Bài viết của một phóng viên Minh Huệ
[MINH HUỆ 11-05-2020] Adolf Hitler và tổ chức Quốc xã của y thường được coi là thế lực đồi bại nhất chống lại nhân loại trong thế kỷ 20. Chúng phải chịu trách nhiệm cho tội ác diệt chủng 6 triệu người Do Thái và hàng triệu nạn nhân khác bằng các phòng khí ga, xả súng, trại tập trung và chết đói.
Timothy Snyder, nhà sử học, cũng là tác giả của cuốn sách Vùng đất máu: Châu Âu từ Hitler tới Stalin (Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin) đã phát hiện ra rằng từ năm 1933 tới năm 1945, Joseph Stalin của Liên Xô và Adolf Hitler của Đức Quốc Xã đã sát hại khoảng 14 triệu người vô tội, mà hầu hết các vụ sát hại diễn ra bên ngoài trại tập trung người Do Thái.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng đã gây ra cái chết của không biết bao nhiêu người kể từ khi nó lên nắm quyền cách đây mấy thập kỷ. Chẳng hạn, riêng nạn đói lớn (1959-1961) đã dẫn tới cái chết của 45 triệu người.
Khi nhân loại hứng chịu hết thảm kịch này đến thảm kịch khác, chúng ta ngẫm xem tại sao những thảm kịch nhân tạo như vậy lại có thể lặp đi lặp lại. Jay Nordlinger, biên tập viên kỳ cựu của National Review, đã nói bóng gió về những nhân tố góp phần gây ra những thảm họa này trong một bài báo tháng 3 năm 2016: “Việc ngại đưa tin về những tội ác ở Trung Quốc của những tờ báo lớn và mạng lưới truyền hình là điều đáng buồn” (“The reluctance of major newspapers and TV networks to report on atrocities in China is a sad subject”).
Khi con người nhắm mắt làm ngơ trước sự tàn bạo và giết chóc thì càng có nhiều nạn nhân phải chịu dựng. Vì ĐCSTQ che đậy dịch virus corona bùng phát mà khiến hơn 10 triệu người nhiễm bệnh và hơn 500.000 người chết trên khắp thế giới, đã đến lúc phải rút ra bài học lịch sử và thức tỉnh trước sự độc hại của ĐCSTQ để giảm bớt thiệt hại.
Hitler và Stalin
Cuốn sách Vùng đất máu của Snyder, đã lật lại cách nhìn nhận giản lược về Chiến tranh Thế giới II là “Đức Quốc Xã xấu, Liên Xô tốt”. Cho dù xung đột về mục tiêu, nhưng cả Hitler và Stalin đều đã tiến hành thảm sát hàng loạt ở Trung Âu và Đông Âu, khu vực mà Synder gọi là “Vùng đất máu”. Những cái chết không liên quan tới chiến tranh ở khu vực đó từ năm 1933 tới năm 1945 lên tới 14 triệu người.
Ông viết trong cuốn sách: “Hitler và Stalin vì thế có chung một nền chính trị chuyên chế nhất định: họ gây ra tai họa, đổ lỗi cho kẻ thù vì sự lựa chọn của họ và dùng cái chết của hàng triệu người làm cái cớ để chứng minh rằng chính sách của họ là cần thiết hoặc được mong muốn. Bọn họ đều có một xã hội không tưởng có tác dụng thay đổi hiện tại, có một nhóm để đổ lỗi khi việc xây dựng xã hội đó bất thành, rồi lại tuyên bố chính sách giết chóc hàng loạt như một loại thế phẩm cho thắng lợi.”
Cụ thể hơn, trong số nạn nhân đó có 3,3 triệu người chết trong các nạn đói ở Liên Xô, 300.000 người trong cuộc khủng bố trên toàn quốc của Liên Xô (700.000 người nếu tính ở các khu vực ngoài “Vùng đất máu”), 4,2 triệu người trong Kế hoạch Xóa đói của Đức ở Liên Xô, và 5,4 triệu người Do Thái ở các trại tập trung (5,7 triệu người nếu tính cả các khu vực bên ngoài vùng đất máu).
Một ví dụ về sự tàn bạo của Liên Xô là hệ thống trại cưỡng bức lao động tàn bạo như được mô tả trong Quần đảo Gulag: Một thử nghiệm trong tác phẩm văn học điều tra, một cuốn sách của Aleksandr Solzhenitsyn xuất bản năm 1973. Hệ thống này, mặc dù gắn với Stalin, nhưng Solzhenitsyn phát hiện ra rằng nó bắt đầu từ thời Lenin. Bởi vậy, ông coi Gulag là một lỗi mang tính hệ thống trong văn hóa chính trị của Liên Xô và là hậu quả tất yếu của các cuộc vận động chính trị Bolshevik.
