Từ Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm trên mạng Internet lần thứ 7 dành cho các học viên tại Trung Quốc

Bài viết của học viên Pháp Duyên từ tỉnh Cam Túc, Trung Quốc

[MINH HUỆ 21-11-2010]
Kính chào Sư phụ từ bi và vĩ đại!
Chào các bạn đồng tu!

Đắc Pháp trong thời loạn thế

Tôi tình cờ có được một quyển sách Pháp Luân Công vào năm 1996. Tôi đã nhận ra đây là một công pháp uyên thâm, nhưng không theo tu luyện. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, tôi đã đọc cuốn sách. Nhưng do ngộ tính kém, tôi không học Pháp sâu. Tôi hiểu rằng cuốn sách này dạy người ta cách trở thành một người tốt. Tôi đã xem đây như một môn khí công bình thường, do đó tôi đã không tinh tấn. Thực tế, tôi đã không trân quý Pháp Luân Đại Pháp và cơ hội hi hữu đắc được một môn tu luyện chính thống.

Khi chỗ làm việc của vợ tôi chuyển cô ấy từ làng nơi chúng tôi sinh sống đến một thị trấn, chúng tôi đã liên lạc với các học viên Pháp Luân Đại Pháp. Chúng tôi nhận ra rằng Sư phụ đã an bài để chúng tôi gặp gỡ các học viên khác. Vào tháng Năm năm 1998, tôi cuối cùng cũng nhận ra giá trị của pháp môn này và quyết định tu luyện từ đó, để có thể trở về nhà cùng Sư phụ.

Sau khi nghiêm túc tu luyện, tôi đã coi nhẹ danh lợi cá nhân và thành một người công nhân chăm chỉ. Coi nhẹ danh và không cầu báo đáp đã giúp tôi đạt được sự hài hòa. Tôi sống dựa trên các nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn. Trong thời gian rỗi, tôi và các bạn đồng tu đã tới các vùng ngoại ô để hồng dương Đại Pháp cho những người khác. Chúng tôi đã học Pháp và tập công theo nhóm.

Không gì ngăn được chúng tôi nói về Pháp Luân Công

Ngày 20 tháng Bảy năm 1999, ĐCSTQ và chế độ Giang Trạch Dân đã cấm môn tập và bắt đầu cuộc đàn áp tàn bạo đối với Pháp Luân Đại Pháp. Ban đầu tôi cảm thấy mất mát và chìm trong đau khổ. Khoảng ngày 26 tháng 12 năm 1999, tôi và vợ đã đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện công lý cho Pháp Luân Công. Chúng tôi mang theo một lá thư thỉnh nguyện yêu cầu chính phủ trả lại danh tính trong sạch cho Sư phụ và Đại Pháp. Trước khi rời đi, chúng tôi để lại đơn từ chức tại đơn vị công tác.

Tại quảng trường Thiên An Môn, tôi đã chứng kiến những hành động vĩ đại của nhiều học viên, những người đã mạo hiểm cả sinh mạng để thỉnh nguyện công lý cho Pháp Luân Công. Chúng tôi đã bị bắt giữ và đưa trở về địa phương. Tôi bị giam giữ chung phòng giam với một phạm nhân bị xử tử hình. Các cảnh sát đã yêu cầu các tù nhân làm cho tôi phải từ bỏ đức tin. Tôi đã nói với họ về thiện ác báo ứng. Tôi đã nói về sự tốt đẹp của Pháp Luân Đại Pháp và dạy họ cách trở thành một người tốt. Nhiều người đã bị thuyết phục bởi sự thuần thiện thể hiện nơi các học viên. Một cậu thanh niên 17 tuổi phạm tội giết người trong khi đánh nhau đã muốn nghe nhiều hơn về Pháp Luân Đại Pháp. Cậu nguyện sau này sẽ trở thành một người tốt và sẽ sửa chữa sai lầm. Mọi người, kể cả các cảnh sát, đều tràn đầy ngưỡng mộ Đại Pháp, và các tù nhân cùng phòng đã ngừng cãi vã và đánh nhau. Phòng giam của chúng tôi trở nên yên bình. Tôi thường nghĩ rằng nếu không có cuộc bức hại, những sinh mệnh mê lạc này sẽ được tự do nghe giảng Pháp Luân Đại Pháp và trở thành những người tốt. Mọi người, kể cả người xấu, đều có một mặt tốt.

