Trí Chân chỉnh lý

[MINH HUỆ 5-1-2010] Cổ nhân cho rằng, vận mệnh và họa phúc của con người đều có nguyên nhân, tất cả đều là kết quả những việc làm của bản thân, đều không thoát khỏi sự an bài của Thiên Thượng. Song Đạo Trời phù hộ Thiện, thường chiếu cố người lương thiện, khiến cho việc làm được tốt đẹp như có Thần trợ giúp. Từ xưa tới nay những thí dụ về tích Đức đổi vận mệnh thì nhiều không kể xiết, dưới đây là một câu chuyện xưa kể về Triệu Hùng người Nam Tống làm việc thiện và được báo ứng.

Triệu Hùng từ lúc sinh ra đã chất phác phúc hậu, nhưng không được thông minh lanh lợi. Cha mẹ ông cho rằng người như ông chắc chỉ biết một ít chữ nghĩa mà thôi. Đối với những điển cố mà các vị tiên sinh giảng nói, Triệu Hùng không nhớ bao nhiêu, chỉ nhớ rõ ràng một câu chuyện thôi: Chuyện kể rằng Vương Tằng có một người cha cả đời rất kính trọng con chữ, thường xuyên tích Đức làm việc thiện, một ngày nằm mộng thấy Khổng Tử nói với ông: “Ông cả đời kính trọng con chữ, tích đức làm việc thiện, âm đức to lớn, nay ban cho ông một đứa quý tử”. Quả nhiên chẳng bao lâu sau sinh ra Vương Tằng, lớn lên thi đỗ Tam Nguyên (đỗ đầu 3 kỳ thi liên tiếp trong chế độ khoa cử thời xưa). Triệu Hùng nghĩ thầm: “Mình cả đời ngu dốt, hơn nữa cha mẹ mình cũng không quý trọng con chữ, không làm việc thiện tích Đức. Từ nay về sau mình nhất định cần phải làm nhiều việc thiện”. Quả nhiên thiện niệm thành kính sẽ có báo ứng, văn chương của ông càng lúc càng hay, hoàn toàn khác hẳn trước kia. Một ngày, Triệu Hùng muốn tới Lâm An thi cử, xung quanh có người cười nhạo, ông cũng không tranh luận gì.

Trên đường đi thi, một ngày nọ ông gặp trong rừng một bộ hài cốt nằm phơi trên mặt đất. Ông nghĩ đến chuyện Văn Vương thời Tây Chu gặp bộ xương khô liền mai táng. Thế là gọi người hầu mượn một cái cuốc, 2 người chủ tớ chôn cất bộ hài cốt ấy. Sau khi thi xong, lúc yết bảng, Triệu Hùng đỗ cử nhân. Đến lúc thi Hội, thí sinh khắp cả nước ùn ùn kéo đến, Triệu Hùng nghĩ: “Trình độ của mình như thế đỗ cử nhân đã là may rồi, tham gia thi Hội làm gì?”. Không muốn tới trường thi, nhờ có người hầu một lòng khuyến khích mới miễn cưỡng đi thi. Đang trong lúc thi, bất ngờ người thí sinh ở sát vách đột nhiên phát bệnh, không ngừng kêu lớn, nhưng chỉ có Triệu Hùng vội vàng tới trấn an và chăm sóc. Xong rồi vội vã trở về làm bài, không ngờ vị quan giám khảo lại cho rằng bài thi rất có phong thái, vào ngày yết bảng thì kết quả đỗ khá cao. Vào ngày thi Đình, Triệu Hùng tự nhiên nhớ lại mấy bài văn sách trước kia từng đọc, văn chương cũng tuôn trào lai láng, cuối cùng thi đỗ thứ 5. Tin tức truyền về tới quê nhà, cha mẹ và đồng hương đều giật mình, mọi người bàn luận với nhau, bảo rằng: “Xem ra văn chương của Triệu Hùng vốn là hay, chúng ta đều không nhận thấy. Ngày hôm nay đến đất kinh thành mới gặp người nhận ra tài năng đó”. Mọi người đều biết quan coi thi đều tuyển chọn người làm bài tốt, nhưng chẳng biết âm thầm đã có Thần linh quyết định, đó đều là do vận mệnh và Đức hạnh của người thí sinh mà ra.

