Bài viết của một đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc
[MINH HUỆ 09-11-2009] Kính chào Sư phụ! Kính chào các đồng tu!
Tôi bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp vào năm 2003. Trong sáu năm thăng trầm này, tôi đã trải qua những đau khổ tột cùng khi buông bỏ chấp trước, những lần tuyệt vọng vì lầm đường lạc lối mà không biết làm sao để quay về, những lần thở phào nhẹ nhõm khi thể nghiệm được những thay đổi về thể chất và tinh thần sau khi ngộ ra Pháp lý, những niềm vui vì những chúng sinh đã được cứu, và niềm hạnh phúc được đắm mình trong hồng ân của Đại Pháp. Xin cảm ơn trang web Minh Huệ đã cung cấp một môi trường thế này để chúng ta chia sẻ thể ngộ và trải nghiệm, cho tôi cơ hội thảo luận với các đồng tu trên khắp thế giới để tìm ra vấn đề của bản thân mà bắt kịp. Đây cũng là những gì tôi muốn báo cáo lên Sư phụ.
1. Bước vào tu luyện
Tháng 4 năm 2003, vì mắc một số bệnh kinh niên nên tôi đã bắt đầu tu luyện Pháp Luân Đại Pháp sau khi được các đồng tu giới thiệu.
Cầm cuốn sách quý Chuyển Pháp Luân trên tay, tôi bật khóc. Môn tu luyện này tuyệt vời đến vậy và đã được hồng truyền trên khắp thế giới hơn 11 năm qua! Sao bây giờ tôi mới biết!
Tôi thấy mình đắc Pháp quá muộn! Thấy các đồng tu lâu năm có tâm tính và thể ngộ về Pháp tốt như vậy, lại kiên định đến vậy trong tu luyện, tôi hết sức ngưỡng mộ.
Trong vòng ba tháng từ khi tôi đắc Pháp, tôi đã đọc tất cả những bài giảng của Sư phụ mà tôi có thể tìm được qua các học viên khác. Tôi háo hức đọc đến quên ăn quên ngủ. Sau khi đọc bài “Giảng Pháp trong chuyến đi quanh Bắc Mỹ” của Sư phụ, tôi nhận ra rằng mọi sinh mệnh đều đến vì Pháp và đã nhận ra mình có sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Tôi đắc Pháp sau ngày 20 tháng 7 năm 1999 (khi cuộc bức hại bắt đầu) nên tu luyện cá nhân của tôi, chứng thực Pháp và cứu chúng sinh đều hòa làm một. Sau khi ngộ ra điều này, tôi đã nghiêm khắc với bản thân trong tu luyện tâm tính. Nhờ được Sư phụ khai sáng, tôi đã vượt qua được các khảo nghiệm tâm tính. Mỗi lần gặp khảo nghiệm trong mơ, tôi đều nhớ mình là đệ tử Đại Pháp và có thể vượt qua)
Trước khi bước vào tu luyện, tôi có nhiều bệnh tật. Sau 15 ngày luyện Đại Pháp, tôi đã ngừng tất cả các loại thuốc đã uống suốt tám năm qua. Hai tháng sau đó, tất cả bệnh tật của tôi đã khỏi mà không cần dùng đến loại thuốc nào. Trong khi chứng thực Pháp, giảng chân tướng, và cứu độ chúng sinh, tôi đã kể cho mọi người nghe về trải nghiệm của bản thân trong quá trình khỏi bệnh cũng như đề cao tâm tính. Tôi đã chia sẻ với bạn bè, gia đình, đồng nghiệp và hàng xóm của tôi về vẻ đẹp và sự thần kỳ của Đại Pháp, cũng như chân tướng về cuộc bức hại nhắm vào Đại Pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và đạo lý “thiện hữu thiện báo, ác giả ác báo”.