Tôi đã bị kết án phi pháp một năm lao động cưỡng bức. Tôi kiên định niềm tin vào Sư phụ và Đại pháp, và đã nói chân tướng về pháp môn cho tất cả mọi người. Các cảnh sát đã không nghe, nhưng thái độ của họ không ngăn được tôi nói về Pháp Luân Công. Họ đã tra tấn tôi cả về thể chất và tinh thần. Ban ngày thì tôi phải lao động nặng nhọc và ban đêm thì họ cố gắng chuyển hóa tôi. Tôi đã bị ép buộc phải nghe những lời giả dối về Pháp Luân Công, nghiên cứu văn hóa đảng, đứng theo tư thế quân đội. Tôi cảm thấy chán nản và mệt mỏi. Thật là khó có thể thích nghi với cuộc sống thế này từ việc đang được công nhận là lao động tiên tiến và đóng một vai trò kiểu mẫu trong công tác. Đúng như Sư phụ đã giảng “Khổ kỳ tâm chí” (Hồng Ngâm I). Tôi vững tin vào Sư phụ và Đại Pháp. Mỗi khi cảm thấy mệt mỏi và không thể làm việc được nữa, một lính canh yêu cầu tôi nói ra những suy nghĩ của mình. Thay vào đó, tôi đã nói với họ về Pháp Luân Đại Pháp và kinh nghiệm tu luyện của tôi. Kỳ thực là Sư phụ đang bảo hộ tôi mọi lúc.

Chúng tôi đã bí mật chép lại các kinh văn của Sư phụ để có thể trao đổi cho nhau và học thuộc vào ban đêm. Mỗi khi có thể, tôi cố gắng nhớ lại từng câu, và nội dung của tất cả các bài giảng. Tôi nhớ lại và học thuộc Pháp trong tâm suốt ngày đêm. Các Pháp lý vĩ đại đã củng cố chính niệm của tôi và giúp tôi vượt qua thời gian khắc nghiệt đó. Để cố gắng “chuyển hóa” tôi, cảnh sát đã thường xuyên đưa tôi đến một nhà giam khác vào lúc 2 hoặc 3 giờ sáng. Tôi đã có Pháp của Sư phụ vững chắc trong tâm:

“Với Sư phụ và Pháp ở đây thì chư vị có gì phải sợ” (Giảng Pháp tại Sysney, bản dịch không chính thức)
“Nếu chư vị có thể vứt bỏ sinh tử, thì chư vị là Thần, nếu chư vị không thể vứt bỏ sinh tử, thì chư vị là một con người” (Giảng Pháp tại thành phố New York, bản dịch không chính thức)

Mỗi lần sau khi tôi nói với họ chân tướng về Pháp Luân Công và trả lời những câu hỏi của họ, môi trường trở nên hài hòa và tôi trở về phòng giam an toàn.

Một đêm tôi bị đưa tới một văn phòng. Khi tôi bước vào, tôi thấy các còng tay và dây thừng ở trên bàn. Người lính canh trông rất tàn ác. Anh ta bảo tôi hãy suy nghĩ cẩn thận và nói “Anh phải bị chuyển hóa.” Tôi bình tĩnh và thể hiện niềm tin kiên định vào Sư phụ và Đại Pháp. Cuối cùng, anh ta nói anh ta gặp rắc rối vì trường hợp của tôi. Họ đã trừ lương anh vài trăm tệ vì tôi. Tôi đã nói “Chúng tôi đang tu luyện chiểu theo các nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn và cố gắng thành một người tốt, nhưng chúng tôi lại bị tra tấn. Để giúp mọi người trân quý Pháp Luân Đại Pháp và không làm những điều xấu, chúng tôi đã đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện với Chính phủ công lý cho Pháp Luân Đại Pháp. Tuy nhiên, chúng tôi lại bị bỏ tù và bị lao động cưỡng bức và gia đình chúng tôi đang chịu đựng đau khổ. Lương của chúng tôi bị cắt trừ, và các học viên đã bị mất vài nghìn tệ và các bổng lộc mỗi tháng, nhưng chúng tôi không hề phàn nàn. Tuy vậy, anh lại đau buồn chỉ vì bị mất có ít tiền. Anh cũng đang hại người đó.” Anh ta đã ngừng ngược đãi tôi và mang cho tôi một trái táo chín đỏ. Tôi biết là Sư phụ đang khích lệ tôi. Miễn là chúng ta tin tưởng vào Sư phụ và Đại Pháp, chúng ta sẽ thực sự nhận ra rằng “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn!(Chuyển Pháp Luân)

