Gió thổi để lại âm thanh, rồng qua để lại dấu vết (Phần 1)
Bài viết của Văn Tư Duệ, Trương Vũ Trừng
[MINH HUỆ 05-08-2023] Từ xưa đến nay, rồng luôn chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hóa Hoa Hạ. Cho đến hôm nay, đến đâu cũng vẫn có thể thấy hình tượng rồng—tượng điêu khắc rồng, tranh vẽ rồng, vật dụng có hình rồng, trang sức hình rồng, cờ rồng… chèo thuyền rồng Tết Đoan ngọ, múa đèn rồng Tết Nguyên tiêu. Dù ở bên ngoài Trung Quốc, múa rồng ở khu phố Tàu cũng là tiết mục truyền thống bền vững lâu đời.
Người xưa nói, “Gió thổi để lại âm thanh”. Vậy liệu rồng thật sự có tồn tại hay không? Liệu nó đã từng đến nhân gian hay chưa? Nếu có thì cũng từng để lại dấu vết chứ? Đại thiên thế giới, huyền bí vô cùng. Chúng ta hãy thả lỏng thân tâm, cùng nhau thưởng thức một chút những tư liệu có liên quan nhé.
I. Bức tranh “Cửu Long Đồ” của Trần Dung
Hình: Cửu Long Đồ (một phần), Trần Dung thời Nam Tống (từ năm 1189 – sau năm 1258), sáng tác vào năm Thuần Hựu thứ 4 (năm 1244)
Bức “Cửu Long Đồ” của họa sỹ Trần Dung thời Nam Tống được vẽ bằng bút lông mực tàu nhạt màu trên cuộn giấy dài, rộng 46.3 cm x dài 1096.4 cm. Chín con rồng có hình dạng khác nhau trong bức tranh nửa ẩn nửa hiện giữa núi đá, mây mù và sóng lớn, thần thái khuôn mặt, dáng vẻ thân hình và sắc thái chuyển động được khắc họa vô cùng sinh động, vẽ giống như thật; mây mù gắn liền với chín con rồng cũng sinh động như thật. Trên cuộn tranh dài này có năm mươi mấy dấu triện tượng trưng cho thân phận của những nhà thẩm định đánh giá và những nhà sưu tầm như “Càn Long ngự lãm chi bảo”, “Ngự thư phòng giám tàng bảo”, “Tam Hy Đường tinh giám tỉ”, “Gia Khánh ngự lãm chi bảo”, “Thái Thượng Hoàng Đế chi bảo”. Bức họa này được Cảnh Chiêu Trung, nội phủ vua Càn Long, vua Gia Khánh thời Thanh và cung thân vương phủ sưu tầm, khoảng cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc lưu lạc ra hải ngoại, được cất giữ ở Bảo tàng mỹ thuật Boston, được cho là bức vẽ rồng vĩ đại nhất hiện còn tồn tại, cũng là tác phẩm tinh mỹ hiếm có còn tồn tại của Trần Dung.
Thời cổ đại chưa có kỹ thuật chụp hình. Các họa sỹ Trung Quốc và Tây phương đều có bản lĩnh nhìn qua là nhớ, bất kể là người và vật, hay là thiên đường, thiên sứ, Thần Phật và kỳ quan, họ đều có thể dùng trí nhớ cao siêu và kỹ pháp tả thực để miêu tả hình thái và thần thái mà họ đã thấy, đồng thời có thể phác họa thành hình một cách sinh động nội hàm tinh thần được nắm bắt thông qua năng lực quan sát của chính họ. Do đó, bố cục và nội hàm của những tác phẩm của những bậc thầy vĩ đại thời kỳ Phục hưng Tây phương và thời Trung Quốc cổ đại tuyệt đối không thể đánh đồng với kỹ thuật chụp hình hiện đại và [tác phẩm của] những họa sỹ tả thực hiện đại.
