Bài viết của học viên Pháp Luân Đại Pháp tại Trung Quốc

[MINH HUỆ 6-11-2018] Tôi từ nhỏ không có nhiều sở thích, nhưng tôi thích bênh vực kẻ yếu nên thường đánh nhau với người khác. Sau khi lớn lên, tôi tham gia quân ngũ và trở thành một cảnh sát vũ trang, sau khi về hưu thì làm nghề khác.

Khi còn công tác, tôi thường xuyên tiếp xúc với dân xã hội đen, thuốc lá rượu chè, thói hư tật xấu nào cũng có; tính khí tôi ngày càng nóng nảy, không nhẫn được, mở miệng là mắng chửi đánh đập, ở đơn vị hay ở nhà tôi đều bị xem như kẻ gây rối.

Nhưng trong lòng tôi vẫn luôn tín Phật, tôi cũng đọc qua nhiều kinh Phật, thường hay nhìn lên bầu trời và tự hỏi đâu mới là ngôi nhà thật sự của mình. Hồi còn nhỏ, tôi thường thấy một vị Phật ở phía xa. Tất cả những trải nghiệm này từ lâu đã khiến tôi muốn xuất gia.

Thoát thai hoán cốt nhờ Đại Pháp

Tháng 3 năm 1999, ở tuổi 31, tôi biết đến Pháp Luân Đại Pháp. Khi đó, tâm tôi chẳng ngày nào yên vì chán ngán trước sự mục nát của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và tôi chỉ muốn xuất gia.

Người đồng nghiệp giới thiệu Pháp Luân Đại Pháp cho tôi hiểu rất rõ về tôi. Anh ấy từng nói với các học viên rằng: “Anh ấy ma tính rất mạnh. Đây có thể là cơ hội duy nhất để anh ấy biết đến Đại Pháp.”

Tôi đồng ý xem băng hình giảng Pháp của Sư phụ, vừa nhìn thấy Sư phụ làm đại thủ ấn tôi liền minh bạch, lập tức nhận định đây chính là một vị Phật. Tôi hỏi sách Chuyển Pháp Luân để đọc, và đã đọc liền từ 10 giờ sáng cho đến 2 giờ chiều ngày hôm sau. Đọc xong cuốn sách tôi minh bạch rằng khí công chính là tu luyện, tôi cũng hiểu được tu luyện; khi thấy các chữ “Chân-Thiện-Nhẫn”, trong lòng tôi nghĩ mình hiểu được Chân, hiểu được Thiện, vừa nhìn thấy chữ Nhẫn, tôi liền minh bạch đây là Phật pháp tối cao.

Tôi đã đắc Pháp như vậy. Mỗi ngày tôi đều vui cười, khỏi nói tôi đã hạnh phúc biết nhường nào. Ban đầu, vì không thể kéo chân lên ngồi song bàn nên ngày ngày tôi đều nhờ người khác giẫm lên chân mình, sau một tháng thì tôi có thể ngồi song bàn. Sau khi đắc Pháp, nét tươi cười luôn hiện trên khuôn mặt tôi cả ngày, hết thảy những thói hư tật xấu tôi đều từ bỏ, lãnh đạo đơn vị đều nói Pháp Luân Công đã biến tôi trở thành một người tốt.

Ngày 25 tháng 4 năm 1999, Tôi cùng một vài học viên đã tới Bắc Kinh để thỉnh nguyện ôn hòa. Khi trở về quê, chúng tôi đã giảng chân tướng về Đại Pháp cho người dân nhiều nơi.

Tôi cũng nhận thức rõ tu luyện cần phải đề cao tâm tính. Một hôm khi tôi đang đi xe đạp thì bị một chiếc ô tô đâm vào khiến chiếc xe đạp hỏng nát. Nếu như không tu luyện, có lẽ tôi đã đánh nhau với tài xế. Nhưng là một học viên, nên tôi coi đây là cơ hội để thực hành Nhẫn và đề cao tâm tính của mình.

Kiên tín Sư phụ, duy hộ Đại Pháp

Sau khi cuộc đàn áp bắt đầu vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, nhiều học viên và tôi đã đến thủ phủ của tỉnh để thỉnh nguyện quyền được tu luyện Đại Pháp. Cảnh sát kéo chúng tôi vào một chiếc xe buýt và đưa chúng tôi đến một học viện cảnh sát, ở đó chúng tôi được yêu cầu cung cấp thông tin về bản thân. Tôi đã từ chối làm theo và trở về nhà.