Tháng Tư năm 2001, tôi lại bị bắt. Lúc đầu tôi đã nghĩ rằng do mình đã không chú ý cẩn thận khi nói chuyện với các học viên khác qua điện thoại. Sau tôi đã hướng nội và nhận ra rằng tôi đã không học Pháp đủ tốt và đã tự cho phép mình chìm đắm trong sắc dục và hưởng thụ an nhàn sau khi được thả khỏi trại lao động cưỡng bức. Tôi đã dừng giảng chân tướng về Pháp Luân Công cho các đồng nghiệp và chúng sinh. Cảnh sát tuyên bố tôi có thể bị kết án một năm lao động cưỡng bức. Khi tôi bị đưa vào trại lao động cưỡng bức, tôi và một học viên đã nói với cảnh sát về chân tướng của Pháp Luân Đại Pháp và đồng thời phát chính niệm. Khi chúng tôi tới trại thì sấm sét nổ vang. Chúng tôi không qua được đợt kiểm tra y tế nên trại lao động đã từ chối nhận chúng tôi. Viên cảnh sát không cam tâm, đã tìm cách liên hệ điện thoại để chúng tôi bị nhận vào trại, nhưng anh ta đã không thành công. Anh ta rất tức giận và nói “Anh tồi tệ đến mức mà họ thậm chí không muốn nhận anh nữa.” Tôi thấy cao hứng trong tâm. Sư phụ đã giảng:

“Trong đơn vị công tác, hoặc ngoài xã hội, có người có thể nói chư vị xấu, nhưng chư vị không nhất định đúng là xấu; có người nói chư vị tốt, chư vị lại cũng không nhất định đúng là tốt. Là người tu luyện, nếu đồng hoá với đặc tính này, thì chư vị chính là người đắc Đạo; chính là cái Lý đơn giản như thế” (Chuyển Pháp Luân)

Tôi bị đưa trở lại nhà tù. Trong một lúc, tôi đã phát triển tâm hoan hỉ, tâm sợ khổ, và mong muốn được thả ra càng sớm càng tốt. Tôi đã không hướng nội và loại bỏ các niệm đầu bất hảo. Ba ngày sau, các viên chức Phòng 610 tỉnh Cam Túc và những người khác đã đưa tôi tới trại lao động cưỡng bức số 1 Bình An Đài.

Các cảnh sát ở đây đã tra tấn các học viên, bắt chúng tôi lao động nặng nhọc cả ngày và tra tấn tinh thần chúng tôi vào ban đêm. Một vài học viên bị còng tay vào khung giường kim loại, vì vậy  họ không thể ngồi xổm hay đứng thẳng dậy. Một vài học viên bị các tù nhân cùng phòng đánh đập tàn ác, và những người khác thì bị cấm ngủ. Cảnh sát đã ép chúng tôi đọc các sách lăng mạ Pháp Luân Đại Pháp và cố gắng chuyển hóa chúng tôi.

Bất chấp mọi áp lực, chúng tôi kiên trì giảng chân tướng về Pháp Luân Công, hoàn thành các thệ ước tiền sử và cứu độ chúng sinh. Chúng tôi đã hỗ trợ lẫn nhau. Chúng tôi giữ chính niệm và tin tưởng mạnh mẽ vào Pháp Luân Đại Pháp. Các học viên đã thỉnh nguyện tới chính phủ quyền được tập luyện Pháp Luân Đại Pháp, phân phát tài liệu giảng thanh chân tướng và thiết lập các điểm sản xuất tài liệu. Hai học viên bị giam cùng tôi đã bị bức hại đến chết. Nghĩ về họ, nước mắt tôi lại tuôn rơi. Sư phụ vĩ đại và Phật Pháp vĩ đại đã tôi luyện muôn nghìn các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp vĩ đại. Chính niệm kiên định không gì phá được của các học viên vào Chân lý của vũ trụ đã khiến hết thảy tà ác khiếp sợ. Khi chúng ta phối hợp như một chỉnh thể, hệ thống tà ác trong trại lao động cưỡng bức sẽ sụp đổ.

