Cái gọi là xử án mà không có tình tiết phạm tội, không có cơ sở pháp lý thì không phải là chấp pháp mà là phạm tội

Bài viết của Đệ tử Đại Pháp ở Trung Quốc Đại lục

[MINH HUỆ 23-08-2025] Điều 60 của “Luật Công chức” quy định: “Công chức thi hành quyết định hoặc mệnh lệnh rõ ràng là trái pháp luật thì phải chịu trách nhiệm tương ứng theo quy định của pháp luật.” “Luật Công chức” cùng với các chính sách như “cơ chế truy cứu trách nhiệm suốt đời đối với các quyết sách trọng đại và cơ chế truy ngược trách nhiệm” và “Chế độ chịu trách nhiệm suốt đời về chất lượng xử lý vụ án”, đã chặt đứt đường lui của những người muốn trốn tránh hình phạt khi thi hành những mệnh lệnh trái pháp luật. Bất kỳ hành vi phạm tội nào bức hại người lương thiện đều không thể nhận được sự bảo hộ nào từ “cấp trên”; càng đừng mong “thông báo nội bộ” hay “tinh thần chỉ đạo” có thể giúp mình thoát khỏi trách nhiệm pháp lý.

Nhân viên các cơ quan công an, viện kiểm sát, và tòa án ở Trung Quốc Đại lục thường dựa vào Điều 300 của “Luật Hình sự”: “Tội lợi dụng tổ chức tà giáo để phá hoại việc thực thi pháp luật”, để vu khống các học viên Pháp Luân Công. Đây là hành vi cố ý tạo ra các vụ án oan sai của các cán bộ công an, kiểm sát, và tòa án, có dấu hiệu bị nghi là có liên quan đến nhiều tội danh như lạm dụng chức quyền, vì tư lợi mà bẻ cong pháp luật.

1. Không thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành tội danh, kẻ thực sự phá hoại việc thực thi pháp luật chính là các công chức trong các cơ quan hành chính, tư pháp đã bức hại học viên Pháp Luân Công

Tình tiết phạm tội được thành lập khi các tình tiết thực tế cơ bản của các yếu tố cấu thành tội phạm được hội đủ. Dù tình tiết phạm tội xét theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, đều không thể áp dụng cho học viên Pháp Luân Công, vì chỉ khi thỏa mãn đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm thì mới có thể được gọi là “tình tiết phạm tội”.

Xét đến bốn yếu tố cấu thành tội phạm của Điều 300 “Luật Hình sự”, các học viên Pháp Luân Công yêu cầu bản thân làm người tốt theo tiêu chuẩn Chân-Thiện-Nhẫn, không tồn tại bất kỳ ý định phạm tội chủ quan nào (phương diện chủ quan); không phá hoại việc thực thi của bất kỳ bộ luật, quy định nào (không có khách thể phạm tội); cũng không gây ra bất kỳ nguy hại nào cho xã hội (phương diện khách quan). Nói cách khác, là không thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, nên “tội chứng” căn bản không tồn tại.

Xét từ góc độ khách thể mà Điều 300 của “Luật Hình sự” bảo vệ, tức là “việc thực thi pháp luật và các quy định hành chính của nhà nước”, chủ thể của tội phạm này phải là người đã phá hoại việc thực thi pháp luật và quy định hành chính. Hành vi của học viên Pháp Luân Công không vi phạm bất kỳ bộ luật hay quy định hành chính cụ thể nào, càng không phá hoại việc thực thi của bất kỳ bộ luật, quy định nào.

Pháp luật phải rõ ràng, cụ thể, xưa nay chưa bao giờ có pháp luật trừu tượng. Tương tự, việc phá hoại thực thi pháp luật của nhà nước và các quy định hành chính cũng phải được chỉ ra rõ ràng. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 300 bộ luật (do Quốc hội ban hành) và khoảng 600 quy định hành chính do Quốc vụ viện ban hành có hiệu lực, không có một điều khoản nào định nghĩa hay cáo buộc việc tín ngưỡng và lan tỏa chân tướng Pháp Luân Công là bất hợp pháp. Để kết luận học viên Pháp Luân Công “phá hoại việc thực thi pháp luật”, thì phải chỉ rõ việc thực thi bộ luật, quy định nào trong số các luật và quy định hành chính nêu trên đã bị phá hoại; phá hoại việc thực thi điều nào, khoản nào, mục nào của luật; gây mức độ nghiêm trọng như thế nào (luật đó không thể thực thi được nữa, chỉ còn trên danh nghĩa, hay đã bị bãi bỏ)? Tất cả các vụ án kết án oan cho học viên Pháp Luân Công đều không có bằng chứng liên quan nào chứng minh điều này.