Triệu Hùng đầu tiên nhậm chức Huyện úy, sau này thăng lên tới Thái thú Tây Thục. Biết quan tước của mình đều là từ Đức mà có được, ông chẳng hề dám làm một việc xấu ác nào, mà khiêm tốn xin người tài giỏi chỉ dạy, chọn dùng người hiền tài, không ăn hối lộ, dẫn người đi xây dựng đê điều, khiến cho trăm họ được an vui. Ông ở quận Thục 5 năm, làm không biết bao nhiêu việc tốt cho trăm họ. Khi đó Hoàng đế Hiếu Tông trị vì rất nghiêm khắc, Tây Thục cách kinh thành không xa, muốn gọi Triệu Hùng tới gặp. Hiếu Tông trọng người có đức có tài, nhưng bất kể là người nhờ khoa cử hay nhờ Đức hạnh mà được tiến cử, Hiếu Tông đều muốn thử tài đối đáp, hoặc là hỏi chuyện Thánh hiền, hoặc hỏi những sự việc về học vấn từ cổ chí kim, nếu trả lời được mới cho nhậm chức. Thời đó có một người tài hoa nổi tiếng tên là Chân Long Hữu được người ta tiến cử. Hiếu Tông cho gọi vào, hỏi: “Khanh tên là Long Hữu, có nghĩa như thế nào?”. Chân Long Hữu ngày thường thông minh hơn người, rất giỏi ăn nói, văn chương lai láng, nhưng lúc ấy tại điện Kim Loan không đáp được một câu nào. Hiếu Tông thấy ông ta không nói nửa lời, đành phải hỏi lại: “Khanh tên Long Hữu, chắc chắn là có ý nghĩa riêng, có thể trình bày ra”. Chân Long Hữu làm thế nào cũng nghĩ không ra, cổ họng dường như cũng tắc nghẹn không nói được nên lời. Hiếu Tông hỏi cả 2 lần đều không hề thấy trả lời. Quan hầu 2 bên đồng loạt thúc giục, Chân Long Hữu vẫn không nói được. Hiếu Tông thấy một câu cũng không đáp nổi, bèn lệnh cho quan hầu đưa ông ta ra ngoài cửa. Vừa mới bước ra khỏi cửa, Chân Long Hữu lập tức bừng tỉnh nghĩ ra ngay, miệng cũng không tắc nữa, chán nản hối hận nói: “Thần mong bệ hạ làm một vị minh quân như Nghiêu Thuấn, thần sẽ được cùng Quỳ, Long làm bạn hữu” (Quỳ là một con vật theo truyền thuyết, hình dạng giống như con rồng, chỉ có một chân). Một câu như thế có gì khó đáp đâu? Thật khiến cho người ta xấu hổ”. Không thể không tin là do vận mệnh xui khiến.

Triệu Hùng nhậm chức mãn hạn về kinh đô, thấy chuyện Chân Long Hữu đối đáp không thành, nghĩ thầm: “Chân Long Hữu là người tài hoa bậc nhất, hỏi 1 đáp 10, vậy mà trước mặt Hoàng đế một tiếng cũng nói không nên lời, còn mình ít học kém tài, ăn nói lại không linh lợi, bây giờ làm sao trả lời đây?”. Mặc xong y phục chỉnh tề, thấy còn sớm quá, thế là nằm gục trên bàn ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ một vị Thần hạ xuống, trên người choàng long bào, dây lưng bằng bạch ngọc, eo mang ngọc ấn, còn có hai tùy tùng theo sau, Triệu Hùng vội vàng vái chào. Vị Thần xưng là Văn Xương Đế Quân, nói: “Thượng Đế thấy ngươi kính trọng chữ viết, làm việc thiện tích Đức, làm quan thương dân, từ bi với loài vật, ngày hôm nay đặc biệt phù hộ cho ngươi. Ngươi vào triều, Hoàng đế sẽ hỏi: “Khanh từ Hiệp Trung đến ư? Phong cảnh như thế nào?”, ngươi chỉ cần đáp: “lưỡng biên sơn mộc hợp,chung nhật tử quy đề” (Tạm dịch: Cây cối hai bên núi chụm lại, chim Cuốc kêu hót suốt ngày). Nói xong, cùng với 2 đồng tử cưỡi mây bay đi. Triệu Hùng bừng tỉnh, nhìn trời bái lạy, mơ hồ tưởng như là thật. Lúc vào triều, Triệu Hùng bái kiến, Hiếu Tông quả nhiên hỏi: “Khanh từ Hiệp Trung đến ư? Phong cảnh như thế nào?”. Triệu Hùng vội vàng đáp: “Lưỡng biên sơn mộc hợp,chung nhật tử quy đề”. Hiếu Tông nghe xong rất vui, gật đầu hài lòng mãi.

