Từ Đại hội tâm đắc thể hội trên mạng lưới Internet lần thứ ba của các học viên ở Trung Quốc

Bài viết của một học viên tại thành phố Xichang, tỉnh Tứ Xuyên

[MINH HUỆ 23-10-2006]

Kính chào Tôn Sư! Chào các bạn học viên trên thế giới!

Tôi may mắn được đắc Đại Pháp vào tháng ba 1997. Trong chín năm qua, tôi đã trượt ngã trên con đường của tôi, và mặc dù đôi lúc tôi không hoàn toàn hiểu các Pháp lý, do vì đức tin bền vững của tôi nơi Sư phụ và Đại Pháp, tôi đã tiếp tục được tu luyện. Nơi đây tôi muốn viết xuống một số kinh nghiệm của tôi để chứng thực đại lực của Pháp. Xin hãy chỉ điểm cho tôi những gì không đúng.

Sư phụ chu toàn mọi điều cho các đệ tử của Ngài

Khi kinh văn của Sư phụ “Hướng về viên mãn” (ngày 17 tháng sáu 2000) được đăng, tôi cố đi tìm qua nhiều nhà in và cuối cùng tìm được một nhà in chịu nhận đơn đặt hàng của tôi. Ngày hôm sau tôi đi phân phát các bản kinh văn cho các bạn đồng tu trong thành phố. Trời đã tối khi tôi rời nhà để đi phân phát bài kinh văn cho một học viên khác. Tôi quên thêm nước vào ấm đun nước trên bếp và quên mang theo một cái ô.

Tôi đi bằng xe máy của tôi đến nhà người học viên và sau đó mau mắn quay trở về. Trời bắt đầu mưa, nhưng chỉ mưa sau lưng và trước mặt tôi. Tôi không bị ướt chút nào. Về đến nhà, tôi nhìn thấy cái ấm đun nước trên lò với khói trắng bốc ra. Không còn có nước bên trong, nhưng cái ấm đun nước không bị hư. Lửa đã tắt và tôi nghĩ sẽ tốt quá nếu nó còn cháy. Sau đó tôi bắt đầu học Pháp. Không bao lâu sau, lửa lại tự nó cháy lại. Tôi cám ơn Sư phụ trong tâm. Sư phụ chu toàn mọi điều cho đệ tử của Ngài.

Chứng thực Đại Pháp tại sở cảnh sát

1.Đối diện với cực hình tàn bạo bằng chính niệm, tôi bình phục khỏi bệnh ghẻ

Ngày 13 tháng năm 2001, trong Trại Lao Động Cưỡng bách Xinhua, tỉnh Tứ Xuyên, hơn mười học viên quyết định mừng ngày Sinh Nhật của Sư phụ cùng nhau. Đến trưa, nhiều người trong chúng tôi bị tra tấn bằng dùi cùi điện. Khi dùi cùi điện chạm vào sống lưng quần của tôi, tôi khóc lớn lên vì đau. Một lính canh la lên, “Khóc đi! Khóc đi!” Tôi bấy giờ nhớ lại rằng tôi là một học viên Đại Pháp và tôi phải tự khống chế tôi và đừng có khóc. Khi tư tưởng này xuất hiện, tôi không còn cảm thấy đau nữa khi người lính canh lại giật điện tôi.

Y giật điện tôi khắp nơi bên trên người tôi. Khi y hỏi tôi có đau không, tôi bình tĩnh nhìn y và nói, “Ông có thể biết nếu thử lên mình ông.” Y ngừng giật điện tôi. Tôi bị ghẻ trong nhiều tháng. Chúng rất ngứa, vì vậy tôi thường gãi và trong đêm không ngủ được. Sáng ra, tôi thường thấy móng tay tôi đầy một lớp dầy mủ máu. Sau khi họ châm cùi điện tôi và tôi có Chính Niệm, đêm đó tôi không còn cảm thấy ngứa nữa. Nhiều ngày sau, tôi bình phục hết bệnh ghẻ. Sư phụ đã chịu đựng sự đau khổ cho tôi.

2.Tà ác rút lui khi các học viên kiên trì

Tháng tám 2001, các lính canh cố buộc nhiều người trong chúng tôi rời bỏ đức tin của chúng tôi nơi Đại Pháp. Chúng tôi bị buộc đứng thẳng như lính từ 7:00 giờ sáng cho đến 11:30 giờ sáng, sau đó sau bữa ăn trưa, từ 12:00 đến 6:00 giờ chiều, và sau bữa ăn tối, từ 7:00 giờ tối cho đến nửa đêm. Vào tháng tám, trời rất nóng tại thành phố Mianyang. Cả cho dù chúng tôi mặc đồ ngắn và áo tay ngắn, chúng tôi vẫn đổ mồ hôi ướt nhẹp. Buổi sáng chúng tôi không nhận được đồ ăn sáng và phải đứng trọn 1 ngày không có nước. Chúng tôi bị đánh khi chúng tôi cố uống một chút nước chảy nhỏ giọt trong nhà vệ sinh. Sau mười ngày chịu đựng cực hình này, đôi chân tôi bị sưng lên. Tôi nhìn vào trong và hiểu rằng tôi đã không học Pháp với một tinh thần bình tĩnh trong những ngày đó vì lính canh và tù nhân luôn làm phiền tôi. Tôi luôn nghĩ với khía cạnh con người của tôi và nghe cái gì người khác nói.