Thực tế, một công dân hay một nhóm xã hội bình thường căn bản không có năng lực cũng như điều kiện để phá hoại việc thực thi pháp luật và quy định của nhà nước. Chỉ có các quan chức nắm giữ quyền lực công, đặc biệt là người nắm giữ quyền lực tối cao, mới có năng lực và điều kiện để thực hiện loại tội phạm này, như lấy quyền thay luật, lấy nhân trị thay cho pháp trị, hoặc lợi dụng quyền lực để can thiệp vào hoạt động tư pháp, phá hoại tính độc lập, công bằng của tư pháp (như nhân viên “Phòng 610” thao túng các cơ quan công an, kiểm sát, và tòa án để bức hại các học viên Pháp Luân Công), đây mới là phá hoại việc thực thi pháp luật và quy định của nhà nước, đây mới thực sự là phạm tội.

Bao năm qua, việc các cơ quan công an, kiểm sát và tòa án (cơ quan thực thi pháp luật) đã sử dụng hình thức pháp luật để bức hại các học viên Pháp Luân Công; đây chính là ví dụ điển hình nhất của việc phá hoại việc thực thi pháp luật. Hành vi này đã phá hoại việc thực thi các quy định về tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng của “Hiến pháp”; phá hoại việc thi hành quy định trong “Luật Lập pháp” rằng luật cấp dưới không được mâu thuẫn với luật cấp trên (dùng giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” (Viện Kiểm sát Tối cao và Tòa án Tối cao) — vốn là vi hiến và trái pháp luật — để thay thế quy định của pháp luật); phá hoại việc thực thi quy định của “Luật Tố tụng Hình sự” về quyền hành pháp độc lập của viện kiểm sát và tòa án (nghe theo chỉ thị của Phòng 610 để kết án oan cho các học viên Pháp Luân Công); cũng là phá hoại “nguyên tắc: pháp luật không quy định thì không có tội” trong “Luật Hình sự” và Điều 300 của “Luật Hình sự”. Việc sử dụng Điều 300 của “Luật Hình sự” và giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” để bắt giữ, khởi tố, xét xử các học viên Pháp Luân Công chính là xuyên tạc và lạm dụng Luật Hình sự, là hành vi phá hoại việc thực thi pháp luật thực sự.

Bên cạnh đó, tín ngưỡng và hành vi giảng chân tướng của các học viên Pháp Luân Công là được “Hiến pháp” và pháp luật bảo vệ:

“Hiến pháp” quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng. Pháp luật chỉ có thể trừng phạt hành vi, còn bản thân tư tưởng (tín ngưỡng) thì không cấu thành tội phạm.

Điều 35 của “Hiến pháp”: “Công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có các quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, lập hội, tuần hành, biểu tình.”

Điều 36 của “Hiến pháp”: “Công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Bất kỳ cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và cá nhân nào cũng không được cưỡng chế công dân theo hoặc không theo tôn giáo nào, không được kỳ thị giữa công dân có tín ngưỡng tôn giáo và công dân không có tín ngưỡng tôn giáo.”

Theo quy định của “Hiến pháp”, việc tín ngưỡng và tu luyện Pháp Luân Công là hợp pháp, nói cho mọi người biết chân tướng về cuộc bức hại Pháp Luân Công, phát tặng tài liệu Pháp Luân Công, đều là hợp pháp. Một người tin vào điều gì hay không tin vào điều gì là biểu hiện của quyền tự do ý chí của người đó, là nhân quyền do Trời ban, là quyền mà Hiến pháp trao cho công dân, bất kỳ cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và cá nhân nào cũng không có quyền can thiệp. Còn Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công mới là phi pháp, là sự chà đạp và xâm phạm trắng trợn quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận của công dân.

Đối mặt với cuộc bức hại vô lý, vi hiến, và phi pháp này, các học viên Pháp Luân Công đi nói cho mọi người biết rằng việc bức hại Pháp Luân Công là phạm pháp, là hoang đường, đây là hành động bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và ngôn luận mà Hiến pháp đã trao cho họ, là hợp pháp, hợp tình, hợp lý. Khi một người hay một nhóm người bị đối xử bất công, bị oan khuất, thì “chặn kiệu kêu oan”, kể ra nỗi oan của mình cho những người xung quanh là điều bình thường, không có gì phải chê trách. Hiện nay, hàng trăm triệu học viên Pháp Luân Công bị đàn áp, bức hại vô cớ, chúng tôi kể lại nỗi oan của mình với các cơ quan hữu quan nhà nước và người dân xung quanh, nói cho mọi người biết tình huống chân thực của Pháp Luân Công, nói cho mọi người biết chúng tôi bị bức hại, bị oan; lẽ nào lại không được? Khi bị oan khuất, mà ngay cả hành vi kêu oan cũng là phạm pháp và chịu sự trừng phạt của pháp luật, thì pháp luật như vậy không phải là pháp luật chân chính, mà là công cụ để bức hại người lương thiện.