Vậy thì, liệu Trần Dung đã từng thấy rồng hay chưa? Nếu đã từng thấy, thì đã thấy khi nào, ở đâu và trong tình huống nào? Nếu chưa từng thấy, thì làm thế nào vẽ ra chín con rồng này? Khi tìm kiếm đáp án cho vấn đề này, khiến tôi nhớ đến đội quân đất nung trong lăng Tần Thủy Hoàng, những bức tượng binh mã có hình dáng tướng mạo khác nhau đó, nếu nói đều là các thợ thủ công lấy vài kiểu hình mẫu thường thấy biến đổi mà ra, thì chắc trên thế giới có vài tỷ người, cũng có thể nói là vài kiểu hình mẫu biến đổi mà ra và hai bên đều có những chỗ giống nhau và khác nhau.
II. Những ghi chép về rồng trong chính sử
Chính sử Trung Quốc, còn được gọi là “tín sử”, kể từ cuốn “Sử Ký” ghi chép về thiên tượng và thiên văn đến nay, đã có lịch sử lâu đời, một nhà thiên văn học quốc tế đã từng công khai tuyên bố rằng, nếu muốn tìm kiếm một cách có hệ thống những tư liệu thiên văn của 1.000 năm trước, thì chỉ có trong chính sử Trung Quốc mới ghi chép hoàn chỉnh.
Trong “Nhị Thập Tứ Sử” thường xuất hiện những ghi chép về rồng. Trong “Hán Thư” có ghi chép: “Ngày Quý Dậu tháng Giêng năm Huệ Đế thứ 2, thấy có hai con rồng trong giếng Ôn Lăng, làng Đình Đông, Lan Lăng, đến đêm Ất Hợi rời đi.”
Trong “Tấn Thư” có ghi chép sự kiện, tháng 4 năm Vĩnh Hòa thứ 1 thời Đông Tấn, Thái Tổ Mộ Dung Hoảng của nước Tiền Yên cúng tế rồng: “Lúc đó có một con hắc long và một con bạch long được thấy ở Long Sơn, Mộ Dung Hoảng đích thân dẫn các quan lại đi xem, cách rồng hơn 200 bước, do Thái tể cúng tế. Hai con rồng giao đầu vui đùa bay lượn, tách sừng rời đi. Mộ Dung Hoảng vui mừng, sau khi hồi cung, miễn xá trong nước, gọi tên cung mới là Hòa Long, lập chùa Long Tường trên núi.”
Các triều đại đều có những ghi chép về việc rồng hiện hình ở thế gian, đó là chuyện bình thường.
Có 10 ghi chép về việc “hắc long” xuất hiện (không tính tin đồn và chiêm tinh):
Tháng 9 năm thứ 1, hắc long xuất hiện, ngày cuối cùng của tháng này, lại xuất hiện nhật thực.
Năm Kiến Đức thứ 6 (năm 577), có hai con rồng giao chiến ở thôn Đại Chu, Bạc Châu, bạch long thắng, hắc long chết.
Hắc long xuất hiện ở Triệu Châu.
……
Có 17 ghi chép về việc “bạch long” xuất hiện:
Ngày Quý Sửu tháng Giêng mùa xuân năm thứ 3, hai con bạch long xuất hiện ở Mẫn Trì, Hoằng Nông.
Mồng 6, Thứ sử Quảng Châu Âu Dương Ngỗi thượng tấu, bạch long xuất hiện ở bờ Nam sông Châu, Quảng Châu, chiều dài tính ra 10 trượng, lớn chắc là 8 đến 9 vòng, từ Tây Đạo, thành Kinh Châu bay đến gò Thiên Tỉnh.
Năm nay vinh hạnh cùng Cao Tổ đến Dã Đô, gặp phải hạn hán, Cao Tổ phái người đến đầm Bạch Long cầu xin trời giáng mưa xuống, có một con bạch long hiện ra giữa đầm nước, trong đêm hôm đó đã kịp thời có mưa, lượng nước sâu hơn một thước, mọi người đều cảm thấy kinh ngạc, đến lúc này, hoàng đế trẻ quả nhiên cũng đã lên ngôi hoàng vị.