Với sự bảo hộ của Sư phụ, huyền năng siêu phàm của Đại Pháp đã triển hiện

Tháng Bảy năm 2000, tôi và vợ đã mang đứa con trai bốn tuổi cùng đến Bắc Kinh để thỉnh nguyện quyền được tập luyện Pháp Luân Công. Để tránh cho các nhà chức trách địa phương và nơi làm việc bị ảnh hưởng, tôi đã không khai tên mình. Sau đó, tôi bị giam tại đồn cảnh sát Sùng Văn Môn tại Bắc Kinh. Vì tôi từ chối ghi nhớ các quy định của trại giam, cảnh sát đã yêu cầu các phạm nhân gây áp lực với tôi. Lúc đó là cuối thu, mọi người đều mặc áo ấm, nhưng tôi chỉ có quần cộc và áo ngắn tay. Họ không cho tôi bất kỳ đồ ăn, quần áo hay các vật dụng sinh hoạt hàng ngày nào.

Một hôm, một cảnh sát đưa tôi ra khỏi phòng giam và đã sốc điện tôi bằng một dùi cui điện. Tôi đã nhẩm đi nhẩm lại bài thơ của Sư phụ trong tâm:

“Sinh vô sở cầu
Tử bất tích lưu
Đãng tận vọng niệm
Phật bất nan tu”
(‘Vô tồn’, Hồng Ngâm)

Viên cảnh sát đưa tôi một cuốn sách Pháp Luân Đại Pháp và giả vờ là một học viên. Anh ta đầy thuyết phục và muốn tôi từ bỏ Pháp Luân Đại Pháp và nói cho anh ta tên và địa chỉ của tôi. Tôi mở cuốn sách và nhìn thấy ảnh của Sư phụ. Sư phụ nhìn tôi thật từ bi, đôi mắt Ngài chứa đầy sự quan tâm lo lắng. Nụ cười của Sư phụ đã cho tôi một sự khích lệ lớn lao. Vào thời khắc đó, chính niệm của tôi tăng thêm gấp bội và mặt tôi giàn giụa nước mắt. Tôi có thể cảm nhận được sự kỳ vọng và vui mừng của Sư phụ khi Ngài nhìn thấy chúng ta làm tốt.

Bốn mươi phút sau tôi trở về phòng giam. Một phạm nhân lớn tiếng chửi thề “Nhìn xem! Chúng đánh anh thành ra cái dạng gì thế này!” Đến tận lúc đó tôi mới chú ý đến bắp tay và chân tôi. Khi các tù nhân cùng phòng thấy sự kiên định của tôi vào Đại Pháp, họ đã thay đổi thái độ và cho tôi phần cà chua của họ. Họ cũng không còn hợp tác với cảnh sát, mà quan tâm và giúp đỡ tôi. Khi cảnh sát địa phương tôi và các đồng nghiệp đến để nhận tôi về, tất cả các tù nhân cùng phòng đã đứng dậy và chúc tôi mạnh khỏe. Điều này đã khiến cho cảnh sát, những người vốn chỉ biết đến bạo lực rất ngạc nhiên. Chỉ có các học viên Pháp Luân Đại Pháp mà sống theo tiêu chuẩn Chân – Thiện – Nhẫn mới có thể dẫn khởi thiện niệm, và giúp những người như thế và mang họ trở lại với bản tính con người.

Suốt 12 năm qua, nhiều người, không kể họ đã xấu tệ như thế nào trước đó, một khi bị cảm động bởi các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp, đã dừng hợp tác với chính quyền và bắt đầu bảo vệ các học viên. Trong tù, họ đã giúp các học viên truyền đi các kinh văn của Sư phụ và học thuộc Hồng Ngâm với chúng tôi. Chúng tôi đã trở thành bằng hữu. Nhiều người  đã được đắm mình trong hồng ân của Sư phụ.

Cảnh sát đã sử dụng nhiều biện pháp tra tấn trong các trại lao động. Tôi luôn giữ một niệm trong tâm “Sư phụ và Đại Pháp là toàn năng và bất phá.” Một lần, trại lao động chiếu một bộ phim lăng mạ Pháp Luân Đại Pháp và yêu cầu mọi người xem nó, nhưng tôi đã từ chối. Cảnh sát Lý Chấn Cương, một người rất độc ác và thường đánh các học viên rất tàn ác, đã đưa tôi tới phòng anh ta. Anh ta chửi rủa tôi và muốn đánh tôi. Tôi đã nhẩm trong tâm bài thơ:

“Tà ác chi đồ mạn xương cuồng,
Thiên địa phục minh hạ phí thang;
Quyền cước nan sử nhân tâm động,
Cuồng phong dẫn lai Thu cánh lương.”
(‘Thu phong lương’, Hồng Ngâm II)

Diễn nghĩa:
Cái lạnh của gió Thu
Ðám đồ tà ác chớ vội làm càn,
[Khi] trời đất sáng tỏ trở lại [các ngươi] sẽ [bị] hạ vào [vạc] nước sôi;
Đấm đá khó thay đổi được tâm của con người,
Cuồng phong dẫn đến mùa Thu còn lạnh lẽo hơn.

