Tiền đề trở về với văn hóa truyền thống là trở về với tín ngưỡng Thần Phật
Bài viết của Văn Chính
[MINH HUỆ 05-08-2023] Người hiện đại một khi nhắc đến văn hóa truyền thống, ngay lập tức sẽ liên tưởng đến những thứ như bách gia chư tử, cầm kỳ thư họa, thi từ ca phú. Những thứ này là hình thức biểu hiện cụ thể của văn hóa truyền thống. Nhìn lại nền văn hóa Trung Hoa 5.000 năm, điểm bắt đầu và cơ sở của nó là thuyết hữu thần, đó là tín ngưỡng đối với Thần Phật.
Bất kể là Đạo gia, Nho gia và Phật gia, mặc dù thời gian xuất hiện khác nhau, mạch lạc phát triển khác nhau, nhưng niềm tin kiên định đối với Thần Phật luôn là cơ điểm của sự phát triển của nền văn hóa Trung Hoa, là cơ sở mà mọi thứ văn hóa sinh ra, không có tín ngưỡng đối với Thần Phật thì không có văn hóa truyền thống Trung Hoa. Nói một cách chính xác, nền văn hóa truyền thống Trung Hoa chính là nền văn hóa tín Thần của Trung Hoa.
Vào thế kỷ thứ 3 CN, đó là mốc thời gian xuất hiện Thời đại Trục tâm (Axial Age) mà trường phái Frankfurt đã nói, toàn thế giới cùng lúc xuất hiện một loạt những bậc thầy tâm linh vĩ đại như Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Khổng Tử và Socrates. Những bậc thầy tâm linh này cùng lúc đến nhân gian vào thời đại lễ nhạc băng hoại, mang đến cho nhân loại ba tôn giáo là Nho giáo, Thích giáo và Đạo giáo cùng với cấu trúc nền tảng của triết học Tây phương, chấn chỉnh nhận thức của nhân loại về vũ trụ và sinh mệnh, đồng thời giáo hóa con người làm thế nào trở thành bậc quân tử, tu thân hướng thiện.
Đúng như cái gọi là: Đạo thông [tỏ] trời đất giảng tự nhiên, Nho giảng Nhân và chú trọng đời này, Phật mở ra vũ trụ nói về tâm tính. Những điều tinh túy của nền văn hóa truyền thống Trung Hoa đều phản ánh trong ba tôn giáo là Nho giáo, Thích giáo và Đạo giáo, lịch sử 5.000 năm của nền văn minh Trung Hoa chính là lịch sử phát triển của Nho giáo, Thích giáo và Đạo giáo.
Nếu nói hai thể hệ tư tưởng Thích giáo và Đạo giáo đều dựa trên thuyết hữu thần, thì mọi người đều sẽ không có lời dị nghị.
Nhận thức của Đạo gia về nhân sinh bắt đầu từ Lão Tử. Lão Tử cho rằng con người giống với vũ trụ và trời đất, đều là sản vật của “Đạo”. Trong tự nhiên vô vi đã bao hàm những diễn giải thâm sâu về vũ trụ và về Thần vốn cao hơn con người cùng với những điểm ngộ con người nên cư xử như thế nào dưới tiền đề này.
“Đạo” là một trong những lý niệm cốt lõi trong nền văn hóa truyền thống Trung Hoa, ý nghĩa ban đầu là con đường, mở rộng thành phép tắc tự nhiên, gọi là “Thiên đạo” (đạo Trời). Còn “Nhân đạo” (đạo người) chẳng qua là đạo lý về xã hội và tự thân con người, tức là những tiêu chuẩn giá trị của xã hội và con người.
Cách nhìn căn bản của Phật gia về con người là đời người đều khổ, nhận biết Phật lý, siêu thoát nỗi khổ luân hồi của con người mới được giải thoát. Những miêu tả của Phật gia về thế giới Thiên quốc là nhiều nhất trong ba tôn giáo. Tại đây không nói thêm nữa.