2. Pháp Luân Công là chính tín, không phải “tà giáo, tổ chức tà giáo”

Trong thế giới ngày nay, việc xác định một tôn giáo là chính giáo hay tà giáo không phải là điều mà bất kỳ cơ quan chính phủ, cơ quan lập pháp, hay cơ quan tư pháp của bất kỳ quốc gia nào có thể làm được. Nói thẳng ra, đây là chủ đề thuộc lĩnh vực tín ngưỡng, không phải là điều mà các cơ quan quyền lực nơi thế tục có quyền, có tư cách can thiệp, tà giáo căn bản không phải là một thuật ngữ pháp lý.

Đối với Pháp Luân Công, lý niệm dạy con người hướng thiện, ở đâu cũng nghĩ cho người khác hoàn toàn không liên quan gì đến “tà giáo”. Pháp Luân Công cũng không có bất kỳ hình thức tổ chức nào, các học viên Pháp Luân Công chỉ là một đoàn thể rải rác khắp nơi trên thế giới với mục đích tu tâm, hướng thiện, do đó hoàn toàn không liên quan gì đến “tổ chức tà giáo”. Ngược lại, Pháp Luân Công dạy người tu luyện lấy Chân-Thiện-Nhẫn làm chuẩn mực, đối với dân tộc, quốc gia, xã hội có trăm điều lợi mà không có một điều hại. Chính vì vậy, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền khắp hơn 100 quốc gia trên thế giới, gồm cả Hồng Kông, Đài Loan; Pháp Luân Công và Nhà sáng lập Pháp Luân Công đã nhận được hàng nghìn giải thưởng và bằng khen.

Có thể một số người cho rằng nhà nước đã xác định Pháp Luân Công là “tà giáo”, hoặc nói rằng nhà nước đã nhận định Pháp Luân Công như vậy, nhưng thực ra nhà nước hoàn toàn không nhận định Pháp Luân Công là tà giáo. Cụm từ “tà giáo” là do Giang Trạch Dân (đã chết) lần đầu tiên đưa ra trong cuộc phỏng vấn với phóng viên của tờ “Le Figaro” của Pháp vào ngày 26 tháng 10 năm 1999. Ngày hôm sau, tờ “Nhân Dân Nhật Báo” đã hùa theo mà đăng bài bình luận, lặp lại những lời vu khống của Giang Trạch Dân. Tuy nhiên, phát biểu của cá nhân và bài viết trên báo chí không phải là pháp luật. Điều 80 và 81 của “Hiến pháp” Trung Quốc đã quy định về chức quyền của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hoạt động trong phạm vi chức quyền của mình thì là đại diện cho nhà nước, hoạt động ngoài phạm vi chức quyền thì không đại diện cho nhà nước, mà chỉ là hành vi cá nhân. Do đó, Giang Trạch Dân, với tư cách là Chủ tịch nước, không có quyền đưa ra nhận định như vậy; đây chỉ là hành vi cá nhân của Giang Trạch Dân, không thể đại diện cho nhà nước, là ngang nhiên vu khống, phỉ báng Pháp Luân Công.