Với mục đích cứu chúng sinh, khi giảng chân tướng, tôi thường rơi lệ vì thấy người thường lạc lối trong mê, tranh đấu vì danh, lợi, tình mà quên mất mục đích làm người. Nước mắt tôi thường lăn dài trên má, và tôi muốn nói cho tất cả mọi người trên thế giới rằng Đại Pháp đến là để cứu độ chúng ta; Sư phụ đến để đưa chúng ta về nhà! Hãy thức tỉnh! Đừng tin những dối trá của tà ác nữa. Có lần, khi giảng chân tướng cho một đồng nghiệp, tôi cảm nhận được sự từ bi vĩ đại của Sư phụ, nước mắt cứ lăn dài trên má. Đồng nghiệp của tôi cũng khóc với tôi, rồi nói: “Vì Đại Pháp quá tốt, chị hãy mang sách đến cho tôi đọc nhé!” Bạn bè và họ hàng của tôi đã chứng kiến những thay đổi to lớn ở tôi cả về tinh thần lẫn thể chất. Sáu người đã bước vào tu luyện và cũng thể nghiệm được công năng và kỳ tích của Đại Pháp. Ai cũng ca ngợi ân cứu độ của Đại Pháp.
Mỗi ngày, tôi đều phát chính niệm vào bốn thời điểm toàn cầu. Trước khi bắt đầu tu luyện, tôi bị suy nhược thần kinh và không sao ngủ ngon được ngay cả khi chỉ có chút tiếng ồn. Sau khi bước vào tu luyện, tôi ngủ rất ngon, không còn bị tiếng ồn đánh thức nữa. Cứ đến giờ phát chính niệm nửa đêm là trong đầu tôi lại nghe tiếng đồng hồ hoặc tiếng điện thoại bàn nên có thể thức giấc đúng giờ để phát chính niệm. Chính là Sư phụ đã đánh thức tôi dậy. Khi phát chính niệm, tôi cảm thấy mình to lớn dần lên thành một vị Thần bất khả chiến bại.
Khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời tôi có lẽ là từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 1 năm 2005. Tôi được đắm mình trong ánh quang huy của Đại Pháp, và cảm nhận được niềm hạnh phúc mà tôi chưa từng được trải nghiệm trước đây.
2. Mở trường học để chứng thực Pháp và cứu độ chúng sinh
Ngày 19 tháng 3 năm 2007, nhờ an bài của Sư phụ, cuối cùng, tôi đã trở về quê. Ngày 23 tháng 3, tôi cùng hai đồng tu bị mất việc vì cuộc bức hại, cũng là đồng nghiệp cũ của tôi ở một ngôi trường mà tôi từng làm việc, đã mở một trường dạy học sau giờ chính khóa.
Khi biển hiệu của trường chúng tôi được dựng lên, các đồng tu rất phấn khởi, nó cũng khiến tà ác ở địa phương phải kinh sợ. Trường học của chúng tôi hành xử theo nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn, mục tiêu của chúng tôi là dạy cho học sinh có cả tài năng lẫn phẩm chất, đồng thời gieo hạt giống Chân – Thiện – Nhẫn vào tâm mỗi học sinh. Thái độ nghiêm túc và tinh thần vô tư vô ngã của chúng tôi liên tục giành được sự ca ngợi của cả học sinh lẫn phụ huynh.
Các phụ huynh nói: “Ai bảo các học viên Pháp Luân Công không tốt chứ? Ba giáo viên này dạy thật hay, họ rất kiên nhẫn. Con chúng tôi không chỉ được điểm cao mà còn học được cách cư xử.” Còn các em học sinh nói: “Các cô giáo của chúng con không chỉ dạy hay mà còn đối xử với chúng con rất tốt nữa. Bằng lòng tốt của mình, các cô đã giành được cảm tình của chúng con.” Tất cả học sinh học tập tại trường chúng tôi đều hiểu nguyên lý “bất thất, bất đắc”. Cứ có học sinh mới nào vào trường là các em lại hào hứng bảo bạn mới: “Học ở đây, bạn cần hành xử theo nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn nhé; khi người khác làm khó bạn thì bạn cần học cách khoan dung. Vì khi họ làm khó bạn, thực ra là họ cũng đang cấp đức cho bạn, mà với đức này, bạn sẽ có một tương lai tốt đẹp.”
