Bài viết của Tân Minh và Hân Nham
[MINH HUỆ 20-06-2020] Trong nạn đói năm 1932-1933 ở Liên Xô, nhiều người đã bị bắn vì lấy trộm ngũ cốc của công xã địa phương, “thậm chí còn bị hành quyết vì nhặt vài hạt vương vãi trên mặt đất”, ông Oleh Shamshur, Đại sứ Ukraine tại Hoa Kỳ năm 2006, kể lại. Ông cũng dẫn chứng trường hợp của Mykhaylo Naumenko lúc 11 tuổi: “Tính đến ngày 24 tháng 5, 75 ngôi nhà trong làng chúng tôi đều vắng bóng người bởi dân làng đã chết sạch”.
Khoảng 30 năm sau, những thảm kịch tương tự lại xảy ra ở Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). “Một báo cáo ngày 30 tháng 11 năm 1960 được truyền trong giới lãnh đạo chóp bu — nhiều khả năng có cả Mao trong đó — nói về một người đàn ông tên Wang Ziyou bị cắt một bên tai, hai chân bị trói bằng dây sắt, bị 10kg đá rơi vào lưng, rồi lại bị gí thanh sắt nóng đỏ. Tội của ông ấy là: đào trộm một củ khoai tây”, Frank Dikötter, một giáo sư tại Đại học Hồng Kông, cũng là tác giả của bài báo Đại nhảy vọt tới nạn đói của Mao (Mao’s Great Leap to Famine) [trên tờ New York Times].
Giáo sư Dikötter dành mấy năm ở Trung Quốc, từ năm 2005 dến 2009, và đã nghiên cứu hàng trăm tài liệu. Ông cũng đã đọc về một cậu bé đã lấy trộm một nắm ngũ cốc ở một ngôi làng ở tỉnh Hồ Nam. Một quan chức địa phương tên là Xiong Dechang đã ép cha của cậu bé phải chôn sống cậu ngay tại chỗ. Người cha đã qua đời vì quá đau buồn ba tuần sau đó.
Xuyên suốt thế kỷ 20, hơn 60 triệu người dân Liên Xô đã mất mạng vì chiến tranh, chết đói và các cuộc thanh lọc chính trị. Ở Trung Quốc dưới chế độ cộng sản, có đến 80 triệu người đã chết bất thường. Tuy nhiên, sự thật này được che giấu cẩn mật như hồ sơ “tuyệt mật” bởi nếu bị lộ ra, nó có thể đe dọa tới chế độ độc tài của họ.
Nhìn lại những lời nói dối của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), chúng ta có thể thấy những gì ĐCSTQ đã nói có nhiều điểm tương tự, vốn đang lừa mị cả người dân Trung Quốc lẫn cộng đồng quốc tế. Một trường hợp điển hình là sự bùng phát virus corona: sự che đậy của ĐCSTQ đã biến một dịch bệnh trở thành một đại dịch toàn cầu, giết hại hơn một nửa triệu người trên toàn thế giới.
Dưới đây là một số lời nói dối trắng trợn của các đảng cộng sản.
Tung tin giả trong nước
Liên Xô đã trải qua ba nạn đói lớn. Nạn đói đầu tiên là trong thời kỳ Nội Chiến năm 1921 khi ĐCSLX trưng thu ngũ cốc, hủy hoại sức sản xuất, và làm mất đi nhiệt huyết của nông dân. Sản lượng thóc gạo của nước Nga khi đó giảm còn một nửa, [đã gây ra] cái chết của năm triệu người. [Hiện tượng] ăn thịt người đã xuất hiện ở nhiều khu vực. Nạn đói lần thứ hai xảy ra vào năm 1929, khi Stalin cưỡng chế nông dân gia nhập hợp tác xã và thu mua nông sản với giá rẻ mạt trong khi giá thóc gạo bán cho nông dân cao đến chóng mặt. Điều này đã dẫn tới cái chết của tám triệu người, gồm cả 1/4 tổng dân số Ukraine lúc bấy giờ. Nạn đói lần thứ ba xảy ra từ năm 1946 đến 1947.