Vào thế kỷ thứ 4 CN ở Trung Quốc, Phật giáo hưng thịnh ở khu vực phía nam sông Trường Giang, chủ yếu lưu truyền trong tầng lớp sỹ đại phu. Đây là những tư liệu có thể kiểm chứng được ghi chép trong lịch sử, [Phật giáo] du nhập vào dân gian trước đó nữa thì không có ghi chép lịch sử hoàn chỉnh. Nhưng có tư liệu cho thấy, Phật giáo truyền vào Trung Quốc sớm nhất có lẽ bắt đầu vào thế kỷ thứ 1 TCN, từ phía tây bắc dần dần thâm nhập vào, đi qua Con đường Tơ lụa tiến vào Trung Quốc. Dựa theo ghi chép trong quyển thứ 13 của “Xuất Tam Tạng Ký Tập”, phần lớn Kinh Phật tiếng Phạn đã xuất hiện và truyền rộng ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 3 CN.
Phật giáo là một bộ phận quan trọng cấu thành nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến những phương diện như lịch sử, văn học và nghệ thuật của Trung Quốc.
Đối với việc thể hệ tư tưởng của Phật gia và Đạo gia lập luận như thế nào về sự tồn tại của Thần và chỉ bảo con người làm thế nào để tu thành Thần, đây không phải là trọng điểm phân tích của bài viết này, bởi vì độc giả không nghi ngờ chất vấn về cơ sở lý luận hữu thần của hai thể hệ tư tưởng này.
Vậy vì sao tư tưởng Nho gia mà người Trung Quốc quen thuộc nhất lại nói lấy thuyết hữu thần làm cơ sở? Các học giả nghiên cứu thể hệ tư tưởng Nho gia theo các con đường ở Trung Quốc đại lục đều không dám hoặc không muốn đề cập đến đề tài này, trong rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về Nho giáo cùng lắm cũng chỉ nêu ra Khổng Tử có thái độ hoài nghi liệu Trời có tồn tại hay không.
Vậy thì, hãy bỏ qua những xem xét xuất phát từ việc bảo vệ bản thân của các học giả, chúng ta hãy thử xem tư tưởng Nho gia rốt cuộc có quan hệ với thuyết hữu thần hay không? Sự phát triển của thể hệ tư tưởng Nho gia bắt đầu vào thời Tiên Tần, hưng thịnh vào thời Hán, Đường và thời Tống, Minh.
Ông tổ khai sáng học thuyết Nho gia thời Tiên Tần là Khổng Tử, ngoài Khổng Tử ra, còn có các Nho gia thời Tiên Tần như Mạnh Tử và Tuân Tử. Khổng Tử tự xưng là học trò của Lão Tử, vào 2.500 năm trước, một hôm Khổng Tử từ vùng Khúc Phụ, Sơn Đông ngày nay đi đến Lạc Dương, Hà Nam để vấn đạo với Lão Tử, hiện nay ở Lạc Dương vẫn còn một bia đá có khắc dòng chữ “Khổng Tử vấn lễ với Lão Tử”.
Khổng Tử cả đời luôn tích cực muốn khôi phục Chu lễ, thúc đẩy đạo quân tử trị quốc cho các vị vua của liệt quốc. Trong thời gian 14 năm từ năm 55 tuổi đến 68 tuổi, ông không từ gian khổ, theo đuổi con đường làm điều Nhân mà ông tín phụng, đi khắp nơi du thuyết, nhưng về cơ bản không có vị quốc vương nào có thể tiếp thu sách lược trị quốc của ông. Trong cuốn “Khổng Tử Thế Gia” có ghi chép về câu chuyện Khổng Tử nghĩ mãi không hiểu nên đến vấn đạo Lão Tử.
Lão Tử thấy Khổng Tử lặn lội đường xa đến, hết sức vui mừng.
Lão Tử hỏi: “Ông đã đắc Đạo rồi chứ?”
Khổng Tử đáp: “Tôi đã cầu 27 năm rồi, mà vẫn chưa đắc Đạo.”
Lão Tử nói: “Nếu Đạo là một thứ hữu hình có thể mang đến dâng người, thì người ta sẽ tranh lấy nó dâng cho quân vương. Nếu Đạo có thể tặng người, thì người ta sẽ lấy nó tặng cho thân nhân.”