Vào ngày hôm sau, khi tôi đến điểm luyện công thì chỉ có một vài học viên, tâm tình cảm thấy rất buồn. Tôi quyết định đến các điểm luyện công khác và gặp một số học viên. Chúng tôi nhận định rằng việc học Pháp và luyện công tập thể không thể gián đoạn. Sau đó, tôi nghe nói rằng một số học viên đã giao nộp sách Đại Pháp của họ và viết những tuyên bố bôi nhọ Đại Pháp.

Có nhiều cảnh sát mặc thường phục lân la quanh các điểm luyện công tập thể. Nhiều học viên lưỡng lự và không biết phải làm gì. Tôi chia sẻ thể ngộ của mình: “Sư phụ đã dạy chúng ta phải thiện và trở thành những người tốt hơn. Điều đó không có gì sai cả. Chúng ta không thể giao nộp sách của mình hay phỉ báng Đại Pháp.”

Một vài học viên và tôi đã đến Bắc Kinh để đòi lại công lý cho Đại Pháp. Trước khi lên đường, tôi nhìn thấy Sư phụ trong trang phục cà sa trắng với bàn tay ở thế đơn thủ lập chưởng. Ngài còn điểm ngộ cho tôi đọc những bài thơ trong Hồng Ngâm (như “Trợ Pháp”, “Uy Đức”, “Vô tồn”) và các bài viết trong Tinh tấn yếu chỉ.

Sau khi đến Bắc Kinh, chúng tôi hay tin Giang Trạch Dân, cựu lãnh đạo chế độ cộng sản, nói với báo chí nước ngoài rằng 99% học viên đã ngừng tu luyện sau khi ông ta cấm Pháp Luân Đại Pháp. Để bác bỏ những lời dối trá đó, chúng tôi đã thu thập nhiều chữ ký từ học viên và gửi tới Liên Hợp Quốc. Hơn 60 học viên và tôi đã giăng một biểu ngữ ở Quảng trường Thiên An Môn. Tôi bị bắt và bị đưa đến Trại tạm giam Triều Dương. Sau đó, tôi bị giam 27 ngày tại một trại tạm giam địa phương.

Khi biết tin các học viên từ tỉnh An Huy phải đi bộ đến Bắc Kinh vì họ không có khả năng chi trả tiền tàu xe, tôi đã mua một ít thức ăn cho họ. Sau đó, cảnh sát bao vây ngọn núi để lùng tìm chúng tôi. Họ đưa tôi đến đồn cảnh sát Sùng Văn Môn, nhưng tôi đã trốn thoát được.

Bị tra tấn tàn bạo

Tháng 11 năm 2000, cảnh sát bắt giữ vợ chồng tôi và một số học viên khác, chúng tôi bị giam giữ trong 19 tháng. Thời gian đó tôi đã bị tra tấn tàn bạo.

Ngày 19 tháng 1 năm 2001, các lính canh buộc tay và chân tôi vào một chiếc ghế sắt. Họ dùng một thanh kim loại vòng vào bụng tôi và khóa hai đầu. Sau khi ăn tối, vài lính canh tra tấn tôi. Hai người trong số họ tháo dây trói cổ tay tôi, kéo tay ra sau lưng và còng lại rồi buộc dây thừng và kéo qua kéo lại. Họ phơi lưng tôi ra rồi một lính canh sốc tôi bằng một dùi cui điện, từ cổ cho đến thắt lưng và ngược lại, liên tiếp, khiến tôi chịu đau đớn khôn kể.

Tôi đau toát mồ hôi sau vài phút nhưng vẫn kiên quyết từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào của họ. Một lính canh bảo những người khác tra tấn tôi tàn bạo hơn. Một người tiếp tục kéo tay tôi, còn những người khác đổ nước lạnh lên lưng tôi trong khi sốc tôi bằng dùi cui điện. Sau một lúc, tôi bất tỉnh. Họ lại dội nước lạnh vào người tôi để tôi tỉnh lại.

Sau đó các lính canh trói chặt tôi bằng dây thừng. Đến lần trói thứ ba, các lính canh xiết dây thừng chặt hơn nữa, kéo duỗi cánh tay tôi từ đằng sau qua đầu để gần chạm vào đùi tôi. Cùng lúc đó, hai lính canh ép mạnh các dây xích buộc quanh chân tôi xuống. Tôi lại bất tỉnh. Sau khi tỉnh lại, tôi thấy họ đã dội nước lạnh lên người mình và bắp tay trên của tôi đã chuyển sang màu tím đen. Sau đó các lính canh xuống tầng để đi tắm gội.