Ban đầu, chúng tôi chỉ giảng chân tướng cho học sinh mà không dám bảo các em thoái Đội của ĐCSTQ vì sợ cha mẹ các em không liễu giải được. Nhưng chúng tôi rất lo khi thấy các em đeo khăn quàng đỏ mỗi khi đi học và ra về. Thực ra, các phụ huynh và học sinh đến trường chúng tôi là để được cứu. Nhận ra điều này, tôi đã loại bỏ tâm sợ hãi và bắt đầu đề cập đến vấn đề thoái ĐCSTQ với các em học sinh. Những em thoái ngay đều đạt được tiến bộ lớn, điểm số cao hơn, và cư xử tốt hơn nhiều.
Tháng 8 năm 2007, tà ác từ phòng cảnh sát, phòng giáo dục và phòng thương mại địa phương đã đóng cửa trường chúng tôi với lý do chúng tôi không có giấy phép của cơ quan này kia. Lúc đó, vì thiếu chính niệm nên chúng tôi đã không giảng chân tướng cho họ. Chúng tôi đã bật khóc vì ngôi trường này là tất cả những gì chúng tôi có. Ba chúng tôi đã lập một nhóm học Pháp. Chúng tôi học Pháp và từ trong Pháp mà đề cao bản thân.
Chúng tôi giảng chân tướng và chứng thực Pháp ở đây. Chúng tôi hướng nội và tìm thấy tâm sợ hãi của mình đã tạo thành sơ hở. Sau khi nhận ra vấn đề này, chúng tôi chính lại bản thân và loại bỏ tâm sợ hãi. Hễ có vấn đề ở đâu thì chúng ta cần giảng chân tướng ở đó. Chúng tôi phát chính niệm và xin Sư phụ gia trì. Sau đó, chúng tôi đi giảng chân tướng cho các cơ quan chính quyền, phòng thương mại và các trường học.
Tôi về thăm lại trường cũ sau ba năm thôi việc. Trong cả chuyến đi ấy, tôi liên tục học thuộc Hồng Ngâm của Sư phụ. Trong tâm tôi chỉ có một niệm duy nhất: “Chúng tôi quay lại, chúng tôi trở lại để cứu các bạn.” Tối đó, khi tôi trở lại trường cũ để giảng chân tướng, có một vầng sáng khổng lồ rực rỡ xuất hiện rất lâu trong không trung phía trên ngôi trường. Nhiều giáo viên và học sinh đã chứng kiến cảnh tượng hiếm gặp ấy. Chính là Sư phụ đang khích lệ chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đã thuê một ngôi nhà mới và mở lại trường học của chúng tôi.
Tà ác liên tục can nhiễu, nhưng trường chúng tôi chưa bao giờ ngừng hoạt động. Ngày 20 tháng 7 năm 2008, tà ác lại đóng cửa trường tôi một lần nữa. Sau đó, đêm ngày 23 tháng 7, họ đã bắt cả ba chúng tôi, lấy lý do là sắp diễn ra Olympics nên họ được cấp trên giao nhiệm vụ bắt giữ các học viên Pháp Luân Công. Trong trại tạm giam, một đoạn Hồng Ngâm của Sư phụ bật ra trong đầu tôi:
Biệt Ai
Thân ngọa lao lung biệt thương ai
Chính niệm chính hành hữu Pháp tại
Tĩnh tư kỷ đa chấp trước sự
Liễu khước nhân tâm ác tự bạiTạm diễn nghĩa:
Đừng Đau Buồn
Thân người nằm trong tù ngục đừng có đau buồn
Niệm chân chính hành sự chân chính có Pháp tại đây
Tĩnh lặng suy nghĩ xem bản thân có bao nhiêu chấp trước
Dứt đi được tâm người thường thì tà ác sẽ tự thất bại(Hồng Ngâm II)
Tôi hướng nội, tự hỏi mình có chấp trước vào tình không; hay là tâm sợ hãi của tôi đã tạo sơ hở? Tôi phát chính niệm, thanh lý các quan niệm người thường và hết thảy các nhân tố tà ác đang bức hại chúng tôi. Tôi nhận ra mình không nên ở lại đây, đây không phải là nơi tôi nên ở, tôi cần ra ngoài để cứu người. Khi những kẻ bức hại nói chuyện với tôi, họ chỉ cần nghe tôi giảng chân tướng, và tôi không nên làm theo yêu cầu của họ. Bảy ngày nữa, tôi cần phải ra khỏi đây vì chúng sinh đang đợi tôi. Bảy ngày nữa, tôi phải ra khỏi đây.