Tình huống ở Trung Quốc
Stalin từng tuyên bố: “Mỗi cái chết là một thảm kịch, nhưng một triệu cái chết chỉ là một con số thống kê.” Lối tư duy này thậm chí còn được đẩy mạnh hơn nữa ở Trung Quốc cộng sản.
Song song với cuộc vận động Chống Cánh hữu trong lĩnh vực tư tưởng (1957-1959), Mao Trạch Đông còn phát động chiến dịch Đại Nhảy vọt vào năm 1958 với mục đích tăng sản lượng ngũ cốc và sắt thép, lấy đó làm chỉ số chính để đánh giá tình hình phát triển kinh tế. Sản lượng thép năm đó được dự kiến tăng gấp đôi tại các cuộc họp của Bộ Chính trị vào tháng 8 năm 1958. Để đạt được mục tiêu này, lò luyện thép được dựng lên khắp nơi ở Trung Quốc, nông cụ và đồ dùng nhà bếp được coi như quặng sắt.
Ở nông thôn, năng suất cây trồng được thổi phồng tới hàng chục, hàng trăm lần so với khả năng thực tế có thể đạt được. Dựa trên sự phóng đại thái quá, nông dân bị ép nộp lượng ngũ cốc lớn cho chính quyền nên không còn lại gì cho bản thân, kết quả dẫn đến tình trạng chết đói trên diện rộng. Vào tháng 3 năm 1959, ĐCSTQ và Quốc vụ viện ban hành chính sách cấm người dân rời nơi sinh sống để tìm đồ ăn. Bất kỳ người nào vi phạm đều bị xử phạt nghiêm khắc.
“Một báo cáo ngày 30 tháng 11 năm 1960, và được truyền đi trong các lãnh đạo hàng đầu — trong đó hẳn có cả Mao — nói về một người đàn ông tên Wang Ziyou đã bị cắt một tai, hai chân bị trói bằng dây sắt và bị 10 cân đá rơi vào lưng, rồi bị gí thanh sắt nóng đỏ. Tội của anh ta là: đào trộm một củ khoai tây”, ông Frank Dikötter, một giáo sư tại Đại học Hồng Kông, viết trong một bài báo có tiêu đề “Cuộc Đại Nhảy vọt của Mao” đăng trên New York Times vào tháng 12 năm 2010.
Ông Dikötter đã có mấy năm ở Trung Quốc, từ 2005 đến 2009, và đã khảo sát hàng trăm tài liệu. Một trường hợp khác mà ông đã đọc là một cậu bé lấy trộm một nắm ngũ cốc ở một làng của tỉnh Hồ Nam. Một quan chức địa phương tên là Xiong Dechang đã ép cha của cậu bé phải chôn sống cậu. Người cha đã qua đời vì quá đau buồn ba tuần sau đó.
Mao lớn lên ở khu vực nông thôn và biết rõ diện tích đất bao nhiêu thì cho sản lượng là bao nhiêu. Trong một cuộc họp bí mật tại Thượng Hải vào tháng 3 năm 1959, khi có những lo ngại rằng việc trưng thu quá mức có thể dẫn tới nạn đói, nhưng Mao đã bác bỏ điều này. Trong biên bản cuộc họp có ghi lại những lời phát biểu của Mao: “Khi không đủ ăn, người ta sẽ chết đói. Thà cho một nửa số người chết để khẩu phần của họ cho nửa còn lại ăn còn hơn.”
Như miêu tả trong cuốn Nạn đói Lớn của Mao, ông Dikötter ước tính có ít nhất 45 triệu người đã chết bất thường từ năm 1959 tới năm 1961.
Thảm kịch tiếp diễn
Người ta có thể tranh luận rằng Đại Nhảy vọt xảy ra mấy thập kỷ trước đã đi vào lịch sử. Nhưng sự độc hại của ĐCSTQ vẫn tiếp diễn tới ngày nay.
Cách xử lý sự bùng phát dịch virus corona của ĐCSTQ là một ví dụ. Theo thông tin mà trang Minh Huệ (Minghui.org) nhận được, Sở Công an tỉnh Hồ Bắc đã ban hành hai công văn vào ngày 21 và 22 tháng 2 với tiêu đề “Báo cáo thường nhật về phòng chống và kiểm soát dịch bệnh”, chỉ ra rằng ưu tiên hàng đầu của cảnh sát là duy trì ổn định xã hội bằng chiến dịch kiểm duyệt và bóp méo thông tin.
Ví dụ, báo cáo ngày 22 tháng 2 có nêu “3.295 tin nhắn [trực tuyến] về các chủ đề nhạy cảm đã bị chặn, trên 200.000 tin nhắn mang nội dung tích cực được đăng, 637 tin đồn được điều tra, và 628 cá nhân bị kỷ luật”.