Đột nhiên tôi cảm thấy mình to lớn không gì sánh nổi và người cảnh sát thật nhỏ bé, không đáng để nhìn tôi. Anh ta chết lặng người. Sự tà ác của anh ta biến mất và ánh mắt chứa đầy sợ hãi. Tôi liên tục phát chính niệm trong tâm và nhìn thẳng vào mắt anh ta.

Từ đó trở đi, Lý Chấn Cương không dám trực tiếp bức hại tôi nữa. Anh ta yêu cầu một phạm nhân nghiện ma túy theo dõi và tra tấn tôi. Tôi bị ép ngồi một góc và không được phép đi lại xung quanh. Anh ta cũng yêu cầu hai phạm nhân đọc các sách phỉ báng và vu hãm Đại Pháp cho tôi nghe. Tôi nghĩ “Ngươi nói gì thì cũng không được tính. Ta không nghe ngươi.” Tôi nhắm mắt và phát chính niệm. Họ không thể ngồi yên, do đó họ cứ đi tới lui suốt buổi. Tôi phát chính niệm và để những cảnh sát tà ác đã tra tấn bức hại tôi phải nhận quả báo trong đời này. Đêm đó họ say rượu, và dù là uống không quá nhiều, họ bị nôn mửa và đã nghĩ là do uống phải rượu giả. Họ có vấn đề về tiêu hóa suốt cả tuần, và bị nôn ra bất kỳ thứ gì họ đã ăn vào.

Tôi bị giam giữ 6 tháng mà không được rời khỏi tòa nhà và gia đình không được vào thăm. Tôi ghi nhớ Pháp và phát chính niệm mỗi ngày. Tôi không phải chịu đựng quá nhiều. Tôi đã từ bỏ chấp trước vào sinh tử. Tôi đã viết một bức di thư và đột phá phong tỏa để gửi cho bạn học của tôi. Trong thư tôi đã nói về Pháp Luân Đại Pháp. Tôi cũng nói về tình huống của mình trong trại lao động và cuộc bức hại mà các học viên Đại Pháp đang chịu đựng. Tôi đã nói với anh ấy rằng nếu một ngày kia anh nghe tin rằng tôi đã nhảy khỏi tòa nhà, đã tự tử, hay đã chết vì bệnh tật, anh có thể chắc chắn rằng tôi đã bị tra tấn đến chết bởi các cảnh sát trại. Tôi đã yêu cầu anh gửi di thư  của tôi tới cha tôi nếu ông cũng nghe được những tin tức kiểu như vậy.

Đó là tầng thứ tư tưởng của tôi vào thời gian đó. Thực tế, làm sao tà ác được phép bức hại các học viên? Làm sao mà các học viên có thể bị bức hại tới chết. Năm đó tôi 31 tuổi. Tôi cảm thấy thật đau khổ vì phải viết một di thư trong môi trường tà ác như vậy. Nhờ sự gia trì và bảo hộ của Sư phụ vĩ đại, các cảnh sát mà đã theo dõi tôi và tham gia và việc tra tấn tôi đã cho tôi cơ hội rời tòa nhà sau sáu tháng và sau đó họ không còn tra tấn tôi nữa.

Tháng Bảy năm 2003, tôi bỏ trốn và trở thành vô gia cư. Phòng 610 địa phương đã tìm kiếm tôi. Họ cũng theo dõi người thân của tôi. Trong khoảng thời gian đó, tôi đã không quên trách nhiệm là một học viên vốn đang cứu độ nhiều chúng sinh hơn và nói về những lợi ích mà Đại Pháp đã ban cho các học viên. Tôi đã viết chân tướng về Pháp Luân Đại Pháp trên giấy, quân bài, và giấy vở và phân phát chúng khắp nơi. Tôi thu thập các bài thơ về lợi ích của Pháp Luân Đại Pháp, chân tướng về cuộc bức hại Pháp Luân Công và bản chất tà ác của ĐCSTQ, rồi sau đó tập hợp chúng lại thành một cuốn sách nhỏ. Tôi phân phát các cuốn sách nhỏ trong cộng đồng dân cư. Trong thời gian đó, tôi không thể liên lạc với các đồng tu, cũng không thể truy cập vào trang mạng Minh Huệ. Sư phụ đã nhìn thấy mọi điều trong tâm tôi và đã gia trì cho tôi. Không lâu sau đó, tôi đã mua vài thiết bị và bắt đầu sao đĩa DVD Cửu Bình và mọi tài liệu về Pháp Luân Công.