Lão Tử nói: “Đời người ở trong trời đất, chính là nhất thể với trời đất vậy. Trời đất, vật của tự nhiên vậy; Đời người, cũng là vật của tự nhiên; con người có sự thay đổi từ tuổi nhỏ, thiếu niên, tráng niên [đến] tuổi già, cũng như trời đất có sự luân phiên của xuân, hạ, thu, đông, có gì buồn ư? Sinh ở tự nhiên, chết ở tự nhiên, mặc cho tự nhiên ấy, thì bản tính không loạn; không mặc cho tự nhiên, mà bôn ba trong nhân nghĩa, thì bản tính ràng buộc. Công danh ấp ủ trong tâm, thì sinh ra cảm xúc lo âu; lợi dục lưu lại trong tâm, thì tăng thêm cảm xúc phiền não.”
Khổng Tử giải thích: “Tôi vẫn lo không hành Đại Đạo, không thực thi nhân nghĩa, chiến loạn không dừng, quốc gia loạn lạc bất trị vậy, đời người vốn là ngắn ngủi, cảm thán không thể có công với thế gian, không thể cống hiến cho dân.”
Lão Tử chỉ vào sông Hoàng Hà cuồn cuộn, nói với Khổng Tử: “Sao ông không học tập đức hạnh của nước nhỉ?”
Khổng Tử hỏi: “Nước có đức hạnh gì vậy?”
Lão Tử nói: “Thượng thiện nhược thủy: Nước giỏi làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở nơi ác của mọi người, đây là đức khiêm tốn vậy; cho nên sông biển sở dĩ có thể làm vương của trăm thung lũng, là vì nó giỏi [đặt mình] ở dưới, thì có thể làm vương của trăm thung lũng. Thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà tấn công kẻ mạnh không gì có thể thắng được, đây là đức mềm vậy; cho nên nhu thắng cương, yếu thắng mạnh. Bởi vì nó không có, cho nên có thể vào Vô, từ đó có thể biết cái đạo không lời và ích lợi của vô vi vậy.”
Sau khi Khổng Tử nghe xong, giật mình tỉnh ngộ, nói: “Lời này của Ngài, khiến tôi bỗng thấy sáng tỏ vậy.”
Khổng Tử lại nói: “Những lời của Ngài, xuất ra từ đáy lòng mà đi vào tâm tỳ của đệ tử, đệ tử được ích lợi rất nhiều, cả đời khó quên. Đệ tử sẽ tuân theo mà không giải đãi, để tạ ơn của Ngài.”
Nói xong, [Khổng Tử] cáo biệt Lão Tử, cùng Nam Cung Kính Thúc lên xe, lưu luyến lái xe về nước Lỗ.
Khổng Tử trở về từ chỗ của Lão Tử, ba ngày không nói gì.
Tử Cống thấy rất kỳ lạ, hỏi xem có chuyện gì, Khổng Tử nói: “Nếu khi ta gặp người có tư tưởng khoáng đạt như chim bay, thì ta có thể dùng luận điểm sắc bén chuẩn xác như cung tiễn để bắn ông và chế ngự ông.
“Nếu tư tưởng của đối phương phi nhanh không cương như con nai, thì ta có thể dùng chó săn đuổi theo nó, nhất định có thể khiến ông bị luận điểm của ta chế ngự. Nếu tư tưởng của đối phương ngao du giống như cá trong vực sâu lý luận, thì ta có thể dùng lưỡi câu để bắt ông.
“Nhưng nếu tư tưởng của đối phương giống như rồng, cưỡi mây cưỡi sương, ngao du ở Thái Hư huyễn cảnh, không hình không ảnh và bất định khó đoán, thì ta không có cách nào đuổi theo và bắt ông rồi.
“Ta gặp được Lão Tử, cảm thấy cảnh giới tư tưởng của ông giống như rồng ngao du trong Thái Hư, khiến ta mở miệng vô ích, nói không ra lời, đầu lưỡi duỗi ra cũng không thể thu về, làm ta tâm thần bất định, không biết ông rốt cuộc là người hay là Thần đây. Lão Đam, đúng là thầy của ta vậy!”
Khổng Tử tràn đầy tâm kính sợ đối với “Đạo”, điều này có thể thấy trong “Luận Ngữ – Lý Nhân”, ông từng nói: “Triêu văn đạo, tịch khả tử.” Khổng Tử, ông tổ khai sáng Nho học này, mặc dù chưa có nghiên cứu và lĩnh hội sâu sắc về thuyết hữu thần, nhưng trong tâm và trong tác phẩm của ông đều tràn đầy sự kính sợ đối với Thần minh và trời đất vũ trụ, nói cách khác, ông đã khai sáng thể hệ tư tưởng của Nho gia dựa trên cơ sở tán đồng với thuyết hữu thần.