Hiểu được sự thiếu sót này, tôi quyết định đọc thuộc lòng Pháp với một ý chí thanh tịnh. Mỗi sáng, tôi đầu tiên đọc thuộc lòng Luận Ngữ và sau đó bản tiết mục của Chuyển Pháp Luân. Sau đó tôi cố nhớ lại mỗi phần. Ngày hôm sau, tôi đọc thuộc lòng các bài kinh văn mới của Sư phụ và Hồng Ngâm. Tôi kiên trì đọc thuộc lòng Pháp. Qua sự đọc thuộc lòng Pháp, tôi hiểu ra rằng tôi đã không hiểu Pháp một cách rõ ràng, vì vậy tôi không hoàn toàn phủ định những lời của lính canh. Khi tôi đọc thuộc lòng câu, ”Nếu chư vị không kiên quyết trong Pháp một cách căn bản, mọi điều khác đều không bàn đến.” (“Chư vị tu luyện cho ai?” trong Tinh tấn yếu chỉ) Tôi chợt hiểu ra rằng tôi phải kiên trì tin nơi Đại Pháp và Sư phụ. Sau đó không ai đến nói chuyện với tôi và không ai cắt ngang sự học Pháp của tôi.

Không bao lâu sau, một số tù nhân bắt đầu lại làm cản trở sự học Pháp của tôi. Họ xô đẩy tôi với lý do là tôi không đứng theo tiêu chuẩn. Tôi đọc thuộc lòng bài thơ:

”Sinh vô sở cầu,
Tử bất tích lưu;
Đãng tận vọng niệm,
Phật bất nan tu.”
(“Vô tồn” trong Hồng Ngâm I)

Tạm dịch là:

Vô Tồn

Sống chẳng tham cầu,
Chết không lưu luyến;
Sạch bong vọng niệm,
Tu Phật không khó.

Và hiểu ra rằng tôi phải buông bỏ chấp trước về sống chết. Bất kể lính canh tra tấn tôi thế nào, tôi phải tu luyện Đại Pháp cho đến cùng. Sau khi tôi tìm thấy được chấp trước của tôi, tình thế thay đổi. Các sự tra tấn của họ trên tôi chấm dứt một vài ngày sau đó.

3.Điều Thiện đến với những ai đối đãi tốt với học viên

Có một tù nhân tên gọi là “Monk.” Anh ta bị một bệnh khiến anh ta xùi nước bọt và bất tỉnh. Nhiều lần, anh ta lượm chai nước không, đỗ nước vào và cho các học viên uống. Một lần một tù nhân xấu nhìn thấy và đánh anh ta. Nhưng từ đó, cái bệnh của anh ta không còn trở lại và anh ta trở thành khá khoẻ mạnh. Anh ta được thả ra nửa năm sớm hơn thời hạn định. Các tù nhân khác cảm thấy trường hợp của anh ta rất rõ rệt. Sư phụ từ bi đối với mọi chúng sinh.

4.Bảo vệ Đại Pháp tại cuộc hội họp

Vào cuối 2001, lính canh tổ chức những cuộc đại hội họp trong trại lao động, và những người gọi là ‘bị chuyển hoá’ lên chế nhạo Pháp Luân Đại Pháp. Tôi cảm thấy rất buồn. Tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng tu mà kiên trì trong Đại Pháp nhưng tôi không có cơ hội nào cả. Mỗi người đều bị canh chừng bởi hai tù nhân và chúng tôi không được phép nói chuyện với nhau. Cho dù một số tù nhân cho phép chúng tôi nói chuyện một vài lời với các học viên khác, nếu tên đầu đảng tù nhân biết được, họ sẽ bị đánh đập. Không thể nói chuyện với các bạn tu khác và không biết làm sao ngưng nhưng việc làm tà ác đó, tôi cảm thấy rất buồn.