Sau khi nghỉ ngơi, các lính canh tra tấn tôi còn tàn nhẫn hơn. Họ sốc cổ tôi và cả phần kín của tôi bằng dùi cui điện. Họ cũng nhét dùi cui vào miệng tôi để sốc. Họ dùng cực hình tra tấn tôi như thế nhiều lượt, cảnh sát muốn tôi thừa nhận cái gọi là lời thú nhận của các đồng tu khác để họ có thể kết án tất cả chúng tôi.

Cuộc tra tấn kéo dài khoảng 30 giờ đồng hồ. Sau khi trở về phòng giam, tôi ngủ liền mạch ba ngày hai đêm. Tôi bị gãy xương sườn và chân trái, huyết áp bất ổn, khó thở, tay chân ứ huyết bầm tím, dạ dày co giật đau đớn khôn tả, thường xuyên nôn mửa, xương chân trái bị sai khớp phải đi khập khễnh.

Đêm đó các học viên khác cũng bị tra tấn và thẩm vấn. Các phương thức tra tấn bao gồm buộc vào ghế sắt, xích chân, ghế hổ, kéo tay từ phía sau qua đầu, đổ nước lạnh lên lưng và sốc bằng dùi cui điện. Có một học viên bị lính canh dùng gậy sắt đánh thủng bụng.

Một lính canh nói rằng anh ta có một phương pháp tra tấn khác. Nếu người nào không chịu nhận tội, lính canh này sẽ đập vỡ một chai bia và chèn phần có các cạnh sắc nhọn vào hậu môn của người đó. Về sau anh ta đã áp dụng cách tra tấn này cho một học viên. Học viên này đau đớn đến mức gào thét lên nhưng vẫn không nói cho anh ta bất cứ điều gì.

Kết án tù

Mùa thu năm 2001, tòa án địa phương lên kế hoạch một phiên tòa để xét xử tôi và 12 học viên. Khoảng 1.000 học viên đứng bên ngoài phòng xử án để phản đối. Phiên tòa đã được hủy bỏ.

Ngày 6 tháng 3 năm 2002, phiên tòa thứ hai được lên lịch. Các quan chức từ tòa án và viện kiểm sát địa phương đều có mặt. Tôi đã tự đứng lên làm chứng rằng Pháp Luân Đại Pháp đã giúp mình trở thành một người tốt như thế nào, nhưng tôi lại bị tra tấn vì đức tin của mình. Trong lúc phiên tòa tạm hoãn, lính gác đã đánh tôi và sốc tôi bằng dùi cui điện để ngăn tôi làm chứng.

Ngày 8 tháng 3 năm 2002, tại phiên xét xử thứ ba, tôi đã bị kết án 13 năm tù.

Bốn tù nhân được chỉ định theo dõi tôi suốt ngày đêm. Tôi nói với các lính canh rằng họ đang vi phạm nhân quyền đối với tôi. Vì tôi không làm gì sai, không có lý do gì để chúng tôi bị cầm tù và bị các tội phạm theo dõi. Các lính canh không phản bác được gì nên đã bảo các tù nhân dừng theo dõi. Về sau ngày càng nhiều học viên bị cầm tù phi pháp, tôi phối hợp cùng các đồng tu vạch trần tà ác, phơi bày việc bức hại trong tù, khai sáng hoàn cảnh học Pháp, các học viên trong tù vẫn có thể đọc Chuyển Pháp Luân và kinh văn mới của Sư phụ. Một chỉ đạo viên chính trị trong trại giam đã dừng bức hại các học viên sau khi lắng nghe chúng tôi giảng chân tướng.

Khi các quan chức nhà tù phát hiện chúng tôi học Pháp tập thể, họ bắt đầu cưỡng chế chúng tôi ‘chuyển hóa’, ép buộc viết cái gọi là ‘ngũ thư’. Một học viên bị tra tấn, trói trên “giường chết” với tay chân bị kéo theo các hướng tựa như ngũ mã phanh thây. Học viên này chịu đựng không nổi đã viết cái gọi là cam đoan, sau đó anh rất hối hận. Tôi khích lệ anh cần phải kiên định, anh ấy đã viết nghiêm chính thanh minh, tuyên bố những gì viết trước đây không còn hiệu lực, anh ta còn viết Pháp Luân Đại Pháp hảo. Vì vậy mà anh ấy bị bức hại còn tàn khốc hơn. Sau đó có một nam đồng tu bị tra tấn bộ phận sinh dục. Sau khi hay tin, tôi và các đồng tu đã tìm cảnh sát, không cho họ bức hại học viên này. Về sau, một đồng tu tham gia chèn sóng vào truyền hình bị bức hại đến chết, tất cả học viên chúng tôi đã tuyệt thực để phản đối bức hại khiến các hoạt động trong nhà tù bị đình trệ trong ba ngày. Ngày 23 tháng 2 năm 2003, vì việc này mà tôi và một số đồng tu bị chuyển đến giam giữ phi pháp tại một nhà tù khác.