……
Có 30 ghi chép về việc “hoàng long” xuất hiện:
Mùa hè tháng 4, hoàng long xuất hiện ở Tân Phong.
Mùa đông, hoàng long xuất hiện ở Chân Định.
Ngày 21, Tế Nam đưa tin hoàng long xuất hiện ở Lịch Thành.
……
Trong phủ ký và huyện ký ở khắp nơi, cũng có một số ghi chép liên quan đến rồng, như “Vĩnh Bình Phủ Chí” ghi chép, vào một ngày mùa hè năm Đạo Quang thứ 19 (năm 1839), có rồng rơi xuống trong huyện Lạc Đình thuộc hạ lưu sông Loan, ruồi nhặng khắp thân. Người dân địa phương dựng lều cho nó che nắng, và không ngừng dùng nước vẩy lên thân nó. Ba ngày sau, trong một cơn dông lớn, rồng đã rời khỏi chỗ đó.
III. Sự kiện về bạch long do Liễu Tông Nguyên ghi chép
Nhà văn thời Đường, Liễu Tông Nguyên (773 – 819 CN) là một trong tám nhà văn lớn nổi tiếng thời Đường và Tống, có địa vị rất cao trong lịch sử triết học và lịch sử văn học của Trung Quốc cổ đại. Cả đời ông thích Phật, tôn sùng “chăm chỉ nghe theo lời dạy của Thánh nhân, tôn kính lễ Phật”, ông từng nói: “Ta từ nhỏ thích Phật, cầu đạo Phật, đã 30 năm”. Liễu Tông Nguyên từng viết rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có bài “Trích Long Thuyết”, đã ghi chép đúng sự thực về một sự kiện thần kỳ có thật.
Toàn bộ bài văn được phiên dịch như sau:
Ở Phù Phong, Thiểm Tây, có một thanh niên họ Mã, anh từng kể với tôi (chỉ bản thân Liễu Tông Nguyên) câu chuyện như sau: Năm anh 15 hay 16 tuổi, lúc đó anh còn ở Trạch Châu, Sơn Tây. Một ngày nọ, anh và một nhóm trẻ đang chơi trong một ngôi đình ở vùng ngoại ô. Đột nhiên, có một tia sáng lóe lên, chỉ thấy một cô gái kỳ lạ từ trên trời rơi xuống đất, người cô khoác áo da màu đen đỏ có lớp vải lót màu trắng, trên đầu đội mũ có trâm cài.
Đúng lúc các công tử nhà giàu chơi đùa gần đó cũng phát hiện ra cô gái này; nhìn thấy vẻ mặt hồng hào và thần sắc trẻ đẹp phi thường của cô, trong tâm rất vui, tiến tới thăm dò nói chuyện với cô, nhưng lời nói không trang trọng lắm. Cô gái đó tức giận, nói: “Không được như thế! Ta ở Quân Thiên Đế Cung, thường xuôi ngược giữa các vì sao. Ngay cả Côn Lôn và Bồng Lai, ta đều giữ thái độ coi thường, không thèm đến. Thiên Đế cho rằng tâm ta quá cuồng vọng tự đại, [Ngài] nổi giận liền đày ta xuống nhân gian chịu phạt. Bảy ngày sau, ta vẫn có thể trở về thiên đình. Mặc dù bây giờ ta bị sỉ nhục ở phàm trần, nhưng ta tuyệt đối không phải là bạn của các ngươi, nếu không thì sau khi ta trở về, nhất định sẽ đem đến tai họa cho các ngươi.