Một lần họ tổ chức một cuộc hội họp như vậy với hơn 2000 tù nhân đứng sắp hàng trật tự trên một mảnh đất xi-măng ngoài trời. Nhiều lính canh trong bộ đồng phục đen đứng dài theo bức tường cao bao quanh. Lính canh từ các đội khác nhau đứng cạnh các tù nhân mà họ trách nhiệm. Lính canh quơ những cái dùi cui trong tay họ và mặc áo giáp sắt đi tuần tiễu từng nhóm bốn người. Họ la lối các tù nhân với máy phóng thanh. Toàn cảnh tượng rất kinh khủng.

Tôi cảm thấy rất buồn và nghĩ: “Tại sao những người mà trước kia là bạn đồng tu của tôi bây giờ lại bêu xấu Pháp Luân Đại Pháp và Sư phụ. Tại sao họ không còn nhìn nhận Sư phụ nữa?” Tôi nhớ những lời dạy của Sư phụ:

”Tôi nói: Phật là gì? ‘Như Lai’ là điều mà chúng sinh gọi một người mà đến với chân lý và sức mạnh để làm điều mà họ muốn, trong khi các Phật là những vị bảo vệ càn khôn và chịu trách nhiệm tất cả những nhân tố ngay chính trong vũ trụ.” (“Giảng Pháp tại Pháp Hội miền Tây Mỹ quốc” trong Hướng dẫn Hành trình)

Tôi nghĩ, “Tôi là một đệ tử Đại Pháp, một sinh mạng được Đại Pháp tạo ra. Tà ác khủng bố Đại Pháp và nhục mạ Sư phụ. Tôi sẽ không bao giờ cho phép tà ác như vậy tồn tại.”

Khi tư tưởng này xuất hiện trong trí tôi, tôi cảm thấy cơ thể tôi trở nên ấm và nở lớn mau lẹ. Năng lượng mạnh mẽ này tiêu trừ tất cả tà ác. Tôi đứng dậy và kêu lớn lên, “Pháp Luân Đại Pháp tốt! Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp!” Nhiều người đè tôi xuống. Tôi tiếp tục, “Hãy trả lại danh dự vô lậu của Sư phụ!” Tôi không nói hết những lời này thì có người bịt miệng tôi với bàn tay của y. Nhưng tôi nghe rõ ràng người này tiếp nối người kia, càng lúc càng có nhiều người gọi lớn lên, “Pháp Luân Đại Pháp tốt! Hãy trã lại danh dự vô lậu của Sư phụ!” Mọi người đều bừng lên. Chính niệm của bạn đồng tu xuất hiện. Chúng tôi sau đó bị mang trở lại phòng giam.

Đến giờ ăn tối, các học viên tiếp tục khuyến khích nhau bằng ra dấu tay. Tôi biết các học viên khác lo lắng cho chúng tôi và lo rằng chúng tôi sẽ lại bị giật điện bằng dùi cui điện. Tôi không nghĩ về đó nhiều và chỉ thắc mắc, “Chỉ có chín học viên đứng lên. Phải chăng sẽ vĩ đại lắm nếu tất cả các bạn đồng tu đều đứng lên. Nếu như vậy, vậy thì tà ác sẽ không bao giờ còn dám tổ chức một cuộc hội họp như vậy nữa. “Sau này, họ gia tăng thời hạn giam của chúng tôi thêm 20 ngày. Khi tôi học Pháp tại nhà sau khi được thả ra, tôi hiểu rằng tôi đã không phủ định những an bài của cựu thế lực.Tôi đã nghĩ rằng: “Nếu chúng tôi không hợp tác với tà ác trong trại lao động, vậy thì họ sẽ châm điện chúng tôi, phạt hoặc bắt chúng tôi chịu thêm thời hạn giam.” Lúc bấy giờ tôi không biết gì về cựu thế lực và không biết về phát chính niệm.

5.Tiêu trừ tà ác trong khoảnh khắc

Khoảng mười ngày sau đó, các viên chức trại lao động chuẩn bị một cuộc khám xét của tỉnh. Nhiều hình vẽ và băng vải với những chữ thoá mạ được treo lên trong phòng họp của đội. Khi chúng tôi được gọi họp lại trong phòng, trong một nháy mắt, các học viên lấy xuống hết các hình vẽ và băng vải. Khi tôi chỉ bước một bước thứ 2 thì mọi thứ trên tường đều đã biến mất. Không ai nói một lời nhưng chúng tôi khuyến khích nhau bằng mắt. Chúng tôi là trời thần bảo vệ của vũ trụ mới.

