Ban Biên tập Minh Huệ chỉnh lý

[MINH HUỆ 27-12-2000]

Từ trước tới nay vùng núi Himalaya vẫn luôn là vùng đất có nhiều người tu luyện, người dân ở đó có một cuộc sống chất phác, ai ai cũng giỏi múa hát, ngoài ra còn sùng bái Phật Pháp. Lúc bấy giờ có một người tu luyện tên là Milarepa. Chúng Phật Bồ Tát phải tu nhiều đời nhiều kiếp mới thành, nhưng Milarepa lại chỉ cần một đời là thành tựu được công đức tương đương với những Phật và Bồ Tát ấy, sau này trở thành thủy tổ của Bạch giáo Tạng Mật.

Tiếp theo Phần 6


Nhạ Quỳnh Ba lại hỏi tôn giả Milarepa: “Thượng sư, Ngài đã tuân theo lời căn dặn của thượng sư Mã Nhĩ Ba sống ở đó nhiều năm ạ?”

Tôn giả nói: “Ta chẳng ở đó nhiều năm, ở đó không lâu, ta liền trở về quê. Để ta kể chuyện nguyên nhân về quê cho mọi người nghe.

Khi ta bế quan tinh tấn tu định, có bước tiến lớn. Ta một mạch không ngủ. Một hôm vào buổi sáng, bỗng nhiên mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, rồi có giấc mộng. Ta mơ thấy ta đã về nhà ở Gia Nga Trạch. Ta thấy ngôi nhà, bốn cột tám rường đều đã vỡ nát như cái tai con lừa già. Đại Bảo Tích Kinh là báu vật gia truyền cũng bị nước mưa dột làm cho rách bươm. Ruộng Nga Mã tam giác bên ngoài cũng mọc đầy cây gai và cỏ dại. Mẫu thân đã chết, em gái thành kẻ ăn xin, lưu lạc tha hương rồi. Ta nghĩ mình từ nhỏ đã gặp nhiều bất hạnh, cách xa mẫu thân, bao nhiêu năm nay, mẹ con chưa được gặp mặt. Trong lòng nhói lên nỗi đau buồn vô hạn, không nén nổi khóc rống lên gọi: “Mẫu thân ơi, Tỳ Đạt em ơi!”, khóc trong mơ liền tỉnh giấc, nước mắt chảy ướt vạt áo. Nhớ mẫu thân khiến ta không thể nào ngăn nổi nước mắt nóng hổi cứ tuôn rơi, bèn quyết tâm phải trở về nhà gặp mẫu thân.

Trời vừa sáng, ta bất chấp tất cả phá cửa hang, đến phòng ngủ của thượng sư, cầu xin thượng sư cho phép ta về quê. Đúng lúc thượng sư vẫn đang ngủ, ta bèn quỳ trước giường, bên gối thượng sư thưa bẩm.

Thượng sư đã tỉnh dậy.

Lúc đó mặt trời sáng sớm chiếu qua cửa sổ, chiếu lên đầu thượng sư Mã Nhĩ Ba đang gối đầu trên gối. Cùng lúc đó, sư mẫu đem bữa sáng vào phòng. Thượng sư Mã Nhĩ Ba nói: ‘Con trai, con đột nhiên xuất quan là duyên cớ gì? E rằng ma chướng bỏ dở, mau trở về tu định đi.’

Ta lại thưa bẩm với thượng sư chuyện giấc mộng và lòng nhung nhớ mẫu thân của mình.

Thượng sư nói: ‘Con trai, khi con mới đến đã từng nói không cần quê nhà và gia tộc nữa rồi mà. Hiện nay con rời xa quê nhà đã nhiều năm thế này, cho dù có về nhà, cũng chưa chắc đã gặp mẫu thân. Còn những người khác, có thể gặp được không ta cũng không dám nói. Con ở Vệ Tạng đã nhiều năm, rồi lại ở chỗ ta nhiều năm như thế này rồi. Nếu con nhất định muốn về, ta có thể để con đi. Con nói rằng sau khi về quê lại quay trở lại chỗ ta. Tuy con nghĩ như vậy, nhưng e rằng khó làm được. Vừa rồi lúc con vào, đúng lúc ta đang ngủ, đây chính là duyên khởi cha con ta đời này không được gặp nhau nữa.

