Bài viết của đệ tử Đại Pháp ở Mỹ quốc
[MINH HUỆ 15-11-2018] Tôi đắc Pháp vào mùa xuân năm 1996, lúc ấy tôi mới năm tuổi. Năm đó, tôi cũng may mắn được tham dự Pháp hội Pháp Luân Đại Pháp Quốc tế Lần thứ nhất được tổ chức tại Bắc Kinh. Tôi đã tận mắt được nhìn thấy Sư tôn và lắng nghe Ngài giảng Pháp.
Ngày 25 tháng 4 năm 1999, tôi và cha mẹ cùng hàng nghìn học viên khác đến thỉnh nguyện ôn hòa tại Trung Nam Hải ở Bắc Kinh. Sau khi cuộc bức hại bắt đầu vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, gia đình ba người chúng tôi đã đi đến Quảng trường Thiên An Môn để bảo vệ thanh danh của Pháp Luân Đại Pháp. Chúng tôi trưng biểu ngữ thông tin và luyện công.
Có lần ba người chúng tôi bị bắt và giam giữ phi pháp trong Đồn Công an Thiên An Môn. Khi tôi đứng ở lan can hàng rào sắt vây quanh chúng tôi nhìn ra phía ngoài, thì một cảnh sát khí thế hung hăng đi tới chỗ tôi và giận dữ quát tháo rằng cha mẹ tôi dẫn tôi đi làm những việc mù quáng điền cuồng. Tôi cũng lớn giọng nói với ông ta rằng tôi sẽ vẫn tiếp tục tu luyện ngay cả khi cha mẹ tôi ngừng tu luyện. Viên cảnh sát cứng họng rời đi.
Trong những năm sau đó, tôi và cha mẹ dù nếm trải đủ loại bức hại, nhưng được Sư phụ từ bi chăm sóc và bảo hộ, chúng tôi có thể vượt qua tất cả.
Khi tôi học trung học, tôi đọc kinh văn của Sư phụ về chúng ta cần tận lực cứu những người xung quanh. Tôi hiểu rằng tôi cần phải giảng chân tướng cho họ hàng và bạn bè. Nhưng trước hết tôi cần để họ thấy rằng tôi thực sự quan tâm và giúp đỡ họ, thì họ mới sẵn lòng nghe tôi giảng chân tướng. Do đó, tôi đã chủ động hòa mình và kết thân với nhiều bạn trong lớp, cũng như hòa đồng với những người xung quanh, để ý tìm cơ hội giảng chân tướng cho họ.
Rất nhiều ý tưởng giảng chân tướng về cuộc bức hại nảy sinh trong khi tôi học Pháp. Tôi dành nhiều thời gian để đọc các tài liệu thông tin chân tướng mà các học viên biên soạn từ Minh Huệ Net, dần dần tôi tổng kết thành một bộ phương pháp giảng chân tướng, khuyên tam thoái của riêng mình. Nhiều bạn cùng lớp đã sẵn lòng thoái xuất khỏi đảng và các tổ chức liên đới với nó. Có những người chỉ cần nói một lần liền thoái, nhưng cũng có người phải mất vài năm mới khuyên thoái được.
Trong kỳ nghỉ hè, tôi cũng dành thời gian đọc sách “Chuyển Pháp Luân” và các kinh văn mới của Sư phụ. Điều này giúp tôi có nền tảng tu luyện vững chắc.
Năm 2008, cha mẹ quyết định cho tôi theo học tại một trường đại học ở một thành phố ở miền Trung Tây của Hoa Kỳ. Năm đầu tiên ở đó tôi đã trải quan một sự thay đổi to lớn. Bởi từ nhỏ tôi đã được nuôi dưỡng trong môi trường tu luyện, luôn sinh hoạt trong một hoàn cảnh tương đối thuần tịnh, đồng tu là người thân xung quanh đều đôn đốc và khích lệ tôi tu luyện.