Trên các nền tảng mạng của Trung Quốc Đại lục cũng tràn ngập những ngôn luận nói Pháp Luân Công là “tổ chức tà giáo”, tất cả đều là lời vu khống phỉ báng, không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào, cũng không phải là văn bản chính thức có dấu đỏ được nhà nước công nhận. Ngôn luận trên mạng không phải là tiêu chuẩn để phán đoán đúng sai, càng không phải là căn cứ để xử lý, xét xử vụ án. Điều 3 của Bộ luật Hình sự có quy định nguyên tắc “pháp luật không quy định rõ ràng thì không coi là tội phạm”. Tạm chưa bàn đến việc chính phủ có quyền nhận định tổ chức tà giáo hay không, cho đến nay, văn bản duy nhất chính thức nhận định các tổ chức tà giáo là “Thông báo của Bộ Công an về một số vấn đề nhận định và cấm các tổ chức tà giáo” (Thông tư Số 29 [2000] của Bộ Công an) do Bộ Công an ban hành năm 2000. Văn bản này đã xác định rõ là có 7 loại tổ chức tà giáo do Văn phòng Trung ương và Văn phòng Quốc vụ viện xác định, và 7 loại tổ chức tà giáo do Bộ Công an xác định, tổng cộng là 14 loại tổ chức tà giáo, trong đó, không có Pháp Luân Công. (Các tổ chức tà giáo được Văn phòng Trung ương và Văn phòng Quốc vụ viện xác định rõ gồm 7 loại: 1) Phái Hô Hàm; 2) Môn Đồ Hội; 3) Toàn Phàm Vi Hội; 4) Linh Linh Giáo; 5) Tân Ước Giáo Hội; 6) Quan Âm Pháp Môn; 7) Chủ Thần Giáo. Các tổ chức tà giáo do Bộ Công an công nhận gồm 7 loại: 1) Bị Lập Vương; 2) Thống Nhất Giáo; 3) Tam Ban Phó Nhân Phái; 4) Linh Tiên Chân Phật Tông; 5) Con gái của Chúa Trời; 6) Đạt Mễ Tuyên Giáo Hội; 7) Thế Giới Dĩ Lợi Á Phúc Âm Tuyên Giáo Hội.)Tìm kiếm: Thông tư Số 29 [2000] của Bộ Công an là có thể tra cứu nội dung liên quan.

Điều đáng chú ý hơn là vào tháng 6 năm 2014, 15 năm sau khi cuộc bức hại Pháp Luân Công bắt đầu, tờ “Pháp Chế Vãn Báo” lại công khai tái khẳng định thông báo này của Bộ Công an, tái khẳng định 14 loại tà giáo đã được công nhận. Điều này không nghi ngờ gì nữa tương đương với việc chính quyền Trung Quốc một lần nữa xác định rõ rằng Pháp Luân Công không phải là một tổ chức tà giáo.

3. Giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” về Điều 300 “Luật Hình sự” là vô hiệu do vi phạm “Hiến pháp” và “Luật Lập pháp”, không thể dùng làm căn cứ xử án

(1) Giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” không thể làm căn cứ để xét xử vì vi phạm quy định về tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân trong “Hiến pháp” và quy định của “Luật Lập pháp”.

“Hiến pháp” quy định công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; “Luật Lập pháp” quy định luật cấp dưới không được mâu thuẫn với luật cấp trên. Trong khi đó, giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” thậm chí còn không được coi là luật cấp dưới, lại càng không có quyền đưa ra các quy định tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do tín ngưỡng của công dân, bởi đó là vi phạm “Hiến pháp” và “Luật Lập pháp”.

(2) Giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” lấy danh nghĩa là giải thích tư pháp, nhưng thực chất là hành vi lập pháp và giải thích lập pháp, là vô hiệu do vi hiến, phi pháp và vượt quyền.

Theo “Hiến pháp”, quyền lập pháp thuộc về Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Quốc hội) và Ủy ban Thường vụ; theo “Luật Lập pháp”, đối với “tội phạm và hình phạt”, đối với “việc tước đoạt, hạn chế quyền chính trị của công dân, các biện pháp cưỡng chế và xử phạt liên quan đến tự do thân thể”, chỉ có thể là do luật định, bất kỳ cơ quan nhà nước và tổ chức nào cũng không có quyền này. “Lưỡng Cao” là cơ quan tư pháp, không phải cơ quan lập pháp, không có quyền lập pháp. Nó không có quyền quy định hành vi nào là hành vi phạm tội, hành vi nào phải chịu hình phạt. Nhưng trong giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” về Điều 300 của “Luật Hình sự”, họ đã liệt kê một số biểu hiện hành vi, và tự ý quy định rằng đối với các hành vi được liệt kê, có thể định tội và xử phạt theo Điều 300 của “Luật Hình sự”. Đây là biểu hiện cho thấy “Lưỡng Cao” đã vi phạm “Hiến pháp”, “Luật Lập pháp” khi thực hiện quyền lập pháp. Bởi vì, tất cả các hành vi mà “Lưỡng Cao” liệt kê đều không được quy định trong Điều 300 của “Luật Hình sự”, mà là các hành vi phạm tội do chính “Lưỡng Cao” tự tạo ra, tự quy định mức hình phạt. Do đó, giải thích của “Lưỡng Cao” về vấn đề tà giáo đã mở rộng phạm vi của Luật Hình sự, liên quan đến việc tước đoạt quyền chính trị và hạn chế tự do thân thể của công dân, nhân danh giải thích tư pháp để thực hiện hành vi lập pháp hoặc giải thích lập pháp, rõ ràng là vượt quyền. Vì vậy, giải thích tư pháp của “Lưỡng Cao” thực chất là vô hiệu vì vi hiến, phi pháp, và vượt quyền.

