Kính chào Sư phụ! Kính chào các đồng tu!
[MINH HUỆ 11-11-2009] Tôi là một học viên nam, bắt đầu tu luyện Đại Pháp vào tháng 10 năm 1998. Lúc đó, tôi mới 20 tuổi, vậy là đã 11 năm tôi được tu luyện bản thân và trợ Sư chính Pháp. Nhân Pháp hội Chia sẻ Trải nghiệm Tu luyện qua Internet lần thứ Sáu của các học viên ở Trung Quốc, tôi muốn chia sẻ những trải nghiệm, suy nghĩ và cảm xúc của tôi trong mấy năm qua.
Hạnh phúc nhờ tu luyện
Đầu tháng 10 năm 1998, tôi là sinh viên đại học năm đầu. Một hôm, tôi thấy mấy chục sinh viên và giảng viên tập khí công. Khi tôi lại gần thì nhận ra họ đang tập Pháp Luân Công. Tôi đã hỏi xin giảng viên phụ trách điểm luyện công một cuốn Chuyển Pháp Luân.
Tôi một mạch đọc được hơn nửa cuốn sách và xúc động sâu sắc khi các Pháp lý trong sách giải khai tất cả khúc mắc mà tôi đã gặp trong đời. Tôi biết mọi thứ giảng trong sách đều đúng, dù có một số Pháp lý tôi chưa hoàn toàn hiểu được. Vào đêm tôi nhận được cuốn sách, tôi đã cảm nhận được Sư phụ đang thanh lý mọi loại can nhiễu trong các không gian khác cho tôi cũng như những thứ bất hảo trên thân mình. Tôi mừng đến phát khóc. Tôi biết Sư phụ đã ban cho tôi một cuộc đời mới.
Sau đó, tôi học Pháp và tu luyện cùng các đồng tu trong khi duy trì cuộc sống thường nhật. Tôi luyện tập các bài công pháp hàng ngày và tham gia nhóm học Pháp vào ban đêm. Chúng tôi ngồi lại cùng nhau đọc Pháp và chia sẻ trải nghiệm. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc, đầy trải nghiệm. Vì có nhiều thời gian hơn nên tôi đã dành hai tiếng mỗi ngày để học Pháp. Tôi không sao đặt sách xuống được và luôn muốn đọc thêm. Khi đi bộ, tôi nghe Pháp bằng máy nghe nhạc nhỏ. Tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được từ bi hồng đại của Phật Pháp ban ân và thanh lý kiền tịnh mọi thứ xấu trên thân thể và tâm trí tôi. Lúc nào tôi cũng thấy cuộc sống tràn đầy niềm vui. [Tôi thầm nói với] Sư phụ, con đến đây để tu Đại Pháp, và cuộc đời con tồn tại là vì Pháp. Nếu không, cuộc sống của con chẳng có ý nghĩa gì.
Cuộc sống trong khuôn viên trường rất đơn giản và tôi đã cố gắng lấy Chân-Thiện-Nhẫn để làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Vì hiểu Pháp lý nên tôi không cảm thấy không vui ngay cả khi phải làm nhiều việc hơn những người khác. Các bạn cùng lớp thích tôi và biết tôi là một người tốt bụng. Họ hiểu rằng các học viên là những người tốt và luôn nghiêm khắc với bản thân.
Sau khi cuộc bức hại bắt đầu, có lần tại một cuộc họp, giáo sư của chúng tôi hỏi có sinh viên nào trong lớp tu luyện Pháp Luân Công không. Nhưng không ai chỉ tôi ra cả.
Ngày 20 tháng 7 năm 1999, khi cuộc bức hại bắt đầu, tôi đang nghỉ hè ở nhà. Tôi thấy tà ác công kích Đại Pháp trên truyền hình và cảm thấy rất buồn. Thứ nhảm nhí đó không đánh lừa được tôi, vì tôi biết Đại Pháp tốt đến thế nào. Tôi chỉ muốn tiếp tục học Pháp. Tôi lo lắng chẳng may bị tịch thu sách Đại Pháp ở trường nên muốn chép tay Chuyển Pháp Luân. Tôi đã mua một quyển sổ dày và bắt đầu chép. Chữ nào cũng ngay ngắn và sạch sẽ. Tôi đã dành nhiều ngày nhiều đêm để chép và đã có thể chép xong vào cuối hè.