Các báo cáo cũng liệt kê các hành động cụ thể, chủ yếu là kiểm duyệt, giám sát và các biện pháp an ninh khác với mục đích đàn áp ý kiến hoặc hành động không nhất quán với đường lối của ĐCSTQ. Mặt khác, các báo này không đề cập gì tới việc chăm sóc người bị nhốt trong nhà và người cần trợ giúp ra sao.
Cũng giống như Stalin và những kẻ theo chân ông ta, ĐCSTQ không chỉ làm ngơ trước mạng sống của nhân dân mà còn thẳng thừng công kích các quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia chỉ trích nó vì che đậy sự bùng phát virus corona.
Một bài xã luận trên tờ Hoàn Cầu tuyên bố Trung Quốc cần tăng số lượng đầu đạn hạt nhân lên 1.000 để chống chọi với những mối đe dọa từ Hoa Kỳ. Tổng biên tập Hồ Tích Tiến kêu gọi ĐCSTQ phải có ít nhất 100 tên lửa chiến lược DF-41 trong kho vũ khí hạt nhân. Với tầm hoạt động xa nhất trên thế giới, từ 12.000 tới 15.000km, loại tên lửa này có thể chạm tới lục địa Hoa Kỳ.
Mối đe dọa này có thể là có thật. Chu Thành Hổ, một thiếu tướng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) kiêm giảng viên của Viện Phòng thủ thuộc Đại học Quốc phòng Trung Quốc đã phát biểu với tờ The Wall Street Journal vào năm 2005 rằng: “Nếu người Mỹ bắn tên lửa và hỏa tiễn tầm không nhắm vào các khu vực mục tiêu trên lãnh thổ Trung Quốc, tôi cho rằng chúng tôi sẽ đáp trả bằng vũ khí hạt nhân. Chúng tôi sẽ chuẩn bị cho tình huống toàn bộ các thành phố phía Đông Tây An [một thành phố ở khu vực trung tâm của Trung Quốc] bị hủy diệt. Tất nhiên, người Mỹ sẽ phải chuẩn bị cho tình huống hàng trăm… thành phố sẽ bị người Trung Quốc hủy diệt”.
Mặc dù gây sốc nhưng những lời này hay lối tư duy như vậy không phải là bất ngờ, nếu xét đến lịch sử tàn bạo từ Liên Xô cho tới ĐCSTQ như đã đề cập bên trên.
Làm sao để ngăn chặn thảm kịch tái diễn?
Tại sao trước đây, thế giới không can thiệp vào vụ thảm sát người Do Thái và những thảm kịch do chủ nghĩa cộng sản gây ra. Có nhiều nguyên nhân, trong đó, một nguyên nhân chủ yếu là vì họ không tin.
Năm 1943, nhà ngoại giao Ba Lan Jan Karski đã gặp thẩm phán Felix Frankfurter của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ và kể cho ông nghe chi tiết về sự kinh hoàng của cuộc thảm sát người Do Thái. Đặc biệt, Karski đã tận mắt chứng kiến những tội ác của Đức Quốc xã tại một khu ổ chuột ở Warsaw và trạm trung chuyển của Đức Quốc xã ở Ba Lan. Song, thẩm phán Frankfurter đã đáp lại: “Tôi không tin ông”.
Đại sứ Ba Lan tại Hoa Kỳ, Jan Ciechanowski, cũng có mặt tại cuộc họp. Ông giải thích rằng Karski đang nói sự thật nhưng Frankfurter, cũng là một người Do Thái đã đáp lời rằng: “Tôi không nói là ông ta đang nói dối; Tôi nói là tôi không tin ông ta.”
Thảm kịch ở Liên Xô cũng diễn ra tương tự. Walter Duranty, Chánh văn phòng New York Times tại Moscow (1922–1936), đã đoạt giải thưởng Pulitzer vì loạt bài báo về Liên Xô, mà hầu hết đều rất tích cực.
Gareth Jones, một nhà báo trẻ của Vương quốc Anh, đã sang thăm Liên Xô và ra một thông cáo báo chí khi trở về, trong đó thuật lại những gì đang thực sự diễn ra tại đây. Duranty đã viết một số bài báo lăng mạ Jones và phủ nhận nạn đói. Nhiều năm sau đó, khi sự thật được phơi bày, đã có nhiều lời kêu gọi thu hồi lại giải thưởng Pulitzer của ông ta. Năm 1990, New York Times, tờ báo đã gửi những bài báo của ông ta đi tranh giải thưởng này hồi năm 1932, đã viết rằng những bài báo phủ nhận nạn đói sau này của Duranty là “một số trong những bản tin tệ hại nhất xuất hiện trên tờ báo này.”
