thấy thông qua thiên mục của mình. Ông ấy trở nên rất quan tâm.

Tôi nói với ông ấy rằng tôi đã tới Bắc Kinh 4 lần để thỉnh nguyện cho Pháp Luân Đại Pháp và đã bị bắt 2 lần. Tuy nhiên, nhờ có sự bảo hộ của Sư phụ, tôi đã không bị chuyển tới đồn cảnh sát ở thành phố quê hương tôi mà được thả. Sau đó tôi trình bày chi tiết những dối trá trong vụ tự thiêu, cuộc thỉnh nguyện 25 tháng 04, những trường hợp tự sát mà chế độ Trung Cộng đã sử dụng để cố gắng vu khống Pháp Luân Công, v.v…

Ông ấy hỏi tôi: “Ông gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc như thế nào?” Tôi nói với ông ấy rằng Đảng đã tạo nên những khái niệm trừu tượng như “những đặc tính Trung Quốc” để lừa dối người dân. Tôi nói: “Ngay từ lúc đầu, chủ nghĩa cộng sản chỉ là một ảo tưởng. Trên thế giới, chủ nghĩa cộng sản bị coi thường. Trời đang thanh trừ nó. Chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhiều nhà khoa học tài năng sau này đã chuyển sang tôn giáo vì họ nhận ra rằng chỉ có niềm tin vào Thần Phật mới có thể nhận ra chân lý. Luân hồi và báo ứng là hoàn toàn có thực.”

Tôi đã nói chuyện với ông ấy trong hai ngày rưỡi. Cuối cùng ông ấy nói: “Tôi đã biết được nhiều điều từ những gì ông nói! Nhiều người đã không nói với tôi những điều này bởi vì họ sợ. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi đã cảm động bởi sự trung thực và giản dị của ông. Ông hồn nhiên và trong sáng như một đứa trẻ. Tôi đứng giữa hai dòng nước vì tôi phải “chuyển hóa” ông, nhưng tôi thực lòng không muốn buộc ông phải từ bỏ niềm tin của mình. Tôi chỉ muốn nói, vì sự an toàn của ông, xin đừng nói với người khác những gì mà ông đã chia sẻ với tôi.”

Sau đó tôi nghĩ về lý do tại sao ông ấy đã cư xử khác biệt với tôi. Sư phụ đã nói:

“Tuy rằng có sự tồn tại của cựu thế lực, nhưng chư vị không có cái tâm ấy, thì chúng cũng không có chiêu [nào cả]. Chính niệm của chư vị rất đủ, [thì] cựu thế lực không có cách [nào cả].” (Giảng Pháp tại Pháp hội Philadelphia 2002 ở Mỹ Quốc)

Lúc đó, tôi không có ý niệm nào về việc ông ấy tới để “chuyển hóa” tôi. Tôi đơn giản chỉ suy nghĩ rằng tôi phải giảng chân tướng cho ông ấy.

Việc giảng chân tướng của tôi đã có năng lượng phá trừ ma tính của ông ấy và tiếp thêm sức mạnh cho tôi vượt qua một khổ nạn tiếp tới. Giảng chân tướng không chỉ là chìa khóa để vượt qua những khổ nạn, mà còn là bảo vật được sử dụng để cứu chúng sinh.

Sư phụ mới là người quyết định

Còn 1 tuần nữa là tới Tết Nguyên tiêu. Tôi đã chịu thêm 3 tháng nữa trong trại lao động cưỡng bức, nhưng không nghe thấy bất cứ điều gì về việc tôi được thả. Tôi tới đề nghị trưởng bộ phận để kiểm tra về việc đó, và ông ấy nói ông ấy sẽ tìm hiểu về điều đó.

Sau khi ông ấy rời đi, người tù nhân đang làm nhiệm vụ đã tóm lấy tôi và hét lên: “Tôi chỉ muốn đánh ông! Đây có phải là nhà của ông không? Sao mà ông dám nói chuyện với trưởng bộ phận khi chưa được tôi cho phép?”

Có hơn 20 người trong bộ phận của tôi. Tất cả họ đều nói rằng tôi quá ngây thơ, đặc biệt là một học viên lâu năm người đã bị tà ngộ. Anh ấy nói “Ông học Pháp chưa đủ. Ông không nhớ sao? Ông càng chấp trước vào việc đó, ông sẽ càng không đạt được! Không cần nói nhiều cũng thấy ông chưa bị “chuyển hóa”. Tôi vẫn còn ở đây nửa năm sau khi bị “chuyển hóa”. Một số người vẫn còn ở đây một năm sau đó. Hãy ở yên đó!” Tôi tin rằng tôi không phải chịu giam giữ lâu hơn nữa. Tôi nghĩ rằng các học viên bị “chuyển hóa” đã có chấp trước sợ hãi và không xứng đáng với phẩm chất của một học viên Đại Pháp.

Ba ngày trước Tết Nguyên tiêu, vợ tôi tới thăm tôi và mang tới một số đồ ăn năm mới. Trong khi chúng tôi ăn trưa cùng nhau trong căn phòng thăm hỏi gia đình, một lính canh mang tới một thông báo thả và yêu cầu vợ tôi tiến hành các thủ tục tại Phòng 610 của địa phương.