Nhưng mặt trời chiếu lên căn nhà của ta, tượng trưng giáo Pháp của con sẽ giống như mặt trời buổi sáng chiếu khắp mười phương. Đặc biệt là mặt trời chiếu lên đỉnh đầu ta, đây chính là duyên khởi để giáo Pháp tu truyền sẽ được hồng dương rộng rãi. Dakmema lại vừa đúng lúc đem đồ ăn uống vào, điều này biểu thị con sẽ có thể dùng Tam muội định thực dưỡng thân.

Chao ôi! Bây giờ ta đành phải để con đi. Dakmema, bà hãy chuẩn bị đồ cúng tốt.’

Thế là sư mẫu chuẩn bị đồ cúng dường, thượng sư thiết lập Mạn đà la, đem đạo thành thục Không hạnh nhĩ truyền tỏ ý quán đỉnh, và giải thích khẩu quyết chưa từng được nghe thấy này, tất cả đều truyền thụ cho ta.

Thượng sư nói: ‘Ôi, những khẩu quyết này, đều là bậc chí tôn Na Nặc Ba thọ ký cho ta, bảo ta truyền lại cho con. Con cũng nên căn cứ vào thọ ký Không Hạnh Mẫu, đem những khẩu quyết này truyền cho đệ tử có căn cơ bậc thượng cao nhất, cho đến đời thứ 13.

Nếu vì tiền bạc báu vật, danh lợi, hoặc mong muốn được người ta cung kính, hoặc do yêu thích cá nhân, mà truyền Pháp này, thế thì chính là vi phạm lời thề của Không Hạnh. Do đó con cần đặc biệt cẩn thận trân quý những khẩu quyết này, hãy nghiêm túc dựa vào quyết mà tu hành. Nếu gặp đệ tử có thiện căn, cho dù cậu ta vô cùng nghèo hèn, không có bất kỳ vật gì cúng dường, cũng phải truyền cho cậu ta khẩu quyết quán đỉnh mà thu nạp cậu ta để hoằng dương Phật Pháp. Thậm chí giống như sư tổ Đế Lạc Ba cho đại sư Na Nặc Ba đủ loại khổ nạn, và ta cho con đủ loại khổ nhọc, những phương pháp này sẽ hoàn toàn không có chút lợi ích nào đối với những người có căn cơ thấp sau này, do đó không được sử dụng nữa. Hiện nay cho dù ở Ấn Độ, Pháp hạnh đã buông lơi nhiều so với trước đây. Do đó từ nay về sau ở Tây Tạng, phương pháp quá nghiêm khắc như thế này, cũng sẽ không nên dùng nữa.

Đại pháp Không Hạnh, tổng cộng có chín bộ, ta đã truyền cho con bốn bộ, vẫn còn năm bộ nữa, sau này trong các đệ tử truyền thừa của ta, sẽ có một người đến Ấn Độ đến gặp đệ tử chân truyền của thượng sư Na Nặc Ba để cầu Pháp, sẽ có lợi ích to lớn đối với chúng sinh, con nên nỗ lực đi cầu những pháp yếu này.

Có lẽ trong lòng con sẽ nghĩ: ‘Con rất nghèo, lại không có cúng dường, thượng sư có truyền hết hoàn toàn khẩu quyết cho con không?’ Con chớ hoài nghi như thế. Nên biết, ta đối với cúng dường tài vật, vốn không hề để ý đến. Con hãy lấy việc tu hành tinh tấn làm vật cúng dường, đó mới là thứ ta thực sự vui thích. Con phải nỗ lực tinh tấn, kiến lập thành tựu kỳ tích.

Ta đã đem Pháp yếu Bất cộng, giáo dụ Không hạnh nhĩ truyền của tôn giả Na Nặc Ba, tất cả truyền thụ cho con rồi. Những khẩu quyết này, tôn giả Na Nặc Ba không truyền cho đệ tử nào khác, chỉ truyền cho một mình ta. Giờ đây ta đem những khẩu quyết này truyền lại cho con, giống như một bình nước đổ sang một bình nước khác, không rớt một giọt nào. Để tỏ rõ những lời của ta không có nửa lời nào là sai, hoặc nói quá, bây giờ ta sẽ trước thượng sư và Tam thế chư Phật, bản tôn Hộ Pháp lập lời thề.’