Sau đó, Hiếu Tông nói với Tể tướng Giang Ngọc Sơn: “Hôm qua Trưởng quận Thục tên là Triệu Hùng vào triều đối đáp, Trẫm hỏi xem Hiệp Trung phong cảnh như thế nào, ông ta tụng 2 câu thơ thể Đỗ mà đối, cảnh đẹp Tam Hiệp tựa như hiện ra trước mắt, có thể nói là giỏi ngôn từ thơ văn. Có thể cho nhậm chức quan Tự thừa, Tự bộ được”. Uông Ngọc Sơn ra khỏi triều đến nói với Triệu Hùng: “Ông đối 2 câu thơ Đỗ ấy thật là hay, thật sự là tài trí thông minh linh lợi”. Triệu Hùng thế là đem chuyện vì mình trân trọng dân chúng, tích Đức làm việc thiện khiến Văn Xương Đế Quân cảm động và phù hộ nói hết cả ra. Uông Ngọc Sơn nói: “Thì ra sự việc là như thế! Hôm nay Thánh thượng muốn cho ông làm quan Tự thừa, Tự bộ. Nếu ông làm chức quan ấy, thỉnh thoảng được triệu vào gặp Vua, nếu lại bị hỏi đối đáp, ông làm sao đối lại được. Hay là trở về quận Thục vậy”. Triệu Hùng đồng ý. Ngày hôm sau, Uông Ngọc Sơn vào triều tâu: “Thần hôm qua đã truyền lời của Hoàng thượng, ông ta không muốn ở lại triều đình”. Hiếu Tông nói: “Người này điềm đạm từ chối như thế, chắc chắn là người có khả năng. Có thể cho ông ta làm quan Tiết hiến sứ”. Thế là hạ lệnh phê chuẩn cho Triệu Hùng làm Tiết hiến sứ. Vài năm sau ông dần dần được thăng đến chức Tể tướng, Triệu Hùng vẫn nghĩ mình ít học kém tài, cứ liên tục từ chức Tể tướng. Hiếu Tông thấy thế càng không cho ông ta từ chức.

Một ngày, Triệu Hùng đang trên đường vào triều, gặp một vị Thái thú đang nói chuyện với các quan trông coi cửa thành. Các quan trông cửa thành hỏi vị Thái thú: “Ông làm sao lại mang cái họ kỳ quái như thế?”. Tức Thái thú đáp: “Thời Xuân Thu có người tên là Tức Quy, thời Hán có người tên là Tức Phu Cung, luôn luôn tồn tại họ Tức này, sao lại nói là kỳ quái?”. Triệu Hùng ngẫu nhiên nghe được, bèn ghi nhớ trong lòng. Khi Tức Thái thú vào triều sau đó, ngay lúc Triệu Hùng đang tấu trình chính sự. Hiếu Tông hỏi: “Vừa mới có một quan Thái thú họ Tức vào triều, trên đời sao lại có họ quái dị này?”. Triệu Hùng liền tâu: “Thời Xuân Thu có người tên là Tức Quy, thời Hán có người tên là Tức Phu Cung, họ này đã có từ xưa tới nay, cũng không quái dị”. Hiếu Tông rất vui vẻ, nói: “Khanh học vấn uyên bác như thế, thật đúng là “Phong làm Tể tướng cần phải chọn dùng người chuyên đọc sách”. Triệu Hùng bèn nói rõ chính mình cũng vừa mới nghe được, Hiếu Tông càng thích đức tính thành thật của ông. Từ đó về sau, những khi đối đáp, hoặc là có điều gì quan trọng, thì đều có những sự việc báo trước, không hề sai lệch. Triệu Hùng nhậm chức Tể tướng, thường xuyên nhắc nhở Hiếu Tông chớ quên chuyện nhục Tĩnh Khang và chuyện các phụ lão của Trung Nguyên bị chà đạp, chủ trương thu phục vùng đất Trung Nguyên, trọng dụng phái chủ chiến, bảo vệ trung thần. Ông đối xử khoan dung nhân hậu, rất hay tiến cử người tài đức, được người đời ngợi ca. Sau này lúc về già, từ quan rồi lâm chung, mọi người luôn cho rằng ông là người may mắn và hạnh phúc nhất thế gian.

Từ xưa tới nay những người hiểu rõ luật nhân quả, nhận thức được chân lý của mọi sự, luôn tin tưởng xem trọng hàng đầu Đức hạnh và việc Thiện, điều chỉnh cách hành xử của mình cho phù hợp với Đạo Trời. Vì thế cho nên, từ xưa tới nay việc người ta khuyên nhau làm việc thiện chẳng phải là không có nguyên nhân.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2010/1/5/215732.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2010/1/14/113899.html
Đăng ngày 03-02-2010; Bản dịch có thể được chỉnh sửa trong tương lai cho sát hơn với nguyên bản.

Share