Trích dẫn đơn giản một số lời miêu tả về “thượng thiên” của Khổng Tử như sau:
Năm mươi tuổi biết thiên mệnh (Khổng An Quốc nói)
Đắc tội với trời, không có nơi nào cầu xin vậy. (“Luận Ngữ – Bát Dật”)
Khổng Tử viết: Chao ôi, trời chúc cho. (“Xuân Thu Công Dương Truyện”)
Nhan Uyên chết. Khổng Tử viết: Trời tiếc thương cho, trời tiếc thương cho. (“Luận Ngữ”)
Khổng Tử viết: Trời sinh đức cho ta, Hoàn Đồi có thể làm sao? (“Luận Ngữ – Thuật Nhi”)
Tử Hạ viết: Thương nghe rồi, sinh tử hữu mệnh, phú quý tại thiên. (“Luận Ngữ – Nhan Uyên”) [chú thích: Thương là tên của Tử Hạ]
Khổng Tử còn có rất nhiều câu nói tương tự cho thấy sự tin tưởng, tín ngưỡng và nghe theo thiên mệnh của ông. Nhưng mà tín ngưỡng đối với thượng thiên của ông chủ yếu dừng lại ở nội tâm của riêng ông. Điều mà cả đời ông nghiên cứu và không ngừng thúc đẩy các bậc quân vương và bách tính là “Lễ” và “Nhân” của mình, ông chú tâm vào việc làm người, làm người nhân [nghĩa] và làm bậc quân tử như thế nào, không giống với góc độ mà Phật gia và Đạo gia chú trọng nghiên cứu.
Trong trường phái Nho gia thời Tiên Tần, tư tưởng “tính thiện luận” và “thiên nhân hợp nhất” của Mạnh Tử, “lễ luận” và “tri luận” của Tuân Tử trái lại gần sát với tín ngưỡng đối với thiên mệnh hơn.
Giai đoạn phát triển thứ hai của Nho gia là từ thời Hán đến cuối thời Đường, Hán Vũ Đế bãi bỏ bách gia và độc tôn Nho thuật, xác lập Nho học đứng hàng đầu trong các học viện quốc gia. “Quân quyền thần thụ” (xuất hiện sớm nhất ở “Dưới phục tùng (nhận) thiên mệnh” trong “Thượng Thư – Triệu Cáo”) là tiền đề để xác lập thể hệ tư tưởng Nho gia thành chủ thể thống trị thời đó.
Khi Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN) trả lời Hán Vũ Đế ba câu hỏi về “căn bản của vương đạo, thiên mệnh và tính tình”, ông minh xác chỉ ra: “Bậc vương giả trên thì cẩn trọng làm tròn thiên ý mà phục mệnh vậy. Dưới thì phải sáng suốt giáo hóa mà thành tính [tình] vậy.” (“Hán Thư – Đổng Trọng Thư Truyện”)
Đổng Trọng Thư vô cùng am hiểu đạo của Nho gia, không chỉ đề xuất cho Hán Vũ Đế “thiên nhân tam sách” trở thành đạo trị quốc của các học viện quốc gia, mà còn nhấn mạnh đặc tính thiên đạo thường hằng bất biến.
Theo Đổng Trọng Thư, Thiên (trời) là chủ tể tối cao, có câu “Nhân chi vi nhân, bản vu thiên” (“Hán Thư – Đổng Trọng Thư Truyện”) (tạm dịch: tính tình của con người, vốn từ trời), con người là do trời tạo ra và nên tương hợp với đặc tính của trời. Ví như, thân thể người có 365 khớp xương nhỏ, đối ứng với một năm có 365 ngày, và 12 khớp xương lớn thì đối ứng với 12 tháng. Ngũ tạng ở thân thể người tương ứng với ngũ hành, tứ chi cùng loại với bốn mùa. Cương nhu ở con người phù hợp với mùa đông và mùa hè, vui buồn ở con người giống với âm dương. Con người chỉ là bản sao của trời, chỉ có thuận theo thiên đạo mới có thân thể người khỏe mạnh, thuận theo an nhiên.