Tối hôm đó, tôi đã chia các đồ ăn và chúc mừng năm mới sớm. Các đồng tu tất cả đều mừng cho tôi. Người học viên đã bị chuyển hóa dừng lại và nói: “Trường hợp của ông đã mở rộng tầm mắt cho tôi. Tôi đã không nghĩ là có thể được thả mà không bị chuyển hóa vì nó chưa từng xảy ra trước đây. Thông thường mọi người có thể về nhà 6 tháng hoặc 1 năm sau khi bị chuyển hóa. Những suy nghĩ của tôi đã không còn phù hợp với tình hình hiện tại nữa. Tôi cần phải thay đổi.”

Tôi nói với anh ấy: “Nó không phải vấn đề về phù hợp hay lỗi thời với tình hình. Tôi không thừa nhận những quy định của họ. Hãy nhớ, Sư phụ mới là người quyết định. Đừng lẫn lộn giữa an bài của cựu thế lực với những biểu hiện của chấp trước. Nếu không, anh sẽ không thể phủ nhận bức hại. Tất cả suy nghĩ của chúng ta phải dựa trên Pháp.” Anh ấy gật đầu đồng ý.

Ngày hôm sau, vợ tôi quay trở lại trại lao động cưỡng bức và một lính canh dẫn chúng tôi đi lấy những dấu má cần thiết cho lệnh thả. Mọi thứ suôn sẻ cho tới bước cuối cùng trước khi nhận được giấy chứng nhận để rời khỏi trại lao động. Các nhân viên nói rằng tôi sẽ không thể rời đi nếu không có đại diện từ Phòng 610 địa phương tới làm các thủ tục thả.

Vợ tôi lo lắng vì cô ấy không muốn lỡ chuyến xe buýt về nhà. Cô ấy hỏi: “Tôi có thể đảm bảo cho việc ông ấy được thả hay không? Các anh có muốn giữ chứng minh thư của tôi không?” Thư ký trả lời: “Để tôi gọi điện hỏi”. Sau khi ông ấy nói chuyện điện thoại, ông ấy nói với vợ tôi: “Bà là một công nhân kiểu mẫu! Lần này tôi sẽ lo chuyện này.”

Lính canh tiễn chúng tôi và nói: “Các vị thật may mắn! Các vị là trường hợp đặc biệt mà tôi biết kể từ khi tôi làm ở đây. Các vị đã làm hai việc chưa từng có tiền lệ ở đây trong trại lao động này.” Vợ tôi hỏi: “Đó là gì vậy?” Anh ấy nói: “Chồng bà là người đầu tiên được thả mà không phải làm ba tuyên bố. Ông ấy cũng là người đầu tiên được thả mà không có sự có mặt của đại diện Phòng 610. Đây không phải là điều mà ai đó có thể làm được. Đừng quay trở lại đây lần nữa!”

2 năm và 3 tháng, tổng cộng là 810 ngày bị giam cầm. Làm sao tôi có thể sống sót mà không có sự bảo hộ của Sư phụ? Sư phụ đã phải chịu đựng thay tôi nhiều tới mức nào? Tôi chỉ có thể nhớ tới sứ mệnh lịch sử của mình và nhớ rằng tôi là một đệ tử Đại Pháp thời kỳ Chính Pháp và làm tốt ba việc để báo đáp Phật ân hạo đãng của Sư phụ.

Như Sư phụ đã giảng trong “Sư đồ ân” trong Hồng Ngâm II:

“Cuồng ác tứ niên bao
Ổn đà hành bất mê
Pháp đồ kinh ma nạn
Trọng áp chí bất di
Sư đồ bất giảng tình
Phật ân hóa thiên địa
Đệ tử chính niệm túc
Sư hữu hồi thiên lực”

Tạm diễn nghĩa:

“Ơn Sư phụ và đệ tử

 “Tà ác điên cuồng đã bốn năm như gió bão bao bọc.
Nắm vững tay lái buồm đi không lạc hướng.
Đệ tử Đại Pháp trải qua biết bao khổ nạn gây bởi ma quỷ.
Dưới bức hại nặng nề mà ý chí vẫn không di chuyển.
Sư phụ với đệ tử không kể tình nghĩa.
Ơn Phật biến hóa trời đất.
Đệ tử chính niệm mà đầy đủ.
Thì Sư phụ sẽ đủ sức đưa trở về trời.”

Có thể nói 2 năm trong trại giam giữ và 4 trại lao động cưỡng bức khác nhau đã giúp tôi hiểu ra rằng miễn là chúng ta thực sự tín Sư tín Pháp, và chiểu theo các yêu cầu của Sư phụ và Pháp, chúng ta có thể vượt qua bất cứ việc gì.

Cho dù chúng ta ở đâu, chúng ta cũng phải phơi bày cuộc bức hại, khởi được tác dụng giảng chân tướng, và cứu chúng sinh. Hãy trân quý con đường tu luyện của chúng ta và luôn ghi nhớ trọng trách và sứ mệnh của chúng ta trong mọi thời khắc!

Tạ ơn Sư phụ! Cảm ơn các bạn đồng tu!


Bản tiếng Hán:https://www.minghui.org/mh/articles/2013/11/12/明慧法会–一切师父说了算(三)-282297.html

Bản tiếng Anh::https://en.minghui.org/html/articles/2013/11/23/143356.html

Đăng ngày 14-12-2013. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share