Tuy nhiên, khi học đại học, nhiều bạn trẻ tầm tuổi tôi lại phóng túng bản thân. Họ truy cầu vui thú và hưởng lạc để thỏa mãn dục vọng của mình. Tôi cảm thấy các chủng cám dỗ bao trùm lấy tôi. Rất nhiều chấp trước của tôi nổi lên và tôi cảm thấy mình đang dần dần bị kéo xuống trong hoàn cảnh này. Tôi cũng bắt đầu xem trọng danh lợi, truy cầu hưởng lạc về vật chất và tinh thần, bị tình yêu nam nữ hấp dẫn. Tôi cảm thấy thật khó để loại bỏ những tâm chấp trước này, và buông lơi tu luyện của bản thân, bị tiêu trầm. Thậm chí tôi còn không tham gia học Pháp nhóm lớn ở địa phương.
Một hôm, tôi đứng trước ảnh của Sư phụ và nghĩ tới những chấp trước mà tôi không thể loại bỏ. Trong tâm tôi cầu cứu Sư phụ và nói: “Đệ tử thực không biết làm cách nào để loại bỏ triệt để những chấp trước này, đệ tử rất khổ tâm, đệ tử thật sự rất muốn cùng Ngài trở về nhà, xin Sư phụ đừng buông bỏ con.”
Rất nhanh chóng, tôi đột nhiên cảm thấy rất hào hứng tham gia buổi học Pháp tuần và kiên trì đi học Pháp nhóm lớn, dung nhập vào hoàn cảnh tu luyện ở địa phương. Tôi cảm thấy mình có thể xem nhẹ các chấp trước, những thứ mà trước kia tôi thấy rất khó để vứt bỏ. Tôi nhận ra tầm quan trọng của việc tín Sư tín Pháp và kiên trì học Pháp. Một chủng cảm giác rất thần kỳ!
Trước khi tôi học đại học, việc tu luyện của tôi phụ thuộc vào việc đốc thúc và giám sát của cha mẹ. Nhưng trải nghiệm của tôi trong trường đại học cho phép tôi có nhận thức rõ ràng về ý nghĩa tu luyện, con đường tu luyện của bản thân. Tôi minh tỏ rằng tôi đang bước đi trên một con đường nhân sinh hoàn toàn khác với các bạn cùng trang lứa. Tôi không nên quan tâm đến những thứ mà họ truy cầu như: bằng cấp, nghề nghiệp, tiền bạc, cảm tình, danh vọng. Tôi có sứ mệnh và trách nhiệm của mình.
Không chú trọng thực tu, hãm nhập ma nạn
Sau khi tốt nghiệp, tôi làm việc cho tòa soạn của Thời báo Đại Kỷ nguyên ở Washington D.C, với tư cách là phóng viên toàn thời gian. Tôi ngày càng cảm thấy công việc phóng viên này vô cùng thích hợp với tôi, mỗi ngày đều làm mọi việc như ý, lại có những nhiệm vụ rất thú vị và luôn rất hứng thú.
Sau một vài biến động ở tòa soạn, văn phòng địa phương bị thiếu nhân viên tiêu thụ. Tôi nhớ tới một giấc mơ mà trong đó tôi được Sư phụ dẫn dắt để trở thành một nhân viên tiêu thụ. Tôi nhận ra rằng tòa soạn đang cần nhân viên tiêu thụ hơn là phóng viên, nên tôi quyết định thử sức ở mảng này.
Mới đầu, mọi thứ đều rất thuận buồm xuôi gió. Tôi gọi điện, gửi thư cho khách hàng và tới thăm hỏi họ. Nhờ sự giúp đỡ của các học viên có kinh nghiệm về mảng này, tôi đã thuận lợi ký được vài hợp đồng. Khi chính niệm của tôi mạnh mẽ, tôi có thể tự mình bán hàng.
Tôi thấy rằng công tác tiêu thụ không khó như tôi tưởng. Suy nghĩ này đã thổi phồng chấp trước của tôi, tự cho mình là đúng và chứng thực bản thân. Tôi đã nuôi dưỡng những quan niệm này một cách không tự biết khi tôi làm phóng viên.