Kiên định đức tin, cự tuyệt “chuyển hóa”

Khi tôi mới chuyển đến nhà tù mới, người thân trong gia đình được phép tới thăm. Sau đó, nhà tù tăng cường bức hại và đưa bốn học viên tà ngộ tới tẩy não chúng tôi. Bốn cựu học viên này tôi đều biết, tôi nói với một người rằng: “Cớ gì cô lại thay đổi, đây không phải làm hán gian à, cô chẳng phải là tay sai sao? Cô không phải làm giáo viên à?” Tôi nói khiến cô ta á khẩu không trả lời được gì. Một người trong số họ biết về tôi nói: “Anh chẳng phải là người của xã hội sao, sao lại tập công này, có gì mà phải kiên định thế? Hay là anh vẫn chưa thấu hiểu về Pháp Luân Công?” Tôi nói: “Người xưa có câu ‘nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ’ (một ngày làm thầy, suốt đời là cha). Giờ đây tôi đã học Pháp Luân Công, nếu là trước đây thì anh có dám nói với tôi như vậy không?” Anh ta im lặng. Sau đó tôi lại nói: “Anh đừng nói với tôi như thế, anh quản việc tôi kiên định hay không, anh mang Chuyển Pháp Luân tới đây, tôi xem xem anh nói có đúng hay không.” Anh ta liền mang Chuyển Pháp Luân đến đưa cho tôi xem. Lúc đó tôi đọc thuộc Luận ngữ hay bị nhầm chữ, vừa hay lợi dụng cơ hội này để đối chiếu một chút. Tôi xem sách từ sáng sớm cho đến ba giờ chiều, đến lúc họ quay lại, tôi đã đọc thuộc cả Luận ngữ không sai kém một chữ.

Đối mặt với tà thuyết của họ, tôi không nói chuyện, một chữ cũng không viết, đến hơn chín giờ đêm tôi mới được đưa trở lại khu giam giữ. Sau khi trở về phòng giam, tôi không làm việc, chỉ nằm trên giường nghĩ về sự tra tấn mà những học viên tà ngộ đó phải gánh chịu. Họ không chịu đựng được sự tra tấn và giúp các lính canh “chuyển hoá” các học viên khác. Khi cảnh sát ‘chuyển hoá’ các đồng tu, trong tâm tôi vô cùng đau đớn, để giúp các học viên kiên định, tôi ra hành lang và hô lớn: “Pháp Luân Đại Pháp hảo!” Một lính canh đá tôi, rồi tôi bị đưa đến một phòng biệt giam. Không ai được phép nói chuyện với tôi hay thậm chí gặp tôi. Người nhà của tôi cũng bị cấm không được vào thăm.

Một học viên phi thường kiên định, khi bị đánh bằng thắt lưng, anh gọi to: “Sư Phụ, xin hãy giúp con!” Lính canh lập tức ngừng đánh đập và bảo các tù nhân đối xử tốt với anh ấy. Hàng ngày, các tù nhân đều hỏi học viên này về Pháp Luân Đại Pháp và nhận một cuốn Cửu Bình.

Sau đó tôi nghe được rằng sau khi một nhân viên Phòng 610 đến Bắc Kinh để báo cáo những thành tích của nhà tù, ông ta trở về với một chỉ thị từ La Cán (khi đó là Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật Trung ương – PLAC). La Cán đã chỉ thị cho nhà tù tăng cường tra tấn đối với một vài học viên, gồm cả tôi và hai học viên kiên định khác. Theo chỉ thị, họ sẽ không phải chịu hậu quả gì ngay cả khi chúng tôi bị tra tấn đến chết.

Tôi biết rằng một trong những học viên trong danh sách đó đã làm rất tốt. Vào những ngày lạnh giá, các lính canh rót nước muối lạnh lên người anh và để anh trần trụi ở ngoài trời trong một thời gian dài. Sau khi da của anh bị bỏng do những cú sốc điện, các lính canh dùng giấy phủ lên những vết bỏng, khi vết thương se lại thì họ bóc giấy ra để khiến anh đau đớn hơn. Anh cũng bị xích vào một chiếc giường trong một thời gian dài. Nhưng anh vẫn không quên nói về Đại Pháp. Một tù nhân, người từng theo dõi anh đã thoái Đảng.