Ngoài những nạn đói tàn khốc đó, người dân Liên Xô còn phải chống chọi với sự thiếu hụt nhu yếu phẩm hàng ngày do sự sa sút của ngành công nghiệp nhẹ, bởi ưu tiên cao nhất lúc bấy giờ được dành cho công nghiệp nặng và quân sự. Thêm vào đó, rất nhiều người dân còn bị thanh trừng chính trị và đàn áp trong thời kỳ Stalin nắm quyền, khiến ai ai cũng sống trong sợ hãi. Trong khi đó, ĐCSLX lại tuyên truyền cho nhân dân rằng họ đang sống cuộc sống hạnh phúc không đâu bằng.
ĐCSTQ cũng nói dối như vậy trong suốt thời gian nó cầm quyền. Khi hơn 40 triệu người chết đói vì Đại Nhảy vọt, ĐCSTQ nói với nhân dân Trung Quốc rằng điều kiện sống của họ tốt hơn so với nhiều nước khác và 2/3 người dân thế giới đang sống trong nghèo đói. Ở Trung Quốc ngày nay, hơn 600 triệu người đang phải sống chật vật với mức thu nhập hàng tháng ít hơn 1.000 Nhân dân tệ (khoảng 140 USD). Trên thực tế, Trung Quốc xếp hạng 92 trong số 150 quốc gia theo Báo cáo đánh giá mức độ hạnh phúc trên thế giới năm 2020 của Liên Hợp Quốc, thua xa các quốc gia phương Tây.
ĐCSTQ còn bảo dân chúng rằng Trung Quốc là nơi an toàn nhất trên thế giới và chỉ có ĐCSTQ mới có thể bảo vệ họ. Tuyên truyền của ĐCSTQ đầy rẫy những bài phóng đại về các vấn đề của Hoa Kỳ như xả súng, nổi loạn, mức độ nghiêm trọng của sự lây nhiễm virus corona, v.v.. Trên thực tế, 68% người thất nghiệp ở Hoa Kỳ nhận được tiền trợ cấp, thậm chí còn cao hơn cả tiền lương và nhu yếu phẩm hàng ngày được phân phát miễn phí cho những người cần giúp đỡ.
Nếu Trung Quốc là quốc gia an toàn nhất như ĐCSTQ tuyên bố thì tại sao chính phủ Trung Quốc lại từ chối sắp xếp cho những sinh viên Trung Quốc đang mắc kẹt ở nước ngoài trở về nước? Tại sao nó lại phải chi tiêu hàng trăm tỷ Nhân dân tệ để “ổn định” tình hình trong nước và giám sát người dân? Không có luật pháp, không có tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, thì kiểu ổn định này, có được bằng sự đàn áp thẳng tay, là kiểu ổn định gì.
Người nghèo là trụ cột cho một quốc gia hùng cường
Quả thật, các lực lượng vũ trang Liên Xô, đặc biệt là vũ khí hạt nhân, đã vượt trội Hoa Kỳ, vốn là cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới vào giữa những năm 1980, nhưng nếu cho rằng Liên Xô phồn thịnh và hùng mạnh lại là sai lầm nghiêm trọng.
Để duy trì ưu thế quân sự, Liên Xô đã dành hơn 80% vốn đầu tư công nghiệp vào công nghiệp nặng, vốn không phục vụ gì nhiều cho cuộc sống của người dân. Họ phải thức dậy vào lúc 5 giờ sáng để xếp hàng nhận nhu yếu phẩm hàng ngày. Người dân thiếu ăn, nông dân bị bóc lột. “Đế chế” này được xây dựng trên một nền tảng yếu kém.
Cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev từng nói công cuộc hiện đại hóa trước đây phải trả giá bằng cuộc sống của người dân, hiện đại hóa để giữ “thể diện” cho quốc gia, hiện đại hóa vì giai cấp lãnh đạo sùng bái sức mạnh quân sự, hiện đại hóa để thể hiện “sự vinh quang của đế chế”, và mô hình phát triển khiến con người trở thành nạn nhân của “thành công của quốc gia”, tất cả đều chứng tỏ là đối lập với “nền văn minh hiện đại”.
Đáng tiếc là, những bài học của ĐCSLX vẫn được ĐCSTQ coi là “vũ khí thần kỳ”, say mê ôm giữ cái gọi là bốn “hiện đại hóa” và tin rằng những thứ này phản ánh sự thịnh vượng và hùng mạnh của Trung Quốc.