Anh em các công tử nghe thấy, đều sợ hãi liền bỏ đi. Chàng thanh niên họ Mã từ xa đi theo cô gái, chỉ thấy cô ta đi vào giảng đường của một ngôi Phật đường. Đến ngày thứ bảy, chàng thanh niên họ Mã lại hiếu kỳ đến xem, phát hiện cô gái đó lại xuất hiện. Cô ta lấy một ly nước từ trong Phật đường, sau đó thổi một hơi vào ly nước, nước trong ly lập tức biến thành khói mây ngũ sắc rực rỡ bốc lên. Cô lật ngược chiếc áo da màu đen đỏ có lớp vải lót màu trắng ra mặc, rồi hóa thành một con bạch long, cưỡi mây lướt gió, bay lượn phía trên ngôi Phật tự, càng bay càng cao, bay hướng lên trời, không rõ bay đến phương nào. Câu chuyện này thật sự khiến người ta cảm thấy kinh ngạc. Có thể thấy, ngay cả những vị thần tiên bị đày xuống cõi trần đó, cũng không phải là [đối tượng mà] người phàm dưới đất có thể xúc phạm. Chàng thanh niên họ Mã đó không phải là người ngông cuồng nói dối, cho nên Liễu Tông Nguyên tôi đây đã ghi lại câu chuyện này.
Hiện nay, khi người ta nghiên cứu những tác phẩm của Liễu Tông Nguyên, xuất phát từ tư tưởng của thuyết vô thần, miễn cưỡng giải thích bài “Trích Long Thuyết” thành truyện ngụ ngôn do tác giả tưởng tượng ra. Kỳ thực, Liễu Tông Nguyên đã sớm nhấn mạnh rõ ràng trong bài rằng “nhụ tử bất vong nhân, cố ký kì thuyết”, chính là vì chàng thanh niên này tính tình thật thà, không phải là người ngông cuồng thích nói dối, cho nên Liễu Tông Nguyên mới ghi chép lại câu chuyện này.
IV. Hoàng đế Khang Hy gặp rồng thật
Trong “Lễ Ký” từng viết, các bậc Thánh vương thời thượng cổ dùng đức trị thế và dùng lễ giáo hóa dân chúng, nên sẽ có điềm lành triển hiện: “Cố thiên bất ái kỳ đạo, địa bất ái kỳ bảo… cố thiên giáng cao lộ, địa xuất lễ tuyền, sơn xuất khí xa, hà xuất mã đồ, phượng hoàng, kỳ lân giai tại giao trâu, quy long tại cung chiểu.” Ý là, hiền đức của Thánh vương, khiến trời không che giấu Đạo dưỡng dân, đất không che giấu bảo vật dưỡng dân… bởi vậy trời giáng mưa sương, đất tuôn suối ngọt, trong núi sinh ra vật tư chế tạo đồ vật xe cộ, dưới sông có long mã cõng “đồ hình” xuất hiện, phượng hoàng và kỳ lân xuất hiện dưới đầm hồ ở vùng ngoại ô, rùa và rồng xuất hiện dưới hồ lớn nuôi động vật trong cung điện.
Khi có bậc Thánh vương tại thế, dùng đại đức trị vì thiên hạ, khiến chính khí rõ ràng giữa trời đất, các điềm lành như rồng và phượng hoàng giáng lâm xuống thế gian. Sau khi người hữu duyên nhìn thấy, liền dùng các đồ vật như đá và ngọc thể hiện ra, để biểu đạt sự tôn kính đối với Thần tiên.