Cũng lại bất tri bất giác, tôi bắt đầu đánh đồng giữa công tác và tu luyện. Tôi cho rằng miễn là tôi làm việc thuận lợi, thì có nghĩa là việc tu luyện của tôi không bị rớt lại phía sau. Tôi bắt đầu dành thời gian nhiều hơn cho công việc và trên bề mặt thì tôi biểu hiện ra là rất chăm chỉ công tác, thường một mình tăng ca ở lại văn phòng tới khuya. Tuy nhiên, khi tôi dành nhiều thời gian hơn để làm việc, thì thời gian để tôi làm ba việc lại ít đi. Tôi không ngừng buông lơi các yêu cầu tu luyện và đề cao tâm tính, tôi ngày càng rời xa các tiêu chuẩn của Đại Pháp.
Một đêm tôi nằm mộng, thấy rằng mình đang leo rất nhanh lên một bức tường phẳng. Khi tôi gần lên tới đỉnh, đột nhiên tôi bị hết sức và trượt xuống. Sau đó, tôi thấy Sư phụ cầm trong tay một cuộn chỉ rối và tiến về phía tôi. Sư phụ nghiêm khắc nói: “Con chỉ nghĩ cách làm thế nào leo cho nhanh, nhưng căn bản không bao giờ thực sự suy nghĩ rốt cuộc tu luyện của bản thân thế nào rồi!”
Sau khi tỉnh giấc, tôi nhận ra rằng cuộn chỉ tượng trưng cho tu luyện của tôi trường kỳ không có chú ý tu tâm tính mà tạo thành sơ hở và những nút thắt mà quấn thành một cuộn chỉ. Tôi cũng ý thức được tu luyện của bản thân đã xuất hiện vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Tuy nhiên, bởi trạng thái tu luyện kém, nên tôi cảm thấy lực bất tòng tâm, cắm sào sâu khó nhổ. Tôi không có khả năng, cũng không biết phải làm thế nào để uốn nắn lại trạng thái tu luyện của bản thân.
Tất cả những điều này đè nặng lên tôi: những chấp trước mà tôi không loại bỏ, những rắc rối mà tôi gặp phải khi không chú ý tiểu tiết, cũng như áp lực cuộc sống và tài chính của người thường. Tôi trở nên chán trường và cảm thấy mình không thể tiếp tục làm truyền thông nữa. Tôi nghĩ rằng nếu trạng thái này tiếp tục, tôi sẽ không thể làm gì tốt được, mà trái lại còn có thể can nhiễu đến hạng mục truyền thông. Tôi rời tòa soạn ở D.C vào mùa hè năm 2016 và một mình đến New York, tại đó tôi tìm một công việc của người thường.
Tín Sư tín Pháp vượt qua ma nạn
Vài tháng sau khi tôi chuyển tới New York là quãng thời gian hẩm hiu trong hai mươi năm tu luyện của tôi. Thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng tôi đã ngừng tu luyện. Những chướng ngại và chấp trước dường như quá khó để tôi có thể đột phá dù cho tôi có cố gắng cỡ nào. Tôi rơi vào tuyệt vọng. Tâm tôi trở nên tiêu cực, thậm chí tôi còn băn khoăn rằng tôi có còn được tính là một học viên không, và tôi có xứng là đệ tử của Sư phụ không, và liệu bản thân có khả năng đột phá những an bài trùng trùng điệp điệp của cựu thế lực hay không.
Tôi không ngừng tự hỏi bản thân: “Những năm tu luyện của tôi có phải thực sự đã bị hủy hoại trong một chốc lát này không? Chẳng lẽ tôi không cách nào đi tiếp trên con đường này được sao?” Khi một mình tôi thường khóc, cảm thấy như mình đang bị nhấn chìm trong một đại dương của sự tuyệt vọng và hắc ám.
Nhưng đồng thời, trong tôi luôn có một tín niệm để chèo chống, đó là tôi luôn tin rằng Sư phụ hy vọng mỗi từng đệ tử của Ngài đều tu thành. Tôi tin rằng chỉ cần mình không từ bỏ và không ly khai Đại Pháp, thì Sư phụ sẽ không bỏ tôi. Không muốn làm cho tôi tu thành thì đích thị là cựu thế lực.