Nói xong, thượng sư để tay lên đỉnh đầu ta và nói: ‘Con trai à, lần này con muốn ra đi, trong lòng ta vô cùng buồn bã. Nhưng tất cả Pháp hữu vi vốn là vô thường, ta cũng chẳng có cách nào. Con chớ có vội vàng ra đi, hãy ở lại đây thêm vài hôm, đem tất cả các khẩu quyết pháp yếu ra ôn luyện tỉ mỉ lại một lượt. Có nghi vấn gì thì hãy nói ra, ta có thể giải đáp cho con.’

Ta tuân theo ý của thượng sư, bèn ở lại mấy ngày, đem tất cả những chỗ nghi vấn ra làm rõ. Thượng sư nói: ‘Dakmema, hãy chuẩn bị đồ cúng tốt nhất để tiễn đưa Mila.’ Thế là sư mẫu liền chuẩn bị đồ cúng Phật Bồ Tát, thực phẩm Không hạnh Hộ pháp và đồ cúng Huynh đệ Kim Cang cho thượng sư, bày rất nhiều đồ cúng. Thượng sư đại hiển thần thông, lúc thì biến thành Hỷ Kim Cang, lúc lại biến thành Thượng Nhạc Kim Cang, lúc lại biến thành Mật Tập Kim Cang… thân trang nghiêm bản tôn, có đủ chuông, chày, bánh xe, bảo, hoa sen, bảo kiếm kim cương rất trang nghiêm. Hồng, bạch, lam, ông, a, hồng, ba chữ ông, a, hồng là căn bản của hết thảy mật chú. Chữ ông là màu đỏ, chữ a là màu trắng, chữ hồng là màu lam. Ba chữ phóng ra vô lượng quang minh, hiển thị các biến hóa thần thông trước nay chưa từng có. Thượng sư nói: ‘Những cái này chỉ là thần thông của thân thể mà thôi, cho dù có thể hiển hiện rất lớn, vẫn chỉ là cảnh huyễn ảo, chẳng có tác dụng gì lớn. Hôm nay là để tiễn đưa con Milarepa, ta mới hiển hiện thôi.’

Ta thấy công đức của thượng sư chẳng khác nào chư Phật, trong lòng sinh tâm hoan hỷ vô cùng, nghĩ rằng: ‘Mình nhất định phải nỗ lực tu hành, cũng đắc được thần thông như thượng sư.’

Thượng sư hỏi: ‘Con có nhìn thấy không? Có sinh ra lòng quyết tâm không?’

Ta nói: ‘Con thấy rồi thưa thượng sư. Không thể không sinh tín tâm quyết định. Con muốn nỗ lực tu hành, tương lai cũng có thể đắc được thần thông như thượng sư.’

Thượng sư nói: ‘Đúng rồi. Con nên cố gắng tu hành, ghi nhớ kỹ lời ta truyền thụ, các pháp như huyễn ảo, tu như cảnh huyễn ảo. Còn về nơi tu hành, nên dựa vào hang động ở Tuyết Sơn, hang núi hiểm trở và nơi sâu trong rừng già. Trong những hang động vách núi này, núi Hỷ Nhật ở Đa Giáp là thắng địa mà các bậc đại thành tựu Ấn Độ gia trì, có thể đến đó tu hành. Na Kỳ Tuyết Sơn là một trong 24 Thánh địa, cũng là thắng địa tu hành. Núi Ba Bạt ở Mang Ngọc, Ngọc Mẫu Cống Nhạ ở Bát Ngọc là thắng địa thọ ký trong kinh Hoa Nghiêm. Khứ Bả ở Đình Nhật là nơi tập hợp Hộ đại Không hạnh mẫu, cũng là thắng địa tu hành. Các chỗ khác, bất kỳ nơi không có người nào, khi thuận duyên, đều cũng có thể tu hành. Con nên dựng chàng tu hành ở các nơi đó.

Trong các thắng địa ở phương Đông, có Đắc Oa Đa Thế và Cha Nhật. Hiện nay nhân duyên chưa đến, vẫn chưa xuất hiện, tương lai khi con thuyết Pháp, sẽ xuất hiện một loạt nhân tài đến những nơi này quảng bá rộng rãi.