6.Chống lại cuộc bức hại cùng nhau như một chỉnh thể

Ngày đầu năm 2001, chín học viên bị giữ trong bốn đội khác nhau. Tôi bị giữ trong đội số 4. Khi các viên chức đội đến để nói chuyện với tôi, tôi chụp lấy cơ hội để phơi bày các tra tấn mà tôi đã phải chịu trong khi ở đội số 6. Lính canh rất sợ hãi và ra lệnh hai tù nhân canh giữ tôi và buộc tôi đọc các sách thoá mạ Đại Pháp. Tôi kiên quyết chống lại và bị phạt phải đứng trong một thời gian lâu. Mười ngày sau, ba viên chức đội nói chuyện với tôi riêng rẽ. Tôi nói với họ rằng những điều viết trong các cuốn sách đó là đang gạt người. Tôi hỏi họ, “Tại sao họ không cho chư vị đọc các quyển sách nguyên gốc? Chư vị đang bị gạt. Họ dùng chư vị để bức hại và tra tấn các học viên. Khi chư vị làm điều đó, chư vị đang phạm tội lỗi.” Họ không còn bắt tôi đọc sách của họ sau đó nữa.

Hai tháng sau, một học viên khác đến. Vào đêm, các lính canh xúi nhiều tù nhân đánh người mới đến. Ngay sau 11 giờ đêm, khi tôi đang tắm rửa, tôi nghe tiếng kêu la của người học viên – các tù nhân đang đánh họ. Các lính canh làm ngơ và không can thiệp. Tôi đứng trong hành lang và bắt đầu la lớn lên. Ba học viên khác tiếp theo. Lính canh phải đến và thấy sự việc xảy ra, vì vậy họ phải ngưng đánh đập. Hành động như một thể, chúng tôi giúp ngưng sự tra tấn của bạn học viên. Môi trường của chúng tôi thăng tiến mau lẹ, và 11 tù nhân mà đã biết được sự thật được thả ra sớm. Trưởng đội thường chơi cờ với chúng tôi. Khi một tù nhân báo cáo tôi học kinh văn mới của Sư phụ, các lính canh không gây phiền gì tôi cả. Tôi truyền kinh văn mới đi cho các học viên khác.

7.Trao truyền kinh văn của Sư phụ với nhau một cách mầu nhiệm

Thật khó mà trao truyền cho nhau các kinh văn mới của Sư phụ trong trại lao động từ khi có các tù nhân được chỉ định canh chừng chúng tôi luôn luôn. Trao truyền cho nhau kinh văn trong cùng một đội là tương đối dễ, nhưng không dễ đối với đội khác. Nhưng Sư phụ luôn trợ giúp chúng tôi trong những lúc khó khăn. Ví dụ, vào giờ cơm tối luôn đông người và các thang lầu luôn đầy nghẹt. Đó là cơ hội tốt để truyền đi các kinh văn cho các đội khác. Một lần, một bạn đồng tu chỉ ở cách hai hoặc ba thước tây cách người mà họ muốn truyền một bản kinh văn khi giòng người bắt đầu xê dịch đến gần cầu thang. Bạn học viên chỉ chạy lên để gặp người kia. Khi tôi nhìn thấy họ chạy lên, tôi nghĩ, “Không tà ác can nhiễu! Không ai sẽ nhìn thấy.” Anh ta thành công và khi anh ta quay lại nhìn, chúng tôi nhìn nhau và mỉm cười hiểu biết.

Một lần ở nơi tập thể dục, một tù nhân nhìn thấy hai học viên trao cho nhau một kinh văn. Anh ta tức thời kêu lên. Tất cả các bạn học viên giúp phát chính niệm. Lính canh đến nhưng không tìm thấy kinh văn.

Tôi kinh qua nhiều ngạc nhiên thích thú, và lạ lùng trong thời gian chín năm tu luyện của tôi, mà phát hiện sau khi buông bỏ các quan niệm hậu thiên của tôi. Tôi không làm tốt trong một số địa hạt vì chúng tạo bởi các quan niệm hậu thiên của tôi và các chấp trước con người. Tôi ngộ ra điều mà Sư phụ đã giảng:
“Nội hàm thâm rộng của nó chỉ có thể hiển hiện, kinh nghiệm và hiểu được bởi các học viên chân chính tu luyện tại các tầng khác nhau. Chỉ lúc bấy giờ người ta mới thật sự thấy được Pháp là gì.”
(“Uyên bác và Rộng lớn” trong Tinh tấn yếu chỉ)

Kỳ thực, nếu chúng ta có một ước muốn, Sư phụ sẽ làm những sự thay đổi căn bản. Tôi thật sự quí mến sự giảng dạy và bao che của Sư phụ. Là một đệ tử, tôi không thể báo đáp Sư phụ cho những gì Ngài đã chịu đựng, nhưng tôi có thể làm ‘ba điều’ tốt, không phụ lòng trông đợi của Sư phụ tôn kính của chúng ta, và sống xứng đáng với sự chờ đợi của Ngài

 

Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2006/10/23/140367.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2006/11/17/79985.html

Đăng ngày 4-12-2006; Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share