Chép sách giúp tôi lĩnh hội Pháp lý sâu sắc hơn. Khi tôi đi học lại, đã không có nhóm luyện công nào để tham gia nữa. Tôi tận dụng lúc nghỉ trưa và tìm một phòng học trống để luyện các bài công pháp. Tôi kiên trì như thế mãi cho đến khi tốt nghiệp.
Đắc Pháp và có thể tu luyện là một ân điển vĩ đại trong cuộc đời tôi. Cơ duyên ấy mang lại cho người tu luyện niềm vui bất tận.
Vượt tốt các quan khảo nghiệm trong tu luyện
Vì tôi là học viên trẻ và độc thân nên khảo nghiệm sắc dục xuất hiện rất mạnh mẽ. Tôi từng cho rằng tìm một người bạn đời là việc bình thường vì tôi vẫn đang sống trong xã hội người thường. Tôi thậm chí đã tơ tưởng đắm mình trong sự lãng mạn.
Khi mới bước vào tu luyện, chấp trước sắc dục của tôi đã bị khảo nghiệm nhiều lần trong mơ, và rất khó kháng cự lại. Tôi đã không thể đối đãi với bản thân như một người tu luyện và tỉnh dậy trong sự hối tiếc. Tôi thầm nói với Sư phụ hết lần này đến lần khác rằng tôi phải tống khứ thứ dục vọng bẩn thỉu này, và nó không thuộc về tôi.
Sau đó, tôi liên tục học Pháp. Hễ đọc đến phần nói về quỷ sắc dục, tôi sẽ đọc đoạn đó thêm vài lần. Mỗi lần phát chính niệm, tôi đã thêm vào niệm “loại bỏ tâm sắc dục bẩn thỉu”. Tôi đã mấy lần thề trước ảnh Sư phụ rằng tôi phải vượt qua khảo nghiệm sắc dục này. Trong cuộc sống hàng ngày, tôi cũng luôn tự nhủ phải tôn trọng phụ nữ và bài trừ những tư tưởng xấu. Sau khi chật vật với những khảo nghiệm khó chịu ấy hết lần này đến lần khác, rồi hướng nội, chấp trước sắc dục ngày càng yếu đi. Tôi đã có thể vượt qua tốt hầu hết các khảo nghiệm.
Mấy năm nay, gia đình cứ thúc tôi tìm bạn gái và kết hôn. Mỗi lần tôi về nhà nghỉ lễ, tôi cứ đồng ý với họ qua loa vậy thôi. Giờ, tôi đã hơn 30 tuổi, gia đình còn ép tôi dữ hơn. Tôi thấy áp lực, nhưng không nghĩ mình cứ tìm đại ai đó được. Hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến việc loại bỏ hoàn toàn ham muốn sắc dục của tôi, tới việc giảng chân tướng và các mối duyên tiền định với tôi. Tôi nghĩ cứ mặc kệ, để thuận theo tự nhiên. Còn rất nhiều người đang chờ tôi cứu mà chẳng có đủ thời gian. Cuộc hôn nhân, nếu không hòa hợp, sẽ gây ra nhiều cản trở cho tu luyện của tôi và làm ba việc.
Vì thế, bề ngoài, tôi tỏ ra đồng thuận với sự hối thúc của gia đình nhưng đặt hết nỗ lực của mình vào làm ba việc mà các học viên cần làm. Khi không quản nữa thì thái độ của gia đình tôi cũng thay đổi. Tôi không còn cảm thấy đơn độc nữa, rồi áp lực đó cũng qua đi.