Con nên đến các thắng đại đã thọ ký ở trên tu hành. Nếu đắc được thành tựu, đó chính là cúng dường cho thượng sư, là báo ân với sư mẫu, là lợi ích cho chúng sinh. Ngoài cuối cùng thành Phật ra, bất cứ việc gì cũng không được tính là cúng dường cao nhất, báo ân cuối cùng và sự nghiệp lợi ích cho mọi người chân thực. Nếu không có thành tựu, cho dù trường thọ trăm tuổi, thì chẳng qua cũng chỉ là sống làm thêm một chút tội ác mà thôi. Do đó con phải bỏ hết thảy tham dục và quyến luyến cõi hồng trần trong đời này. Chớ giao du với những người chỉ chăm chăm các việc thế tục, chớ nói chuyện vô bổ, phải một lòng nỗ lực tu hành.’

Thượng sư vừa nói vừa rơi lệ, nhìn ta từ bi nói: ‘Con trai, cha con ta đời này không còn gặp lại nữa, ta sẽ mãi mãi không quên con. Con cũng chớ quên ta. Nếu con có thể làm theo lời ta, tương lai, chúng ta nhất định sẽ gặp lại ở Sát thổ của Thanh tịnh Không hạnh. Con trai, con nên vui lên nhé. Sau này khi con tu hành, sẽ xảy ra chướng ngại nghiêm trọng của khí mạch, đến lúc đó, hãy mở cái này ra xem. Chưa đến lúc đó, nhất thiết không được mở.’

Nói rồi, thượng sư đưa cho ta một bức thư đã được phong kín bằng sáp. Lúc đó ta ghi nhớ thật kỹ khắc sâu trong lòng những lời dặn dò của thượng sư. Những lời dạy dỗ của thượng sư thực sự có lợi ích không thể nói hết đối với ta. Sau này mỗi lần nhớ lại những lời dạy dỗ của thượng sư, thiện tâm liền tăng lên, tu hành liền có tiến bộ. Thượng sư suy nghĩa sâu xa, thật không thể nói hết.

Thượng sư nói với sư mẫu: ‘Dakmema, bà chuẩn bị sáng mai đưa tiễn Milarepa. Ta trong lòng tuy muôn phần buồn bã, nhưng ta vẫn sẽ đi đưa tiễn nó. Con trai, tối nay ngủ với ta, để cha con ta trò chuyện.’

Tối hôm đó, ta ở cùng phòng thượng sư, tiếp chuyện thượng sư. Sư mẫu cũng ở cùng, sư mẫu vô cùng đau buồn, không ngừng nhỏ lệ. Thượng sư bèn nói: ‘Dakmema, khóc lóc làm gì. Đại Lực đã đắc được khẩu quyết thâm sâu nhất của Không hạnh nhĩ truyền trước mặt thượng sư, thì phải đến hang động tu hành chứ, có gì đáng khóc đâu? Bản tính của chúng sinh vốn đều là Phật tính, do vô minh, không những không thể tự chứng bản giác Phật Đà, mà lại cứ sinh ra rồi chết đi trong thống khổ một cách oan uổng. Thực ra những người đã có được thân người mà không thể gặp được chính pháp, mới là thực sự đáng buồn nhất, những người đó mới thực sự đáng phải khóc. Nếu bà khóc vì những người đó, vậy thì e rằng cả ngày từ sáng đến đêm cũng đều phải khóc.’

Sư mẫu nói: ‘Những lời của thượng sư quả là đúng, nhưng ai có thể từ sáng đến đêm có được từ bi như thế này? Con trai ruột của tôi, bất kể là nhập thế pháp hay là xuất thế pháp nó đều thông minh dị thường, đối với lợi người lợi mình, nhất định sẽ làm nên sự nghiệp to lớn, nhưng nó lại chết rồi. Trong lòng ta đau buồn khôn xiết. Giờ đây, đồ nhi hễ căn dặn gì không cái gì không nghe theo, không hề có chút lỗi lầm nào, có tín tâm lại có trí tuệ, cũng sẽ rời xa ta rồi. Ta xưa nay chưa từng có đồ nhi nào tốt như thế này, ta thực sự không thể nén nổi nỗi buồn đau trong lòng…’ Lời nói chưa dứt, nước mắt sư mẫu lại tuôn càng ngày càng nhiều, cuối cùng khóc rống lên nức nở.