Trong khi nhiều người ở Trung Quốc phải sống trong nghèo đói, thì viện trợ nước ngoài của ĐCSTQ trong bốn năm qua lên đến 6 tỷ Nhân dân tệ, quả là một con số thiên văn. ĐCSLX cũng viện trợ tài chính rất hào phóng cho các nước khác để xuất khẩu “cách mạng đỏ” trong khi bản thân chìm trong nợ nần. Ngày nay, ĐCSTQ đang đi theo vết xe đổ của ĐCSLX khi truyền bá hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trên toàn cầu bằng cách đánh đổi mức sống của chính nhân dân Trung Quốc.
Sự hủ bại cố hữu của các nhà lãnh đạo cộng sản
Các nhà lãnh đạo cộng sản như Marx, Lenin, Stalin, Mao và hơn thế nữa, thường được suy tôn là “các vị cứu tinh vĩ đại” với đạo đức cao thượng. Mặc dù chà đạp các tín ngưỡng tôn giáo, nhưng họ lại sùng bái chính bản thân mình. Nói cách khác, sự tàn nhẫn, máu lạnh và ích kỷ cực độ của họ đã được che đậy kỹ, mà thậm chí cho tới hôm nay, người dân ở các quốc gia cộng sản vẫn không hay biết.
Ballerina Olga Lepeshinskaya, được cho là một trong những tình nhân của Stalin. Năm 2004, bà đã nói thế này về Stalin: “Ông ta có thể rất ngọt ngào và tử tế, nhưng đó có thể chỉ là ấn tượng mà ông ta tạo ra. Bởi vì về bản chất, ông ta là kẻ xấu – đầy thù hằn và tức giận.”
Vera Davydova được cho là người tình mà Stalin sủng ái nhất và đã sống cùng ông ta gần hai thập kỷ. Trong hồi ký Lời thú tội của những người tình của Stalin (Confessions of Stalin’s Lover), bà thuật lại Stalin và các đồng chí cấp cao của ông ta đã tàn nhẫn và giả dối ra sao trong các cuộc tranh giành quyền lực, họ trác táng, loạn bậy như thế nào trong đời tư ái dục. Bà cũng kể lại bà đã thoát nạn ra sao khi Alexander N. Pskrebyshev, được cho là quan chức mà Stalin tin tưởng nhất, đã không tuân thêo mệnh lệnh cuối cùng của Stalin là ném bà vào chuồng sói.
Cả Karl Marx và Friedrich Engels đều cực kỳ lạnh lùng đối với sinh mạng, kể cả trong tình huống hàng triệu người bị mất mạng. Engles đã viết trong cuốn Cuộc đấu tranh của Magyar (The Magyar Struggle): “Chiến tranh thế giới tiếp theo sẽ không chỉ khiến các giai cấp phản động và những triều đại phản động, mà là toàn bộ những phần tử phản động biến mất khỏi bề mặt trái đất này. Đó cũng là một sự tiến bộ”.
Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo cộng sản có ảnh hưởng nhất ở Trung Quốc, được tung hô là “vị cứu tinh vĩ đại” của nhân dân, thực ra tay đã vấy máu của hàng chục triệu người. Ông ta tàn nhẫn cả với các đồng chí, với thường dân, và cả với người thân của chính ông ta.
Dương Khai Tuệ, vợ hai của Mao, đã bị Quốc dân Đảng (KMT) bắt giữ sau khi Mao và Hồng quân của ông ta tấn công Trường Sa. Bà đã bị xử tử ở tuổi 29 sau khi từ chối tố cáo Mao, bỏ lại ba đứa con thơ.
Căn cứ theo nhiều tài liệu lịch sử, Mao đã có nhiều cơ hội để cứu bà bằng cách đưa bà và ba người con tới nơi an toàn trước vụ tấn công. Nhưng lúc đó, ông ta đang qua lại với một phụ nữ trẻ đẹp khác là Hạ Tử Trân. Người ta tin rằng Mao không đoái hoài gì đến sự an nguy của Dương và ba đứa con vì ông ta không muốn họ phiền nhiễu tới mối quan hệ của ông ta với vợ mới.