Dần dần tôi lại phát triển tâm chấp trước vào làm việc. Tôi không thường hướng nội và do vậy đã lơ là thành chứng thực bản thân. Một lần, đặc vụ đã theo tôi sau khi tôi đã tiêu rất nhiều tờ tiền có thông điệp về Pháp Luân Công được viết trên đó. Lúc đó tôi không biết rằng chủ nhà tôi thuê cũng tham gia vào việc bức hại các học viên. Tôi trấn tĩnh và hướng nội, học Pháp nhiều hơn, và phát chính niệm để thanh trừ tà ác. Cảnh sát đã cử nhiều người theo dõi tôi. Thậm chí các chủ nhà khác trong khu dân cư cũng tham gia vào việc theo dõi tôi. Tôi đã phát chính niệm thời gian lâu hơn để loại trừ tà ác. Tôi đã yêu cầu các học viên trong gia đình phát chính niệm và giúp tôi vượt qua khổ nạn. Tôi đã đưa cửu bình và các tài liệu giảng chân tướng khác cho mọi người mà theo dõi tôi và bảo cho họ về việc ĐCSTQ bức hại Pháp Luân Công và các học viên của pháp môn. Tôi cũng kể cho họ về những gì đã xảy đến với tôi và gia đình.

Tôi kết thúc trạng thái mai danh ẩn tích của mình và sống đường đường chính chính. Tôi chứng thực Pháp bằng chính ngôn chính hành. Cùng lúc, tôi cũng chứng thực sự thuần chính, đại thiện, đại nhẫn và chính khí của các học viên. Môi trường xung quanh tôi đã biến đổi. Những lời độc địa của ĐCSTQ nhắm vào tâm trí con người đã bị tiêu tán. Mọi người đã thay đổi thái độ với các học viên, từ căm ghét sang quan tâm, từ quan tâm đến chăm sóc, bảo vệ và thiện đãi các học viên.

Sau khi chúng tôi trở thành vô gia cư, vợ tôi và tôi đã làm việc tại một công trường xây dựng, mở một cửa hàng bán bánh hấp và dựng một gian hàng thời vụ. Hiện giờ chúng tôi có một cửa hàng nhỏ. Dù chúng tôi đã chịu khổ rất nhiều, tâm chúng tôi rất an bình. Tu luyện Đại Pháp là sự lựa chọn của chúng tôi, và chúng tôi sẽ không bao giờ hối tiếc. Chúng tôi đang trợ Sư cứu độ chúng sinh và truyền rộng phúc lành của Đại Pháp trong khi làm công tác, giúp thăng khởi thiện niệm của con người. Huyền năng của Đại Pháp luôn bên chúng tôi. Hiện giờ chúng tôi đang làm tốt, và mọi người đã học theo chúng tôi. Người thường ngưỡng mộ chúng tôi. Tôi thường bảo mọi người “Chúng tôi thật có phúc, vì cả nhà chúng tôi đều tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.

Nhớ về quá khứ, tôi nhận ra rằng mọi khảo nghiệm và mọi khổ nạn thực tế là để nhắm thẳng vào tâm chúng ta. Miễn là chúng ta tin tưởng và Sư phụ và Đại Pháp, tà ác sẽ không thể động tới chúng ta dù chỉ một chút, và chúng ta có thể kiên định tiến từng bước. Ân đức của Sư phụ thật khó báo đền đủ!

Tôi muốn quỳ gối để bày tỏ sự biết ơn tới Sư phụ. Cảm tạ Sư phụ vĩ đại. Con cảm tạ sự từ bi khổ độ của Ngài. Khó có gì xứng được với ân đức của Sư phụ. Mỗi khi nhớ Ngài,  nước mắt tôi lại đầm đìa.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các bạn đồng tu hải ngoại. Chúng ta hãy sát cánh cùng nhau qua bão tố và áp lực, truyền rộng những điều diệu kỳ của Đại Pháp đến khắp mọi nơi, và cứu độ nhiều chúng sinh hơn nữa!


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2010/11/21/明慧法会–那年我三十一岁-232481.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2010/12/14/121943.html
Đăng ngày 22-12-2010. Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share