Trong kinh văn “Về xáo động từ một bài viết về phó nguyên thần”, Sư phụ giảng:
“Kỳ thực hết thảy những gì không phù hợp với Đại Pháp và chính niệm của đệ tử Đại Pháp đều là [do] cựu thế lực tham dự tạo thành, kể cả hết thảy những nhân tố bất chính nơi tự thân, chính vì thế mà tôi đặt việc phát chính niệm là một trong ba việc lớn của đệ tử Đại Pháp [cần] làm.”
Tôi thường liên tục mặc niệm câu Pháp sau trong bài giảng “Thế nào là đệ tử Đại Pháp” của Sư phụ:
“Càng trong vô vọng, có lẽ hy vọng ngay ở trước mắt.”
Tôi minh bạch rằng là đệ tử Đại Pháp, cho dù là biểu hiện xuất ra trên bề mặt có bất hảo, thì tôi cũng không nên thừa nhận những thứ bất hảo mà cựu thế lực gia cường cho tôi. Tôi không nên nhận rằng bản thân mình bất hảo như thế.
Thỉnh thoảng, trong tâm tôi cũng có một chủng cảm giác sợ hãi, sợ rằng cựu thế lực đang rình rập và chớp thời cơ mà bức hại tôi. Sau đó tôi nghĩ: “Tôi là có Sư phụ, nếu Sư phụ muốn phạt đệ tử thì đệ tử cam tâm tình nguyện chịu phạt, nhưng cựu thế lực không xứng bức hại ta, dù ta có làm không tốt đến đâu, thì việc tu luyện của ta và cựu thế lực là không có liên quan. Sư phụ nói chúng ta ngay cả đến sự tồn tại của cựu thế lực cũng không thừa nhận.”
Bước ngoặt
Một đêm nọ, tôi có một giấc mơ, trong đó Sư phụ đã đánh thức tôi và Ngài có một động tác tựa hồ như giật mạnh một thứ gì đó ra khỏi mặt tôi nhưng nó chưa hết. Sư phụ thấy rằng một lớp lớn vật chất vẫn còn, và sau đó Ngài hỏi tôi rằng việc tu luyện của tôi gần đây thế nào. Tôi hổ thẹn và nói rằng tôi đang tu luyện vô cùng kém cỏi, nên tôi cúi đầu và khẽ nói: “Cũng tạm ổn ạ.”
Khi tôi ngẩng đầu lên, Sư phụ không nói gì, nhưng thay vào đó Ngài nhìn tôi với một biểu cảm mà tôi không bao giờ quên, một ánh mắt vô cùng từ bi, như thể người cha đang nhìn con trai của mình khi cậu bé vừa phạm lỗi. Sư phụ biết mọi thứ, nhưng ánh nhìn của Ngài không hề khắt khe, không chỉ trích hay trách cứ, mà thay vào đó là từ bi, bao dung, và tin tưởng. Tôi đã khóc nấc lên không thành tiếng. Sư phụ hỏi: “Giờ con biết mình phải làm thế nào chưa?”
Khi tỉnh giấc, tôi biết rằng tôi không thể tiếp tục như vậy nữa. Sư phụ đợi tôi điều chỉnh trạng thái tu luyện của mình. Tôi cố gắng yêu cầu bản thân phải tập trung vào việc học Pháp, khi học Pháp, tôi cảm thấy lớp vật chất dày đặc che chắn trước mắt và cảm thấy rằng Pháp không thể đả nhập được vào đầu não tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì không ngừng học Pháp.
Cứ như vậy, vài tháng sau, cuối cùng tôi bắt đầu cảm thấy trong đầu não lại có chính niệm. Tuy nhiên, trong quá trình điều chỉnh này, tôi cảm thấy có trở lực to lớn, và trạng thái tu luyện của tôi có lúc lên lúc xuống. Sau này có đoạn thời gian tôi lại cảm thấy đặc biệt tiêu trầm.
Tôi lại có một giấc mơ khác, trong đó Pháp thân của Sư phụ cự đại vô tỷ đứng trên một đám mây nhìn xuống tôi nhỏ bé đang trong thế gian con người này. Tôi song thủ hợp thập và kích động không ngừng hô lớn: “Sư phụ! Sư phụ!” Cuối cùng tôi đã hiểu tại sao trong các bức họa sơn dầu phương Tây cổ xưa, khi người ta nhìn lên bầu trời trông thấy các vị thần trên thiên thượng, thì trên mặt họ lại có nét biểu cảm vô cùng thành kính và trang nghiêm như vậy.