Ta cũng không nén được đau buồn khóc lên, thượng sư cũng không ngớt lấy tay gạt lệ. Ba thầy trò lưu luyến không rời, đau buồn vô hạn, chẳng ai cất lên lời. Do đó đêm hôm đó, thực tế chẳng thể nói được chuyện gì.

Sáng sớm hôm sau, đem theo đồ cúng, thầy trò gồm 13 người đưa tiễn ta hơn 10 dặm đường. Trên đường đi, mọi người trong lòng đều rầu rĩ thê lương, không tránh khỏi cái tình ly biệt. Đến dốc Pháp Quảng Pha, cảnh tượng bốn bề hiện ra trước mắt. Mọi người ngồi xuống dốc núi, bày các đồ cúng ra.

Thượng sự cầm tay ta nói: ‘Con trai, con phải đi Vệ Tạng. Các nơi như Tát Nhi Mã đất Tạng có cướp ẩn náu rất ghê gớm. Ta vốn muốn sai một người đi tiễn con, nhưng có quan hệ nhân duyên thì chỉ có một người. Bây giờ con tuy chỉ có một mình độc hành, nhưng ta sẽ thỉnh thượng sư bản tôn gia trì, lệnh Hộ pháp Không hạnh đến bảo hộ con. Con không phải lo lắng, trên đường sẽ không xuất hiện việc gì cả. Tuy nói như thế, con vẫn nên phải cẩn thận một chút mới được. Con có thể đến chỗ Nga Ba lạt ma trước, so sánh khẩu quyết với cậu ấy, xem có gì sai khác không. Sau đó đi một mạch về nhà. Ở quê nhà, con chỉ được ở bảy ngày, sau đó nên vào núi tu luyện, để thành tựu sự nghiệp lợi mình lợi người.’

Thế là sư mẫu đem những thứ chuẩn bị cho ta như y phục, mũ, giày và lương khô dùng trên đường đi, tất cả tặng cho ta. Sư mẫu nói trong nước mắt: ‘Con trai, đây chỉ là bày tỏ một chút về vật chất thôi, đây là thời khắc cuối cùng mẹ con ta đoàn tụ trong đời này. Ta chúc con thượng lộ bình an, từ nay về sau viên mãn hạnh phúc. Phải phát nguyện mẹ con ta sau này sẽ gặp nhau ở Ô Kim Sát Thổ.’

Sư mẫu nói rồi, lại khóc rất bi ai. Những người tiễn đưa cũng theo đó mà rơi lệ. Ta thành kính bái thượng sư và sư mẫu, sư phụ và sư mẫu mô đỉnh gia trì phát nguyện xong, rồi chia tay.

Ta đi 10 bước thì 9 bước quay đầu lại nhìn, thấy những người đưa tiễn vẫn đứng đó không ngừng nhỏ lệ. Ta thực không nỡ lòng quay đầu nhìn. Dần dần, đường núi uốn khúc, cũng dần dần không nhìn thấy sư phụ sư mẫu nữa.

Khi ta đi hết đoạn đường nhỏ, đi qua một con suối nhỏ, quay đầu nhìn lại, vì khoảng cách quá xa nhìn không rõ, nhưng vẫn phảng phất thấy thượng sư và mọi người, vẫn như không nỡ rời xa ta, chăm chăm nhìn về hướng ta đi. Ta ủ rũ bi thương, không nén nổi chỉ muốn chạy trở lại. Nhưng lại nghĩ, ta đã đắc được khẩu quyết viên mãn, chỉ cần không làm ra các nghiệp ác trái pháp, từng thời khắc nhớ đến thượng sư, kính trọng thượng sư, thì chẳng khác gì ở cùng với thượng sư. Tương lai nhất định sẽ tái ngộ thượng sư và sư mẫu ở Thanh tịnh Sát Thổ. Lần này, trước tiên hãy về quê nhà thăm mẹ, rồi trở lại thăm thượng sư chẳng phải cũng khả dĩ đó sao? Thế là cố gắng nén bi thương trong lòng, cất bước về nơi ở của Nga Ba lạt ma.