Ở nơi làm việc, cũng có nhiều khảo nghiệm. Tháng 5 năm 2007, tôi bắt đầu làm việc tại một công ty phần mềm khởi nghiệp. Kỹ năng công nghệ của tôi tốt hơn nhiều so với các đồng nghiệp của tôi. Một đồng nghiệp, vì cố gắng giữ thể diện nên đã tranh luận với tôi và còn lớn tiếng chỉ trích tôi, khiến tôi thấy bị mất mặt khi có các đồng nghiệp khác ở xung quanh. Cuối cùng, tôi giận dữ nói: “Tôi chẳng muốn dính dáng gì đến anh, tôi đi làm việc riêng của mình đây.” Tôi đã quên mình là người tu luyện và mâu thuẫn cứ lớn dần lên. Tôi thực sự đã nhận ra đây là khảo nghiệm của mình, nhưng khi cơn giận nổi lên, tôi lại mất kiểm soát.
Sau đó, tôi đã xem video của Sư Phụ: “Giảng Pháp cho các học viên Úc châu”. Mỗi lời giảng của Sư phụ đều khiến tôi chấn động, nhất là khi Sư phụ giảng về cách xử lý mối quan hệ giữa các học viên, tôi đã hướng nội và cảm thấy thực sự có lỗi. Sau đó, bất cứ khi nào tôi thảo luận việc gì với đồng nghiệp đó, tôi luôn hạ giọng và từ tốn hỏi anh ấy bằng giọng nhẹ nhàng. Khi anh ấy lớn tiếng chỉ trích tôi trước mặt người khác, tôi không còn tranh cãi với anh ấy nữa, ngay cả khi tôi đúng mà thay vì vậy, tôi ân cần giải thích mọi thứ rõ ràng. Một thời gian sau, anh ấy cảm thấy có lỗi vì đã lớn tiếng chỉ trích tôi và đã đón nhận lòng tốt của tôi. Mâu thuẫn đã được giải quyết và mối quan hệ giữa chúng tôi trở nên hài hòa.
Khi tôi khoảng 18 hoặc 19 tuổi, trước khi bắt đầu tu luyện Đại Pháp, tôi đã thụ nhận một số can nhiễu và bức hại của lạn quỷ ở các không gian khác và những người tu luyện tà pháp. Sau khi tôi tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã thanh lý chúng cho tôi. Về sau, hễ khi tôi không tinh tấn lắm là thường xuyên bị can nhiễu khi phát chính niệm hoặc luyện công. Trong đầu có tạp niệm và không thể tĩnh tâm được. Một thời gian sau, tà ác đã lợi dụng sơ hở này và bức hại tôi tệ hơn. Tà ác phát ra năng lượng xấu, thậm chí còn tác động đến những người xung quanh tôi. Lúc đó, tôi mới bắt đầu tập trung và phát chính niệm để loại bỏ những nhân tố tà ác này. Ngoài bốn lần phát chính niệm như thường lệ, tôi cũng phát thêm hai lần nữa, một lần là trên đường đi làm và một lần trong giờ giải lao tại nơi làm việc. Trong khi đi bộ, tôi cũng phát chính niệm để loại bỏ tà ác.
Tôi luyện công hai ngày một lần vào lúc 3 giờ 50 phút sáng và 9 giờ 50 phút tối, mỗi lần hai tiếng đồng hồ. Sau hơn một năm duy trì cường độ phát chính niệm và luyện công như thế, tà ác dần bị tiêu trừ. Từ khi tôi bắt đầu tu luyện Đại Pháp, Sư phụ đã luôn bảo hộ và điểm hóa cho tôi. Tôi không thể báo đáp ân cứu độ của Sư phụ trong kiếp nhân sinh này, tôi chỉ có thể làm ba việc cho tốt để xứng với ân cứu độ của Sư phụ. Trong 10 năm qua, nếu không có sự bảo hộ của Sư phụ, tôi đã không thể bước qua được quãng đường dài như thế. Sư phụ đã dẫn dắt tôi từng bước đi.