Ái Tân Giác La Huyền Diệp (1654 – 1722) chính là hoàng đế Khang Hy triều đại nhà Thanh. Hoàng đế Khang Hy đăng cơ lúc 8 tuổi, 14 tuổi đích thân chấp chính, tại vị 61 năm, khai sáng ra thời Khang Càn thịnh thế. Người Mông Cổ gọi ông là “Ân Hách A Mộc Cổ Lãng Hãn” hoặc “A Mộc Cổ Lãng Hãn” (tiếng Mông Cổ có nghĩa là “ôn hòa yên tĩnh”, dịch nghĩa tiếng Hán của “Khang Hy”). Phía Tây Tạng tôn ông là “Hoàng đế Văn Thù”. Tháng 3 năm Khang Hy thứ 44 (năm 1705), khi hoàng đế Khang Hy đi tuần phía Nam lần thứ năm, ông từng lưu trú ngắn ngày ở Chùa Kim Sơn, thị trấn Giang Tô. Vào ngày 30 tháng 4 năm đó, trời không có giông tố, chỉ có một cơn mưa nhỏ. Hoàng đế Khang Hy đi dạo bên ngoài phòng, nhìn xa ra sông, đột nhiên thấy ở phía Tây Nam xuất hiện một con rồng khổng lồ, dài khoảng 10 trượng, bay lượn vắt ngang bầu trời, rồi nhanh chóng ẩn vào trong mây. Hoàng đế Khang Hy nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ này, thế là nhấc bút viết ngay bài thơ “Kiến Long Hành”:
Kiến Long Hành
Huyền Diệp
Tại điền tại thiên liên nhị ngũ, thuần dương biến hóa tham thôn thổ.
Phi như khởi giao hoại điền lư, hựu phi mật vụ thương viên phố.
Vân đoan tiền hậu phát tường quang, uy dĩ thượng hạ hành hữu củ.
Nhi thừa lục long dĩ ngự thiên, bất vi thi đức phổ thời vũ.
Hữu kháng hữu hối hữu khuy doanh, thủ xuất thứ vật dụng tinh minh.
Đại tai long đức tòng kỳ loại, phát huy thuần túy tu kinh doanh.
Trường Giang nhất phái hà ương mãng, tố ba vạn lý tận trừng hoằng.
Tượng chấn lăng vân đôn nguyên khí, nhật tân cố thí ngoạn vô thanh.
Trong bài thơ “Kiến Long Hành” có viết, (rồng mà chính ta tận mắt nhìn thấy) không giống giao long hành động hủy hoại đồng ruộng phì nhiêu và nhà ở như thế, cũng không mang đến sương mù dày đặc làm tổn hại đất trồng rau củ và cây ăn trái. [Rồng] cưỡi mây bay đi, trước sau đám mây đều phát ra ánh sáng mang điềm lành; [nó] di chuyển quanh co khúc khuỷu, múa lên múa xuống rất có quy củ. Nước sông Trường Giang sâu rộng mênh mông, khi rồng di chuyển, muôn trùng sóng biếc lăn tăn tựa như dải lụa.
Hai câu mở đầu bài thơ “Tại điền tại thiên liên nhị ngũ, thuần dương biến hóa tham thôn thổ”, đại ý nói là bất kể rồng xuất hiện trên đồng ruộng hay trên trời, đều gắn liền với âm dương ngũ hành, tiên thể của chân long mà âm dương ngũ hành sinh ra biến hóa vô cùng, ẩn hiện hợp tan tùy ý. Cụm từ “tại điền” xuất phát từ “Chu Dịch”, quẻ Càn thứ 92 “Kiến long tại điền, lợi kiến đại nhân”, có nghĩa là rồng xuất hiện trên đồng ruộng, có lợi gặp được nhân vật quan trọng. Cụm từ “tượng chấn” trong câu kết ví von rồng di chuyển nhanh chóng như sấm sét. Lấy ví dụ về tượng theo “Kinh Dịch”, Càn là trời, Khôn là đất, Chấn là sấm sét. Quẻ Chấn biểu thị xu hướng đi lên, là quẻ đức hăm hở tiến lên và khí thế phấn khởi. Hoàng đế Khang Hy viết: Rồng di chuyển trên mây, tràn đầy nguyên khí phúc hậu, ta tĩnh tĩnh thưởng thức động thái biến đổi trong chớp mắt của nó.
(Còn tiếp)
Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://big5.minghui.org/mh/articles/2023/8/5/風過留聲-龍過留痕(1)-463848.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/9/21/211426.html