Gặp Nga Ba lạt ma, đem khẩu quyết của ngài ấy và của ta so sánh. Về giải thích Mật tục và khéo thuyết pháp, ngài ấy mạnh hơn ta, nhưng về khẩu quyết tu hành, ta quyết không kém ngài ấy. Đặc biệt là Không hạnh khẩu truyền, ta biết được thực sự nhiều hơn ngài ấy rất nhiều. Cuối cùng, ta đảnh lễ Nga Ba lạt ma, sau khi phát nguyện, liền đi thẳng về quê nhà.

Lộ trình 15 ngày, 3 ngày là đã đến. Trong lòng ta nghĩ: năng lực tu khí công, thật sự vĩ đại.

Nhạ Quỳnh Ba lại hỏi: “Thưa thượng sư, sau khi ngài về quê nhà, tình hình quê nhà có như điềm báo trong mộng không ạ? Cuối cùng có gặp được mẫu thân của ngài không ạ?”

Tôn giả nói: “Tình hình ở nhà, đúng như mộng báo, ta đã không gặp được mẫu thân.”

Nhạ Quỳnh Ba nói: “Vậy ngài sau khi về nhà, rốt cuộc là tình hình như thế nào? Ở trong thôn gặp những gì?”

“Khi ta về cách quê nhà không xa, đầu tiên là đến bên dòng suối ở phía trên thôn, từ đó có thể thấy ngôi nhà của ta. Gần đó có rất nhiều đứa trẻ đang chăn dê, ta bèn hỏi chúng rằng: ‘Các bạn nhỏ, cho hỏi ngôi nhà to kia là nhà ai đó?’

Một đứa trẻ mục đồng lớn tuổi hơn nói: ‘Ngôi nhà đó gọi là ‘Nhà bốn cột tám rường’”, trong nhà đó ngoài quỷ ra thì chẳng có bóng người nào.’

‘Chủ nhân ngôi nhà chết rồi à? Hay là đi nơi khác rồi?’

‘Trước kia người nhà đó là người có nhiều tiền nhất trong thôn trang, trong nhà có một người con trai độc nhất. Vì cha chết sớm, khi chết, di chúc không làm thỏa đáng, dẫn đến tất cả gia sản của họ bị họ hàng đoạt lấy mất. Khi cậu con trai đó lớn lên, yêu cầu trả lại, nhưng họ hàng không muốn trả lại anh ta. Thế là anh ta thề đi học chú thuật. Quả nhiên sau này anh ta niệm chú giáng mưa đá, giết chết rất nhiều người, làm cho cái thôn này bị tàn hại rất thê thảm. Người trong thôn trang chúng ta đều sợ Thần Hộ pháp của anh ta. Đừng nói là đến nhà anh ta, thậm chí nhìn còn không dám nhìn. Ta nghĩ bây giờ ở ngôi nhà đó, e rằng chỉ có thi thể của mẫu thân anh ta và quỷ ở đó thôi. Anh ta còn có một em gái, cô gái đó cùng cực đến nỗi bỏ thi thể mẫu thân, không biết đi đâu ăn xin hành khất rồi. Còn anh con trai đó, rốt cuộc là sống hay chết, nhiều năm nay, chẳng có tin tức gì. Nghe nói trong ngôi nhà đó có rất nhiều giai thoại kinh điển, anh nếu có can đảm, cứ vào đó xem xem.’

Ta truy vấn đứa mục đồng đó: ‘Sự tình này đã trải qua bao nhiêu năm rồi?’

Mục đồng nói: ‘Mẫu thân anh ta chết khoảng 8 năm rồi. Việc niệm chú giáng mưa đá, ta nhớ rất rõ ràng. Còn những việc khác đều là ta hồi nhỏ nghe người ta nói, đến nay cũng không rõ nữa.’

Ta trong lòng thầm nghĩ, người trong thôn sợ Thần Hộ pháp của mình, có lẽ không dám hại mình. Lại biết mẫu thân thực sự đã chết rồi, em gái lưu lạc tha hương hành khất rồi, trong lòng đau buồn vô hạn.

Lúc hoàng hôn không có người, ta một mình chạy ra bờ sông, khóc rống lên một chặp. Trời vừa tối ta liền vào trong thôn.