Nhờ xuất niệm này mà những người được phân công đến nói chuyện với tôi thực sự thích nghe tôi giảng chân tướng. Họ không ra lệnh nào cho tôi, và tôi đã đường đường chính chính trở về nhà sau bảy ngày. Nhìn lại, tôi nhận ra rằng tôi đã không đủ tín Sư tín Pháp trong thời gian đó. Nếu đủ chính niệm rằng tôi phải về nhà ngay đêm đó thì có lẽ, tôi đã về nhà vào đêm đó luôn.
Tôi có thể ra khỏi hang ổ của tà ác trong bảy ngày là nhờ Pháp của Sư phụ. Trong bảy ngày đó, ngoài việc nhẩm Pháp, tôi đã liên tục phát chính niệm và không để một phút giây nào nghĩ đến những chuyện của người thường hay sản sinh bất kỳ nhân tâm nào. Sau khi được trả tự do, tôi lập tức liên hệ với gia đình các đồng tu để giải cứu họ. Sau vài ngày, hai đồng tu này cũng được trả tự do.
3. Giảng chân tướng và cứu độ chúng sinh không quản mưa nắng
Giảng chân tướng ở mọi nơi cho mọi người không chỉ là quá trình cứu người mà còn là quá trình loại bỏ các quan niệm người thường.
Suốt 11 tháng ấy, chỉ có năm ngày là tôi không đi giảng chân tướng. Hôm nào bỏ lỡ không ra ngoài cứu người là hôm đó tôi thấy vô cùng trống trải và khó chịu trong tâm. Suốt ba năm qua, tôi đã giúp ít nhất 2.100 người thoái ĐCSTQ. Nhưng tôi biết chính là Đại Pháp đã cứu họ, chính là Sư phụ đã cứu họ. Không có Sư phụ và Đại Pháp, tôi cũng chẳng là gì. Tôi biết tôi đã không tu luyện đầy đủ. Giờ đây, tôi chỉ cảm thấy mình không có đủ thời gian, chỉ xin Sư phụ cho tôi thêm ít thời gian để tu luyện bản thân tốt hơn và cứu được nhiều người hơn.
Dưới đây là một vài trải nghiệm giảng chân tướng trên đường phố trong 11 tháng qua của tôi.
A. Học Pháp và phát chính niệm là nền tảng để giảng chân tướng và cứu người
Chúng ta đều do Pháp tạo ra; vì vậy, học Pháp tốt có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nhất là học thuộc Pháp. Tôi đã học thuộc bốn chương trong Chuyển Pháp Luân. Bất cứ khi nào tôi gặp vấn đề, Pháp sẽ hiện ra trong đầu tôi từng đoạn từng đoạn một.
Khi có thể ngộ rõ ràng về Pháp và sứ mệnh của mình, và khi có chính niệm mạnh mẽ, tôi có thể giảng chân tướng một cách thấu đáo. Khi phát chính niệm tốt thì trường năng lượng của chúng ta sẽ thuần tịnh, trong sáng, tà ác không thể can nhiễu nên việc cứu người sẽ thuận lợi hơn. Mỗi ngày, trước khi ra ngoài cứu người, đầu tiên, tôi học thuộc ít nhất nửa chương trong Chuyển Pháp Luân. Sau đó, tôi học thuộc các bài thơ trong Hồng Ngâm hay các kinh văn gần đây của Sư phụ. Sau đó, tôi phát chính niệm và thanh lý trường không gian của mình, môi trường địa phương và những người tôi cần cứu.