Tội danh được quy định tại khoản 1, Điều 300 của “Luật Hình sự” là “…phá hoại việc thực thi pháp luật”. Vậy thì, giải thích của “Lưỡng Cao” nhất định phải xoay quanh các điều kiện cấu thành và các tình tiết cần có của tội danh này để giải thích. Nói cách khác, cần phải làm rõ, cần thỏa mãn những điều kiện nào, chẳng hạn như về mặt chủ quan, có phải chỉ là cố ý; về mặt khách quan, phải có hành vi nào, gây ra hậu quả nguy hại nào, thì mới cấu thành tội này? Cụ thể là do hành vi nào, mới có thể dẫn đến việc phá hoại bộ luật nào, trong đó việc thực thi điều luật nào bị phá hoại? Ví dụ, một người nào đó hạn chế tự do tín ngưỡng tôn giáo của người khác, thì người đó đã phá hoại việc thực thi Điều 36 của “Hiến pháp”. Nếu một người nào đó can thiệp vào việc tòa án hoặc viện kiểm sát thực hiện quyền xét xử độc lập hoặc quyền kiểm sát độc lập theo quy định pháp luật, thì người đó đã phá hoại việc thực thi Điều 131 hoặc Điều 136 của “Hiến pháp”, v.v. Tuy nhiên, giải thích của “Lưỡng Cao” lại đi chệch khỏi các yếu tố cấu thành của tội này mà nói thành chuyện khác, rằng chế tác, phát tặng bao nhiêu tờ rơi, hình ảnh, khẩu hiệu, báo chí thì là tà giáo, hoặc bao nhiêu cuốn sách” thì là “phá hoại việc thực thi pháp luật”. “Chế tác, truyền bá các ấn phẩm tuyên truyền tà giáo” và “phá hoại việc thực thi pháp luật” hoàn toàn không phải là cùng một khái niệm.

4. Sách và các tài liệu liên quan của Pháp Luân Công là tài sản hợp pháp của cá nhân

Sách Pháp Luân Công là những kinh văn kinh điển dạy con người hướng thiện, việc sở hữu các ấn phẩm Pháp Luân Công không có gì là phạm pháp. Quan trọng hơn, ngay cả theo các văn bản pháp luật hiện hành, việc học viên Pháp Luân Công sở hữu sách và tài liệu Pháp Luân Công cũng hoàn toàn là hợp pháp.

Ngày 29 tháng 12 năm 2010, tại hội nghị lần thứ hai của Tổng cục Báo chí và Xuất bản Quốc vụ viện đã thông qua “Văn kiện số 50”, văn kiện này được ký ban hành vào ngày 1 tháng 3 năm 2011 và có hiệu lực kể từ ngày công bố. Quốc vụ viện đã công bố lệnh này của Tổng cục Báo chí và Xuất bản Nhà nước và đăng trên “Công báo Quốc vụ viện” Số 28 năm 2011. Văn kiện này đã bãi bỏ 161 văn bản quy phạm, trong đó văn bản bị bãi bỏ thứ 99 là “Thông báo về việc tái khẳng định ý kiến xử lý đối với các ấn phẩm Pháp Luân Công” ban hành ngày 22 tháng 7 năm 1999; văn bản bị bãi bỏ thứ 100 là “Thông báo về việc kiểm tra và cấm in ấn các ấn phẩm liên quan đến Pháp Luân Công, tăng cường hơn nữa công tác quản lý in ấn xuất bản phẩm” ban hành ngày 5 tháng 8 năm 1999.

“Văn kiện số 50” cho thấy, các sách Pháp Luân Công đã được dỡ bỏ lệnh cấm, nên chính là các ấn phẩm hợp pháp. Sách Pháp Luân Công là hợp pháp, vậy thì các tài liệu giới thiệu, giảng giải chân tướng về Pháp Luân Công đương nhiên cũng hợp pháp.

Tóm lại, tín ngưỡng và hành vi giảng thanh chân tướng của các học viên Pháp Luân Công là hành vi hợp pháp được “Hiến pháp” và pháp luật nhà nước bảo vệ, hành vi bức hại các học viên Pháp Luân Công mới là hành vi phạm tội thực sự.

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/8/23/498675.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/8/27/229559.html