Tôi muốn nhắc đồng tu nào chưa chú ý phát chính niệm và khi phát chính niệm mà đầu óc không thanh tỉnh hay thường có tạp niệm, thì phải thanh tỉnh khi phát chính niệm. Những ai hoài nghi về hiệu quả của phát chính niệm cũng nên chú ý nhiều hơn, vì nó thực sự rất uy lực. Chính tôi đã trải nghiệm được rằng sách Đại Pháp, dù tự in hay mua, đều có uy lực to lớn. Năng lượng của tà ác có thể xuyên qua các vật chất khác nhưng sách Đại Pháp thì không. Sư phụ đã giảng rằng trong sách có nhiều tầng chư Phật, Đạo và Thần. Vì vậy, tôi muốn nhắc các đồng tu hãy tôn kính tất cả các sách Đại Pháp.
Tinh tấn sản xuất tài liệu giảng chân tướng và hỗ trợ kỹ thuật cho khu vực địa phương
Sau ngày 20 tháng 7 năm 1999, khi cuộc bức hại nổ ra, các học viên tại điểm luyện công chúng tôi hiếm khi liên lạc với các học viên khác. Có những lần, tôi nghe các học viên nói về trang web Minh Huệ và việc truy cập Internet bằng công nghệ proxy. Lúc rảnh, tôi ra quán cà phê có internet để tìm hiểu về công nghệ này. Sau đó, tôi đã có thể tải được hầu hết các tài liệu và các bài viết Sư phụ từ internet, rồi in ra, thuần thục như thể tôi là chuyên gia máy tính vậy.
Từ những lần đầu tiên sử dụng ba phần mềm để đột phá phong tỏa Internet để đọc trang web Minh Huệ, gửi email giảng chân tướng hàng loạt cho đến việc xây dựng các trang web về Pháp Luân Công, tôi đã tiến bộ rất nhiều. Hồi còn là sinh viên, tôi không có nhiều tiền, mà ra quán cà phê có Internet lại rất tốn kém. Người hướng dẫn điểm luyện công của chúng tôi một giáo viên. Sau khi cô mua một máy tính và nối mạng, tôi thường đến nhà cô để tải và in nhiều tài liệu. Có máy tính và máy in, các học viên ở địa phương chúng tôi đã có thể đọc các bài viết của Sư Phụ kịp thời và còn có thể in một số tài liệu giảng chân tướng để phân phát. Trong những năm này, các học viên địa phương đã xử lý được các vấn đề kỹ thuật của mình nhờ học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi đã mua máy tính, nối mạng Internet một cách an toàn, và in tài liệu và sao chép đĩa VCD.
Cuối năm 2002, tôi đã bắt đầu đi làm và có tiền để mua một máy tính xách tay. Tôi học cách làm các đĩa VCD giảng chân tướng. Sau khi học được công nghệ proxy, tôi đã tải các video từ trang web Minh Huệ về. Thấy bài viết nào hay thì tôi lưu lại. Tôi cũng thu thập thông tin về các trường hợp bị bức hại tại địa phương chúng tôi. Tôi biên soạn lại và làm file hình ảnh kèm theo. Tôi cũng lưu một phần mềm vượt tường lửa internet và một số cuốn sách điện tử và hình ảnh vào mỗi chiếc đĩa.
Mỗi đĩa chứa rất nhiều nội dung phong phú có sức mạnh đả khai mọi chướng ngại của người xem. Khi xem, nó sẽ giúp họ thay đổi thái độ và suy nghĩ. Tôi cũng phát triển một phần mềm nhỏ để có thể xem chiếc đĩa này trên máy tính hay đầu đĩa VCD đều được. Suốt sáu năm qua, tôi đã tạo ra bảy đến tám loại đĩa gốc phục vụ cho nỗ lực giảng chân tướng chúng tôi. Mỗi đĩa lại được chỉnh sửa liên tục cả chục lần để nội dung phong phú hơn. Việc tìm hiểu các công nghệ mới, thu thập tài liệu, biên tập, sản xuất và ghi đĩa tốn rất nhiều thời gian. Tôi thường làm việc rất khuya. Nhưng với niềm tin kiên định vào Đại Pháp và vì sự cấp bách của việc cứu độ chúng sinh, tôi đã đi trên con đường của mình một cách suôn sẻ.