Mười năm sau đó, lịch sử lại lặp lại khi Mao ruồng bỏ người vợ thứ ba, Hạ Tử Trân. Có tin cho hay bà được đưa sang Liên Xô để điều trị bệnh tâm thần. Mao lại kết hôn với người vợ thứ tư, Giang Thanh, một nhân vật rất có quyền lực trong Cách mạng Văn hóa nhưng đã bị hạ bệ sau cái chết của Mao. Bà ta bị đưa ra xét xử và tống giam, sau đó đã tự sát vào năm 1991 khi được bảo lãnh tại ngoại để điều trị bệnh. Theo thư ký riêng của Mao, Lý Duệ, thì Giang đã gọi Mao là “tên lưu manh trong cả chính trị lẫn đời tư”.
Chu Ân Lai, cánh tay phải của Mao và là thủ tướng Trung Quốc từ năm 1954 cho tới khi qua đời vào năm 1976, được nhiều người Trung Quốc coi là một “thủ tướng tốt” bởi sự liêm chính và tư cách đạo đức cao thượng. Tuy nhiên, khi những việc ông ta đã làm sau hậu trường đã bị phơi bày, đặc biệt là trong cuộc Cách mạng Văn hóa, dân chúng đã hoàn toàn mất niềm tin: Chu phải chịu trách nhiệm về việc bức hại và cả cái chết của một số quan chức kỳ cựu nhất của ĐCSTQ, cũng như những người thân cận với ông ta, để bảo vệ địa vị của bản thân.
Lầy bà Tôn Duy Thế làm ví dụ. Bà Tôn là con gái của một đảng viên kỳ cựu, bấy giờ giữ một chức vụ cấp cao trong chính quyền trung ương và là bạn thân của Chu Ân Lai. Cha bà Tôn bị bắt và xử tử vào tháng 4 năm 1927, khi bà mới lên năm. Sau đó, bà được Chu Ân Lai nhận làm con nuôi, và được đi học ở Liên Xô. Bà đã trở thành một họa sỹ có tài năng kiệt xuất. Vợ của Mao, Giang Thanh, được cho là đố kỵ với tài năng của bà, đã tiến hành bức hại bà Tôn. Để bảo vệ bản thân, Chu đã ký lệnh bắt giữ bà Tôn. Bà đã bị ngược đãi và đánh đập tàn bạo, và đã qua đời sau đó vài tháng. Khi qua đời, thi thể của bà đầy những vết bầm tím, chân tay bị xiềng xích, đỉnh đầu bị đóng một cái đinh.
Như vậy, cũng không có gì ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo cộng sản “vĩ đại” đối xử với những người đồng chí và thân nhân tàn nhẫn, máu lạnh như thế. Đối với họ và nhiều người khác nữa trong chế độ này, “Đảng tính” đã vượt trên cả “nhân tính”.
ĐCSTQ vẫn lừa dối thế giới ngày nay
Sau khi ĐCSLX sụp đổ, cựu thủ tướng Liên Xô Nikolai Ryzhkov từng nói về các quan chức Liên Xô như sau: “Chúng ta đánh cắp đi những gì được giao phó để chúng ta chăm lo, biếu tặng và nhận hối lộ… trong khi tự huyễn hoặc bản thân trong những lời dối trá của chính mình, chúng ta đã cài huân chương lên ngực cho nhau. Ai cũng làm vậy, từ cao xuống thấp và từ thấp lên cao.”
Khi các quốc gia phương Tây thức tỉnh trước luồng dối trá bất tận của ĐCSTQ thì một liên minh đang hình thành để truy cứu trách nhiệm của ĐCSTQ vì những tổn thất quá lớn về nhân mạng cùng sự tàn phá thê thảm về kinh tế và xã hội. Liên minh này gồm các quốc gia là nạn nhân của đại dịch kinh hoàng do ĐCSTQ cố tình che đậy sự bùng phát virus và các chiến dịch tung tin giả sau đó.
Luật An ninh Quốc gia Hông Kông của ĐCSTQ lại càng là lý do để hình thành một liên minh như vậy, khi ngày càng có nhiều nước nhận ra nguyên tắc căn bản về tự do, hòa bình, công lý, nhân quyền và pháp quyền sẽ không tồn tại trong chương trình nghị sự của ĐCSTQ.
Bài viết có liên quan bằng tiếng Trung: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/6/20/407880.html
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/6/20/407787.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2020/7/26/186042.html
Đăng ngày 07-08-2020; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.