Khi tôi bắt nhịp được để làm ba việc, tôi cảm thấy Sư phụ đang ở bên giúp tôi loại bỏ những vật chất bất hảo kia. Đến một hôm, tôi đột nhiêu hiểu ra rốt ráo tôi cần phải làm gì, và trong tâm lại có dũng khí và tín niệm rằng bản thân có thể đột phá hết thảy trùng trùng quan nạn.
Có lẽ bản thân trong thời khắc khó khăn nhất, vẫn giữ được chính niệm tối căn bản, là niệm tín Sư tín Pháp. Mặc dù trạng thái tu luyện của tôi kém như vậy, nhưng tôi tin vào Pháp lực vô biên của Sư phụ và Đại Pháp vô biên. Sư phụ và Đại Pháp vĩ đại như vậy, Sư phụ nhất định sẽ có biện pháp độ được tôi, Sư phụ nhất định sẽ có các chủng các dạng biện pháp để tôi có thể tu thành.
Qua một giai đoạn thời gian, tôi cảm thấy tôi đã phá tan được một kiếp nạn do cựu thế lực an bài, và bản thân tôi lại có biến hóa ‘thoát thai hoán cốt’. Tôi thực sự cảm thấy rằng tôi đã trải qua được một quan sinh tử.
Trước đó, tôi nghĩ rằng tôi hiểu được bản chất thần thánh của tu luyện, cũng như tầm quan trọng của làm ba việc, hướng nội tìm, và thực tu, nhưng sau ma nạn lần này tôi mới thực sự tự nội tâm, từ lý tính mà chân chính minh bạch được những điều này.
Trước đây, bất kể là trong đề cao tâm tính, hay trong khi làm ba việc, trong tu luyện tôi thường viện đến nhiều cớ khác nhau để buông lơi. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôi đã tu luyện thời gian dài như vậy, nên thỉnh thoảng tôi có thể thư giãn một chút cũng không sao.
Sư phụ giảng:
“Vào thời then chốt khi mà tôi yêu cầu chư vị quyết cắt đứt con người, chư vị lại không có theo tôi rời đi, mỗi một lần cơ hội đều sẽ không trở lại nữa. Tu luyện là nghiêm túc, khác biệt đang cách ra càng ngày càng lớn rồi, trong tu luyện mà thêm vào bất kể cái gì của con người cũng đều cực kỳ nguy hiểm. Thực ra, có thể làm một người tốt cũng khả dĩ, chỉ có điều chư vị cần phải rõ ràng, con đường là tự chư vị chọn lựa đó.” (“Nhổ tận gốc”, Tinh Tấn Yếu Chỉ)
Tôi nhận ra rằng trước kia tôi thường làm cái mà tôi muốn. Khi tôi không thể trừ bỏ chấp trước của mình, tôi không sẵn lòng hướng nội. Tôi tìm nhiều cớ khác nhau và đẩy vấn đề gác lại để sau này giải quyết. Tuy nhiên, sau lần ma nạn này tôi đã hiểu tu luyện nhất định phải: “Sự sự đối chiếu Tố đáo thị tu” (Thực tu, Hồng Ngâm)
Tôi cũng minh bạch rằng hàng ngày tôi không chỉ cần yêu cầu nghiêm khắc bản thân trong khi làm ba việc, mà còn cần phải nghiêm khắc yêu cầu bản thân hướng nội và tu tự kỷ. Bất kể là gặp phải khảo nghiệm, ma nạn, hay vấn đề khó nào khác, tôi đều phải thực sự làm được đề cao, chân chính chiểu theo yêu cầu của Đại Pháp mà cải biến bản thân. Khi tôi minh bạch những đạo lý này, tôi yêu cầu bản thân tu luyện một các thiết thực, gặp bất kỳ việc nhỏ nào cũng phải hướng nội tìm, thực sự cải biến bản thân. Bất kỳ chuyện nhỏ nào trong sinh hoạt hàng ngày cũng đều là cơ hội giúp bản thân chúng ta đề cao. Tôi có thể cảm thấy bản thân đề cao lên nhanh chóng.