Giai đoạn phát triển thứ ba là thời Tống đến thời Minh và Thanh, giai đoạn này lấy “lý học” của Chu Hy làm chủ đạo, điều mà lý học nhấn mạnh là “Thiên lý”, hơn nữa đặc biệt củng cố và phóng đại một nguyên tắc là sự phát triển của mọi sự vật ở nhân gian nhất định phải tuân theo thiên lý.
Điều này cho thấy, cơ sở triết lý của thể hệ tư tưởng Nho gia giống với Đạo gia và Phật gia đều là thuyết Thần sáng thế. Có thể suy ra, những hình thái biểu hiện của văn hóa truyền thống Trung Hoa mà chúng ta đã quá quen thuộc, bất kể là thi từ ca phú, lối sống, cách ăn mặc hay biểu đạt ngôn ngữ, thậm chí là những sinh hoạt thường ngày như ăn, uống, ở, tất cả thể hiện văn hóa mà con người ngày nay cảm thấy vừa đẹp lại vừa lạ, vừa xa lại vừa gần đều là diễn biến phát triển dưới tiền đề cơ bản nhất là thuyết hữu thần.
Tín ngưỡng đối với Thần Phật, niềm tin vào sự tồn tại của Thiên quốc, kiên định vào thiện ác hữu báo ở nhân gian và sự ước thúc nhân tâm tự ngã mà “người đang làm, trời đang nhìn” (Đông Hán – Dương Chấn) mang đến đều là tiền đề cơ bản nhất của mọi nét văn hóa truyền thống tốt đẹp. Nền văn hóa Trung Hoa với tinh thần giàu tính nhân văn xưa nay không đặt tín ngưỡng và lý tính (khoa học) đối lập với nhau như văn hóa Tây phương, mà là dùng tín ngưỡng chỉ đạo lý tính, dựa trên cơ sở tín ngưỡng, lý tính phái sinh ra các loại hình văn hóa truyền thống Trung Hoa đặc thù và duy mỹ.
Nho gia dựa trên thuyết hữu thần cải thiện thế đạo, nhân văn và tình cảm, mới có thể sinh ra nhiều loại hình văn hóa chưa từng có và không ai sánh kịp đến thế. Dạ tiệc văn hóa tuyệt mỹ mà Shen Yun triển hiện cho thế nhân chính là sự tái hiện tốt nhất về nền văn hóa truyền thống Trung Hoa chân chính.
Nếu không có tín ngưỡng đối với Thần Phật và yêu cầu con người nhất định phải ước thúc hành vi của bản thân, thì con người sẽ tự cao tự đại, trong mắt không có Thần, thích gì làm nấy, ma tính bạo phát, từ đó đưa đến sự hủy diệt cho nhân loại nhanh hơn. Nhìn chung xã hội hiện nay, những nơi mà tai họa liên miên, những nơi mà người dân vô cùng khốn khổ kia chẳng phải đều là những nơi mà kẻ cầm quyền tuyên dương thuyết vô thần sao? Đáp án này không nói cũng rõ. Những người chỉ liên tục bị lời nói dối tẩy não, không có hiểu biết về lịch sử Thần Châu của chính mình, không có nhận thức về lối sống của người dân và những dân tộc khác trên thế giới, mới là những người vừa đáng thương nhất lại vừa đáng buồn nhất.
Nền văn hóa Thần truyền bắt nguồn từ Trung Hoa, chúng ta có sự truyền thừa mấy nghìn năm không gián đoạn, có trí huệ cổ xưa nhất, có nền văn hóa thù thắng mỹ hảo nhất, muốn tìm lại những thứ đó, tìm lại những ngày tháng hạnh phúc đã từng được Thần che chở đó, thì trước tiên phải hiểu rõ một đạo lý cơ bản nhất, đó chính là – chúng ta đều là con dân của Thần, nền văn hóa của chúng ta đều dựa trên thuyết hữu thần. Hữu thần là tín ngưỡng của chúng ta, mấy nghìn năm qua chưa từng gián đoạn.
Vì vậy, muốn trở về với văn hóa truyền thống thì trước tiên là khôi phục tín ngưỡng đối với Thần Phật.
Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://big5.minghui.org/mh/articles/2023/8/5/回歸傳統文化的前提是回歸對神佛的信仰-463826.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/9/1/211105.html