Giảng chân tướng và cứu độ chúng sinh mọi lúc, mọi nơi
Từ năm 2000 đến 2003, máy tính rất đắt, mà tôi thì chẳng kham nổi một cái nên tôi đã giảng chân tướng bằng những cách rất thực dụng. Đêm giao thừa Tết Nguyên Đán, tôi thấy có nhiều gia đình treo câu đối năm mới xung quanh cửa nhà. Thế nên tôi đi mua giấy đỏ và viết một số câu đối mang thông điệp giảng chân tướng. Ban đêm, tôi đạp xe tới các ngôi làng và để câu đối vào các hòm thư trên đường cái. Vào ngày đầu năm mới, có nhiều người đi chợ và thấy các câu đối này.
Năm 2001, sau khi tốt nghiệp và bắt đầu đi làm, tôi thường xuyên đi công tác tới các thành phố khác. Tôi mua chiếc bút dạ và luôn mang theo bên mình. Hễ thấy cột điện, bốt điện thoại, tường công cộng hay tảng đá trong công viên, tôi liền viết các thông điệp giảng chân tướng lên. Chúng ta không thể trì hoãn hay phụ thuộc vào ai khác trong việc giảng chân tướng. Hễ xuất tâm giảng chân tướng thì chúng ta sẽ làm được và làm được tốt.
Giữa năm 2008, được một đồng tu hỗ trợ tài chính, chúng tôi đã mua một máy đóng dấu cảm quang và các vật liệu. Sau khi nghiên cứu, chúng tôi đã làm nhiều con dấu cảm quang và đưa cho các học viên. Mấy con dấu này có thể mang theo và có thể đóng lên tiền giấy rất nhanh. Cách này rất tiện lợi cho việc giảng chân tướng bằng tiền giấy.
Một số học viên rất vui khi có được những con dấu này và thấy những Pháp khí này rất thuận tiện, hiệu quả cho việc giảng chân tướng. Sau đó, tôi phát hiện ra các con dấu này không chỉ có thể đóng lên tiền giấy mà cả những chỗ khác nữa. Tôi đã làm ra mấy con dấu có phông chữ lớn hơn để có thể dùng trong những trường hợp khác.
Chúng ta hãy giảng chân tướng thật tốt mọi lúc, mọi nơi. Miễn là chúng ta hết lòng giảng chân tướng, Sư phụ sẽ cấp cho chúng ta trí huệ và môi trường để thực hiện.
Phát tặng hàng ngàn đĩa giảng chân tướng tại các trường đại học
Đầu năm 2002, tôi chuyển đến một thành phố nơi tôi không biết học viên nào ở đó, nên tôi đã tự mình lập điểm sản xuất tài liệu giảng chân tướng. Có tài chính tốt hơn, tôi đã mua một chiếc máy tính, máy ghi đĩa DVD, máy in laser và máy cắt giấy.
Vì máy tính và tivi rất phổ biến ở các thành phố nên tôi muốn sản xuất nhiều đĩa giảng chân tướng để phát. Năm 2003, tôi đến các tòa chung cư của giáo viên dạy các trường để phát đĩa. Tôi đi tới cửa hoặc đặt chúng vào hộp thư. Khi tôi đến thăm em gái, tôi đã để các tài liệu trước cửa mỗi nhà ở chung cư của cô ấy. Để tránh thu hút sự chú ý, tôi cầm mấy tờ báo và quảng cáo ở một bên tay, vờ như thể tôi đang phát quảng cáo. Những đêm trời mưa, tôi tự nhủ: đây là một cơ hội tốt để phân phát tài liệu giảng chân tướng. Tôi cầm ô lên, khoác ba lô trên lưng rồi ra ngoài. Vì không có nhiều người ra ngoài vào đêm mưa gió, và chiếc ô có thể giúp che các hộp thư nên tôi có thể dễ dàng đặt đĩa vào.