Truyền thông là con đường của tôi
Sau khi việc tu luyện của tôi trở về quỹ đạo đúng, tôi bắt đầu làm bán thời gian cho truyền thông. Sau đó, tôi nhận ra rằng con đường tu luyện của tôi làm truyền thông, nên tôi đã nghỉ công việc người thường và vào làm cho văn phòng truyền thông ở New York vào năm 2017. Tuy thời gian làm việc ở đây mới chỉ hơn một năm, nhưng cảm giác nó rất dài, hơn nữa trong một năm này tôi cảm thấy tu luyện của bản thân có biến hóa to lớn, và mỗi ngày tâm tính của tôi cũng không ngừng đề cao.
Tại tổng bộ ở New York, mọi thứ dường như đều đang biến hóa theo ngày, và hết thảy đều tiến về phía trước với tốc độ vô cùng nhanh. Đến hiện tại, tôi đã chuyển qua năm bộ môn khác nhau, chỗ ngồi còn đổi qua đổi lại rất nhiều lần. Lúc ban đầu, tôi vẫn là vì bản thân muốn làm gì hay không muốn làm gì mà động tâm. Sau đó tôi nhận ra rằng những thay đổi này đều là quá trình để tôi đề cao, Sư phụ an bài nhất định là tốt nhất, và là tốt nhất cho đề cao trong tu luyện.
Tôi bắt đầu chân chính lý giải tại sao tôi lại được an bài làm ở bộ phận bán hàng. Tôi nghĩ không nhất định là tôi hoàn toàn phù hợp với mảng này, mà là nó cho phép tôi nhìn thẳng ra thiếu sót trong tu luyện của mình. Hết thảy đều là Sư phụ vì đệ tử mà an bài.
Tại văn phòng ở New York, tôi thấy rằng mỗi lần chuyển đến một vị trí mới, hoàn cảnh mới đều có những điểm chưa thích ứng, mà những chỗ không phù hợp ấy đều vừa hay là cần thiết để tôi đề cao tâm tính của bản thân, mỗi lần như vậy, rất nhiều chấp trước của tôi lại bị phơi bày. Một lần, tôi cao hứng nghĩ rằng tôi thích ứng với hoàn cảnh mới, thì thường sau đó tôi lại bị điều chuyển tới một chỗ khác, thậm chí là sáng đến nhận vị trí mới, thì buổi chiều lại bị đổi chỗ ngồi.
Tu Thiện
Trong thời gian làm việc cho kênh truyền thông, tôi nhận ra tầm quan trọng của tu Thiện, tu từ bi. Mỗi ngày những người tôi tiếp xúc đều là học viên, tôi nhận ra rằng cách tôi đối đãi với các học viên thường là khác với cách mà tôi tương tác với người thường. Với các đồng tu, tôi thường thiếu các chủng tâm thiện, từ bi, khoan dung, nhẫn nại và tôn trọng.
Tôi cảm thấy với tôi, kênh truyền thông như thể là một đại gia đình, và trong tiềm ý thức cảm giác ở đây đều là “người mình”, trong khi nhìn những người khác như thể “người ngoài”. Điều này sao có thể là Thiện thực sự được?
Sư phụ giảng:
“Luyện công đòi hỏi [coi] trọng đức, làm việc tốt, hành Thiện; ở đâu làm gì đều tự yêu cầu bản thân như vậy.” (“Bài giảng thứ ba”, Chuyển Pháp Luân)
Sư phụ liên tục giảng về Pháp lý tu Thiện. Tuy nhiên trước đây tôi đã không đặc biệt xem trọng. Hiện tại tôi nhận ra rằng nếu tôi không chân chính tu xuất ra Thiện, tu xuất từ bi và khoan dung thì làm sao tôi có thể đạt được tiêu chuẩn vị tha hoàn toàn trong vũ trụ mới được?
Tôi cũng nhận ra rằng phía sau những thứ bất Thiện kia là ẩn giấu các chủng các dạng chấp trước và vị tư. Tôi cũng nhận thấy rằng bất Thiện ở tôi thì phần lớn là do tâm tật đố dẫn khởi, ngoài ra tôi cũng thấy mình có tâm tranh đấu, hiển thị, tâm phân biệt, và tâm tự tôn. Thông qua quá trình đào bỏ tận gốc này, tôi cảm thấy tự nội tâm tôi xuất ra nhiều từ bi hơn và tư tưởng của tôi cũng trở nên thanh thản và khiêm nhường.