Tôi phát chân niệm tới tất cả các chúng sinh mà tôi sẽ cứu rằng: “Tôi sẽ cứu các bạn, các bạn phải sẵn lòng nghe chân tướng và thoái xuất ĐCSTQ nhé.” Sau đó, tôi bắt đầu hành trình cứu người của mình. Tâm tôi đường đường chính chính và trang nghiêm. Hễ gặp ai là tôi bắt chuyện và tìm cách dẫn họ vào câu chuyện. Nếu họ im lặng không nói, tôi sẽ phát chính niệm cho họ.
Sau đó, tôi nói: “Tôi chân thành hy vọng bạn sẽ được tốt lành. Tôi không muốn gì ngoài mong bạn có một tương lai tốt đẹp.” Có khi, vừa nói lời này, tôi liền bật khóc, và họ thường lập tức đồng ý thoái ĐCSTQ ngay.
B. Bảo trì tâm thuần tịnh, không có quan niệm người thường, cứu người bằng tâm từ bi
Khi giảng chân tướng, chúng ta cần có tâm thái đúng đắn: chỉ cần tập trung cứu người, không được có quan niệm người thường. Ngày nào tôi cũng ra ngoài, cũng có những lần không vui và không muốn giảng chân tướng. Sau đó, tôi nghĩ tôi cần phải giảng chân tướng dù cho chỉ có thể cứu được một người. Một người được cứu thì toàn bộ những sinh mệnh phía sau họ cũng sẽ được cứu. Cứu một người chính là cứu cả một vũ trụ vậy. Suy nghĩ đơn giản này đã tạo động lực để tôi ra ngoài cứu người mỗi ngày. Khi giảng chân tướng, tôi xuất tâm từ bi chân thành. Có lần, tôi vừa nói, mọi người liền đồng ý thoái ĐCSTQ.
C. Ý niệm của người tu luyện nên là ý niệm của Thần
Niệm của người tu luyện nên là niệm của Thần, đặc biệt là niệm đầu của chúng ta. Còn khi ra ngoài giảng chân tướng mỗi ngày, niệm đầu của tôi là: “Tôi là đệ tử trợ Sư chính Pháp, thân mang sứ mệnh cứu người. Không ai có quyền hay được phép can nhiễu việc này.” Như vậy, bất kể có việc gì xảy ra, tôi vẫn ra ngoài, không quản nắng hay mưa. Hễ gặp người có duyên tiền định, tôi liền xuất niệm đầu: “Tôi là một vị Thần. Tôi sẽ có thể cứu bạn.” Sự khác biệt giữa người và Thần chỉ ở một niệm. Khi xuất niệm của Thần, tôi đúng là một vị Thần đang cứu người.
D. Phối hợp như một chỉnh thể khi giảng chân tướng, tà ác sẽ bị thanh lý kiền tịnh
Khi giảng chân tướng, tôi từng gặp nhiều người không muốn thoái ĐCSTQ sau khi được các đồng tu giảng chân tướng. Cũng có những người đã từng đọc tài liệu chân tướng. Vì đồng tu đã đặt nền móng nên tôi giảng chân tướng khá thuận lợi. Họ lập tức thoái Đảng sau khi nghe tôi giảng chân tướng. Khi các đồng tu khác thấy tôi nói chuyện với ai, họ đứng bên cạnh phát chính niệm. Nếu đồng tu nào cũng đều có thể bước ra giảng chân tướng thì chúng ta sẽ có thể trở thành một chỉnh thể, như vậy sẽ không còn sơ hở nào nữa và tà ác sẽ bị thanh lý kiền tịnh.
Con xin cảm tạ Sư phụ! Cảm ơn các bạn đồng tu!
Viết ngày 29 tháng 10 năm 2009
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2009/11/9/211390.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2009/11/21/112510.html
Đăng ngày 06-07-2019; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.