Tất cả tình hình mà ta thấy đều giống y như trong mộng: Ruộng bên ngoài mọc đầy cỏ dại và cây gai. Ngôi nhà và Phật đường xanh vàng rực rỡ đều đã mục nát. Vào trong phòng liền thấy: Chính pháp bảo tàng chữa kinh đã bị mưa dột tan hoang, bùn đất và phân chim trên tường và cũng rơi khắp nơi. Một bộ kinh có vẻ như đã biến thành tổ chim tổ chuột rồi.

Nhìn thấy những điều này, nghĩ lại trước đây, một cảm giác thê lương bi ai tràn lên trong lòng. Đến gần cửa, thấy một đống đất dường như là đất và quần áo rách bọc lấy, bên trên đầy cỏ dại. Ta dùng tay chuyển đất đi, phát hiện ra ở trong có một đống xương người. Ban đầu cảm thấy mơ hồ, bỗng nhiên nghĩ ra, đây chính là thi hài mẫu thân. Bi ai bóp nghẹt cổ họng ta, trong lòng nhói lên từng cơn, lăn ra đất bất tỉnh. Một lúc tỉnh lại, lập tức ta nhớ đến khẩu quyết của thượng sư, liền quán tưởng, đem thần thức của mẫu thân và tâm ta dung hợp với tâm trí huệ của thượng sư. Ta gối đầu lên xương của mẫu thân, thân, khẩu, ý, không hỗn loạn một giây, ấn nhập vào đại thủ ấn tam muội. Như thế trải qua 7 ngày đêm, tận mắt thấy phụ thân và mẫu thân đều thoát khỏi khổ thú, siêu xuất đến Tịnh thổ rồi.

Sau 7 ngày, ta từ Tam muội định xuất định. Suy nghĩ kỹ lưỡng, hết thảy các Pháp luân hồi đều không có chút ý nghĩa thực tế nào, hết thảy mọi thứ thế gian, thực sự không có chút ý nghĩa nào. Ta nghĩ lấy xương mẫu thân làm tượng Phật, lấy các kinh cất giữ ở Chính pháp bảo cúng dường trước tượng Phật, bản thân mình quyết tâm đến hang Hộ Mã Bạch Nhai, không quản ngày đêm tu luyện: Nếu tâm không kiên trì sẽ bị Bát phong thế gian dao động (Bát phong tức là 8 pháp thế gian: Khổ, Lạc, Bần, Phú, Hủy, Dự, Quý, Tiện. Tám cái này kích động tâm người tu luyện, do đó gọi là Bát phong). Ta thà tự sát cũng không muốn để Bát phong dụ dỗ mê hoặc. Nếu trong tâm có nảy sinh chút tâm cầu an dật, vui thú nào, nguyện Không hạnh Hộ pháp hãy lấy đi sinh mệnh ta. Cứ thế này thề mấy lần với mình, hạ quyết tâm tu hành.

Cuối cùng ta thu thập xương tàn của mẫu thân, dọn sạch phân chim ở trên kinh sách, phát hiện ra, chỗ bị nước mưa làm hỏng không nhiều lắm, chữ vẫn nhìn thấy rõ ràng. Thế là lấy xương mẫu thân và kinh Bảo tích cõng trên lưng, trong lòng thê lương vô hạn. Đối với thế gian luân hồi, lòng nảy sinh ra tâm xuất ly cực đoan, quyết tâm vứt bỏ thế gian, cần mẫn tu chính Pháp. Ta ra khỏi cửa nhà, lòng đầy bi ai, vừa đi vừa hát bài ca giác ngộ hư vọng thế gian.

Ta vừa hát vừa đi, đến nhà thầy trước đây dạy ta chữ. Nhưng thầy cũng đã qua đời rồi. Ta bèn đem tất cả kinh Bảo tích cúng dường cho con trai thầy, nói rằng: ‘Tất cả kinh này đều cúng dường cho anh, nhờ anh lấy xương tàn mẫu thân ta nặn thành một pho tượng Phật.’

Con trai thầy nói: ‘Không, kinh của anh có Thần Hộ pháp ở sau, ta không dám nhận. Việc nặn tượng Phật, ta có thể làm giúp anh.’

Ta nói: ‘Anh yên tâm đi. Đây là đích thân ta cúng dường anh, Thần Hộ pháp sẽ không đến nữa.’