Chấp trước mà tôi thấy khó tu bỏ nhất là các chủng các dạng tình, và khi tôi vừa tiếp xúc đến nó, quyết tâm loại bỏ cái tình đó, thì trong tâm quả thực là khó chịu như ‘xẻo tim khoan xương’. Càng thống khổ thì minh chứng rằng ‘vật cực tất phản’, những thứ vật chất bất hảo kia cần phải loại bỏ, thực sự tôi không nên cảm thấy khổ, mà nên cao hứng mới đúng.
Mỗi khi cảm thấy khổ không chịu nổi, tôi thường liên tục niệm:
“Đại giác bất uý khổ
Ý chí kim cương chú
Sinh tử vô chấp trước
Thản đãng Chính Pháp lộ” (“Chính Niệm Chính Hành”, Hồng Ngâm II)
Tạm dịch:
“Đại Giác không sợ khổ
Ý chí kim cương đúc
Không chấp vào sinh tử
Thanh thản Chính Pháp lộ” (“Chính Niệm Chính Hành”, Hồng Ngâm II)
Tôi cứ kiên trì như vậy một thời gian, chấp trước vào tình của tôi cũng ngày một suy yếu đi rất nhiều.
Trong “Giảng Pháp tại Pháp hội Vancouver ở Canada năm 2003,”Sư phụ giảng:
“Nhưng đã là người tu luyện mà nói, thì đề cao yêu cầu tâm tính của chư vị, có thể vứt bỏ những chấp trước của chư vị, điểm này là không thể hàm hồ được, là tuyệt đối không thể giảm hạ tiêu chuẩn; bởi vì đây là trách nhiệm đối với vị lai, đối với vũ trụ tương lai, và đối với chúng sinh trong tương lai. Rất nhiều đệ tử Đại Pháp sẽ cần phải thành các sinh mệnh rất to lớn trong tương lai, phải bao dung rất nhiều chúng sinh, thậm chí vô lượng chúng sinh; nên [nếu] tiêu chuẩn của chư vị giáng thấp xuống, sẽ [làm cho] tầng vũ trụ không được lâu dài, tầng khung thể cũng không được lâu dài; vậy nên chư vị nhất định phải đạt đến tiêu chuẩn.”
Tôi thể ngộ, đệ tử Đại Pháp tu tốt bản thân phía sau còn có cự đại nội hàm. Bản thân chúng ta tu tốt đối ứng với vô lượng chúng sinh được đắc cứu, là vì trách nhiệm viên dung bất phá với vũ trụ tương lai. Đó là lý do tại sao chúng ta phải tu luyện để đạt tiêu chuẩn rất cao như vậy, nên đệ tử Đại Pháp vô luận như thế nào cũng nhất định phải thực tu đạt đến tiêu chuẩn.
Tôi cũng nói nói với các đồng tu rằng những chia sẻ của mọi người đã giúp tôi vô cùng to lớn. Trong đó có những bài chia sẻ đăng trên Minh Huệ Net và radio Minh Huệ, những Pháp hội và các nhóm học Pháp. Giao lưu của mỗi đồng tu đều cho tôi rất nhiều gợi ý, khích lệ và cảnh tỉnh, và khiến tôi trân quý mỗi vị đồng tu, cảm nhận được cái khó của đồng tu, giúp tôi có thể ngộ thâm sâu hơn về Pháp lý “Đại đạo vô hình” của Sư phụ.
Cảm tạ Sư tôn từ bi vĩ đại! Cảm tạ các đồng tu!
Trên đây là nhận thức cá nhân, tầng thứ hữu hạn, có chỗ nào không đúng, xin đồng tu từ bi chỉ ra.
(Trình bày tại Pháp hội Tân Đường Nhân và Đại Kỷ Nguyên 2018)
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2018/11/15/377036.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2018/11/20/173317.html
Đăng ngày 11-12-2018; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.