Tuy nhiên, an ninh trong các khu dân cư bị thắt chặt hơn nên những gương mặt lạ dễ bị chú ý. Vì thế, phân phát gì ở các khu dân cư này cũng không còn dễ nữa. Sau đó, tôi nghĩ đến việc phát đĩa tới mỗi lớp học, nếu các sinh viên nhận thì hiệu quả sẽ rất tốt. Tôi trông còn trẻ như sinh viên nên ra vào các lớp học cũng dễ.
Khu vực của chúng tôi có rất nhiều trường đại học, nhưng các trường cách xa nhau. Đi từ trường này sang trường khác phải mất hơn một giờ đi xe buýt. Tôi bắt đầu phát chính niệm để loại bỏ tà ác trước khi đến nơi. Khi đến trường đại học nào, đầu tiên tôi quan sát các tòa nhà và tìm các lớp học chung. Nhiều tòa nhà có nhân viên bảo vệ. Tôi thường để lại một, hai đĩa ở mỗi lớp. Hầu hết các phòng học đều có camera an ninh nên tốt hơn không nên tới nhiều phòng học trong thời gian ngắn. Nếu không, camera an ninh có thể ghi lại hoạt động bất thường. Tôi thường rời nhà sau 6 giờ sáng để tránh có nhiều học sinh trong lớp. Nếu thời điểm không thích hợp, tôi thường đợi đến giờ ăn trưa hoặc giờ ăn tối mới phát đĩa.
Trong sáu năm qua, tôi đã đi xe buýt từ trường này sang trường khác vào những ngày cuối tuần. Tôi không nhớ đã đến bao nhiêu tòa nhà hay lớp học. Đôi khi vào mùa đông, tôi lười, không muốn ra ngoài, tôi đã tự nhắc bản thân về những lời giảng của Sư phụ và nghĩ đến những chúng sinh đang chờ được cứu. Tôi đã hạ gục được tâm lười biếng và tiếp tục bước đi. Ở một trường, có nhiều tòa nhà cách xa nhau, nên tôi phải đi một quãng đường dài. Đôi khi thời tiết khắc nghiệt đã gây trở ngại. Tuy nhiên, khi đi dọc theo những con đường vắng và nghĩ đến những chiếc đĩa mà tôi đã phân phát và những chiếc đĩa trong túi của tôi, tôi lại lấy lại được tinh thần.
Khi những chiếc đĩa giảng chân tướng liên tục xuất hiện trong khuôn viên trường và phổ biến rộng rãi trong các sinh viên, tà ác bắt đầu sợ hãi. Có thời gian, nhân viên bảo vệ ở cổng trường đại học phải kiểm tra túi của mọi người và chứng minh thư của họ.
Một số tòa nhà còn lắp đặt máy ghi hình ở lối vào và có một nhân viên bảo vệ ngồi trực. Nhưng tôi vẫn ra vào như thường lệ và không để ý gì đến họ. Sau đó, họ đã khóa các phòng học lại nên việc phân phát đĩa trở nên khó khăn hơn.
Trong sáu năm qua, tôi đã làm ra hơn 5.000 đĩa. Với các sinh viên mới nhập học ở hơn 10 trường đại học mỗi năm, những chiếc đĩa này đã đến tay của hàng chục ngàn sinh viên.
Kết bài
Ý nghĩa và mục tiêu của cuộc sống của tôi chính là tu luyện Đại Pháp và trợ Sư chính Pháp và cứu độ chúng sinh. Qua 11 năm tu luyện cùng tiến trình chính Pháp, tôi đã bước đi con đường của mình và trải qua nhiều trắc trở. Có những nỗi đau, hối hận và cả những bài học được đúc kết. Sau này, tôi hy vọng có thể tiếp tục làm ba việc và cứu độ chúng sinh một cách trí huệ và vững chắc hơn. Có như vậy, tôi mới có thể nộp bài kiểm tra thi đậu lên Sư phụ và không cô phụ lòng từ bi hồng đại và ân cứu độ của Ngài.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2009/11/11/211838.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2009/11/30/112714.html
Đăng ngày 14-07-2019; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.