Một nguyên nhân nữa khiến những thảm họa này tiếp tục tồn tại là sự che đậy có chủ đích. Chuyến thăm của cựu Thủ tướng Pháp Édouard Herriot tới Kiev vào tháng 8 năm 1933 là một ví dụ được ghi lại trong cuốn Vùng đất máu của Snyder: “Một ngày trước khi Herriot tới thăm thành phố này, Kiev đã bị đóng cửa và dân chúng được lệnh lau dọn và trang trí [thành phố]. Cửa sổ của các cửa hàng, vốn trống không suốt năm, bỗng nhiên lại bày đầy thức ăn. Số đồ ăn này chỉ để trưng bày chứ không bán, chỉ để một người ngoại quốc xem… Bất kỳ ai sống hay làm việc trên tuyến đường Herriot dự định đi qua đều bị buộc phải tham dự một buổi diễn tập cho chuyến viếng thăm này, để chỉ cho họ biết phải đứng ở đâu và phải mặc trang phục gì.”
Chuyến viếng thăm này bao gồm một làng trẻ ở Kharkiv. Snyder viết: “Lúc đó, trẻ em vẫn đang chết đói ở khu vực Kharkiv. Những đứa trẻ mà ông ấy gặp đều được chọn trong những cháu nhỏ khỏe mạnh, bụ bẫm nhất. Trang phục mà các em mặc đều được cho mượn vào sáng hôm đó… Các học sinh ăn gì vào bữa trưa? Vị khách người Pháp hỏi, hoàn toàn không có ý mỉa mai. Bọn nhỏ đã được chuẩn bị cho câu hỏi này, và đã đưa ra câu trả lời phù hợp.”
Sau khi trở về, ông Herriot đã phát biểu trước công chúng rằng các trang trại tập trung của Ukraine Xô-viết là những khu vườn ngăn nắp. Tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Liên Xô, Pravda, đã nhanh chóng đưa tin về những nhận xét này của ông Herroit.
Một tình huống tương tự cũng đang diễn ra ở Trung Quốc, nơi cuộc bức hại hàng chục triệu học viên Pháp Luân Công đại diện cho một trong những tội ác nhân quyền lớn nhất trong lịch sử hiện đại.
Ông Thiệu Thừa Lạc, môt bác sỹ ở tỉnh Quảng Đông, đã bị kết án bảy năm tù giam và chịu hơn 150 hình thức tra tấn vì không từ bỏ tu luyện Pháp Luân Công. Cả Solzhenitsyn và Snyder đều đã ghi lại nhiều kiểu tra tấn được sử dụng trong các trại tập trung của Liên Xô như lao động cưỡng bức, biệt giam, bỏ đói và nhiều hình thức khác. Tất cả những hình thức tra tấn này và nhiều hơn thế nữa hiện đang được sử dụng ở Trung Quốc, nơi các học viên Pháp Luân Công bị giam giữ, bị cấm ngủ, không được sử dụng nhà vệ sinh, bỏ mặc ở ngoài trời trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày tới khi cháy nắng hoặc rét cóng. Các học viên khỏe mạnh bị giam ở các bệnh viện tâm thần và bị tiêm các loại thuốc hủy hoại thần kinh.
Sau khi nạn cưỡng bức thu hoạch nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công tại Tô Gia Đồn ở tỉnh Liêu Ninh bị phơi bày, một số người không tin. “Và tôi nhớ lại điều mà Robert Conquest, nhà phân tích tài ba về chế độ độc tài, từng kể với tôi: Thế gới này hiếm khi muốn tin nhân chứng. Có lẽ cần 10, 20 hay 30 năm nữa, nhưng thường không sớm hơn”, Jay Nordlinger, biên tập viên kỳ cựu của tờ National Review viết trong một bài báo tháng 3 năm 2006 với nhan đề “Một nơi được gọi là Tô Gia Đồn” (A Place Called Sujiatun).
Khi dẫn chứng từ những bài học lịch sử của Liên Xô, Cộng sản Trung Quốc , Cuba, v.v., ông nói rằng những thảm kịch như vậy thường bị bỏ ngỏ. Ông viết: “Hy vọng chủ yếu của tôi hiện giờ là độc giả sẽ lướt qua những báo cáo mà tôi đã đề cập đến. Bởi vì, đôi khi, những điều không thể tưởng tượng được cũng cần được suy ngẫm, dù chỉ một chút thôi”.
Bài viết có liên quan bằng tiếng Trung:
https://www.minghui.org/mh/articles/2020/5/21/406612.html
Bản tiếng Trung: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/5/11/405565.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2020/7/3/185733.html
Đăng ngày 10-07-2020; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.