Anh ấy nói: ‘Thế này thì ta yên tâm rồi.’ Thế là anh ta giúp ta lấy xương mẫu thân nặn thành tượng Phật. Ta làm lễ khai quang xong, đặt tượng vào trong tháp. Sau khi mọi việc xong xuôi, anh ta thành khẩn nói với ta: ‘Xin anh ở thêm mấy ngày, chúng ta nói chuyện.’

Ta nói: ‘Ta không có thời gian nói chuyện lâu với anh được, ta đang gấp đi tu hành.’

Anh ta nói: ‘Vậy xin anh ở lại đêm nay với ta, ngày mai ta còn muốn cúng dường anh lương thực đồ dùng tu hành.’ Thế là ta đồng ý ở lại chỗ anh ta một đêm. Anh ta nói: ‘Khi anh còn trẻ tu phép giết người, niệm chú thuật. Bây giờ tu học chính Pháp, thực sự là thật hiếm có khó tìm. Tương lai nhất định có thể có thành tựu lớn, xin anh cho biết, anh đã gặp vị thượng sư như thế nào? Đắc được những pháp yếu gì?’

Ta bèn đem chuyện ban đầu theo Hồng giáo Lạt ma đắc được Đại viên mãn pháp và sau đó gặp được thượng sư Mã Nhĩ Ba kể lại chi tiết cho anh ta.

Anh ta nghe xong nói: ‘Đúng là hiếm có khó tìm. Nói như vậy, anh có thể học tấm gương thượng sư Mã Nhĩ Ba, tự mình làm một căn nhà, đem vợ chưa cưới của anh đến cưới làm vợ, kế thừa tông phong của thượng sư chẳng phải tốt sao?’

Ta nói: ‘Thượng sư Mã Nhĩ Ba vì lợi ích chúng sinh mới lấy vợ, ta không có sức mạnh đó.’ ‘Nơi sư tử nhảy, thỏ không biết tự lượng sức mình mà nhảy theo, nhất định ngã chết.’ Hơn nữa ta đối với thế gian luân hồi thì cực kỳ chán ghét. Trên đời, ngoài khẩu quyết của thượng sư và tu hành ra, hết thảy mọi thứ ta đều không muốn, ta đến hang đá tu hành, chính là cúng dường tốt nhất đối với thượng sư, chính là kế thừa tông phong của thượng sư, cũng là phương pháp tốt nhất khiến thượng sư hoan hỷ. Lợi ích chúng sinh, hoằng dương Phật pháp. Cũng chỉ có tu hành mới có thể làm được. Siêu độ mẹ cha cũng chỉ có tu hành mới có thể làm được. Tự lợi cũng phải dựa vào tu hành. Ngoài tu hành ra, các việc khác ta đều không biết, cũng không muốn quản, càng không có hứng thú.’

Lần này ta trở về quê nhà, thấy nhà cửa tan nát, người thân chết, lưu lạc, khiến ta giác ngộ sâu sắc được sự hư ảo vô thường của đời người. Con người thục mạng kiếm tiền, kết quả của muôn cay vạn đắng thành gia lập nghiệp, chỉ là một giấc mộng ảo, khiến ta nảy sinh cái tâm vô hạn muốn rời khỏi thế gian.

Nhà cửa giống như nhà lửa, bao nhiêu người không chịu thống khổ của nhân sinh, và những người đã quên đời người cuối cùng cũng phải chết, và sau khi chết phải chịu cái khổ của ác thú luân hồi, thì mới muốn tìm kiếm lạc thú thế gian. Nhưng ta đã nhìn thấu nhân sinh, sẽ chẳng để ý đến bần cùng đói rét và người khác cười chê, quyết tâm dốc sức hết thọ mệnh của mình, vì lợi ích của hết thảy chúng sinh của mình mà tu hành.

Nhà cửa tan nát, mẫu thân chết, em gái ly tán, thực sự đã cho ta bài học khắc cốt ghi tâm, thể nghiệm sâu sắc ý nghĩa đích thực của vô thường. Ta đã không nén nổi nhiều lần thốt lên ‘Đến núi sâu tu hành’. Trong sâu thẳm tâm hồn ta, cũng nhiều lần hạ quyết tâm lớn nhất, quyết vứt bỏ hết thảy hưởng thụ thế gian, cả đời tu hành.”

Xem tiếp Phần 8


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2000/12/27/5841.html

Đăng ngày 12-09-2018; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share