Vì từ chối viết những tuyên bố phỉ báng Đại Pháp, học viên này đã bị sốc bằng tám dùi cui điện cùng một lúc. Thấy khắp lưng của anh bị đốt cháy, tôi hô lên: “Pháp Luân Đại Pháp hảo!” Các lính canh nghe được liền để cho các tù nhân đánh đập tôi. Họ đá vào mặt và đấm tôi gãy một cái răng.

Trong gian nan được Sư phụ điểm ngộ

Cảnh sát không cho gia đình tới thăm tôi. Vợ tôi chạy vạy khắp nơi mới được vào gặp tôi. Bất kể xuân hạ thu đông, giá lạnh hay nóng bức, mỗi tháng cô ấy đều đi tàu hỏa tới khích lệ động viên tôi. Thời gian thấm thoắt trôi đi, thoáng chốc đã 10 năm, cậu con trai ngày nào còn bế trước ngực giờ đã đến tuổi tới trường. Đại Pháp đã tôi luyện vợ tôi cách sống độc lập, tự chăm sóc bản thân và con trai. Các học viên khác cũng giúp đỡ và phát chính niệm cho tôi. Sau đó, tôi lại bị ngăn cấm không được gia đình tới thăm.

Cho đến mùa xuân năm thứ chín bị cầm tù, trong hơn một năm trời không có ai nói chuyện với tôi. Sau đó các lính canh nảy ra ý tưởng tra tấn khác. Họ buộc tôi phải đứng đối mặt với một bức tường. Các tù nhân được chỉ định theo dõi tôi và tôi không được phép nói chuyện với bất cứ ai. Sự cô đơn đến tột cùng đã khiến tôi rơi vào tuyệt vọng. Vì không được tiếp xúc với Pháp trong một thời gian dài, nên tôi đã nảy sinh nhiều nghi vấn trong tâm: Liệu Sư phụ có còn chăm sóc mình không? Đến bao giờ điều này mới kết thúc, để tôi có thể thoát khỏi địa ngục trần gian này? Những người ở đây đều xấu tệ lắm rồi, còn cứu gì nữa? Lúc đó tôi có chút hoang mang lo sợ, thần trí không bình thường tỉnh táo.

Trong những ngày đen tối và thống khổ vô tận đó, tôi đột nhiên nhớ lại, khi vợ tôi đến thăm lần cuối, cô ấy nhắc tôi học thuộc Luận ngữ. Cho dù tôi không được nói, tôi vẫn có thể thường xuyên niệm Luận ngữ. Vì vậy, tôi không còn nghĩ ngợi nhiều chuyện nữa, tĩnh tâm lại và niệm Luận ngữ hết lần này đến lần khác.

Một hôm khi đang niệm Luận ngữ, tôi thấy từ trên bức tường hiện ra một bức tranh lớn, đó là một ấn phẩm xuất bản trước năm 1999 có Luận ngữ in trên đó. Một lúc sau, các chữ trở nên tròn đầy và bắt đầu xoay, sau đó biến thành từng Pháp Luân. Từ trên tường, tôi thấy một người mở một cánh cửa bằng đá và bay ra. Anh ấy bay đến Đại Dữ Sơn (đảo Lạn Đầu – Lantau) ở Hồng Kông, hợp thập và cúi đầu trước Pháp thân của Sư phụ. Tôi rất ngạc nhiên và hạnh phúc vì biết rằng đó là sự khích lệ từ Sư phụ.

Tối hôm đó khi tôi đang nằm trên giường, đột nhiên một con quỷ xuất hiện và nói với tôi: “Đã 10 năm trôi qua rồi, ngươi sẽ không tu thành Phật hay viên mãn đâu. Ngươi đã lãng phí 10 năm ở đây – chịu khổ nhiều thế cũng chẳng viên mãn được, thật đáng tiếc.” Tôi lúc ấy toàn thân đổ mồ hôi lạnh, ngồi trên giường niệm: Cho dù ta không thành Phật hay không viên mãn, lòng ta cũng chẳng oán trách. Vì Sư phụ Lý Hồng Chí đã dạy ta tu tâm hướng thiện và chiểu theo nguyên lý Chân-Thiện-Nhẫn. Điều đó chẳng có gì sai, bất luận thế nào ta cũng sẽ tiếp tục tu luyện.

Một hôm, khi đang gấp chăn sau khi dậy khỏi giường, tôi nhìn thấy qua Thiên mục của mình, một bài kinh văn của Sư phụ:

“Kẻ ác do tâm tật đố sai khiến, ích kỷ, nóng giận, mà tự thấy bất công. Người Thiện thường trong tâm từ bi, không oán, không hận, lấy khổ làm vui. Bậc Giác Giả không có tâm chấp trước, tĩnh nhìn thế nhân đang lấy điều huyễn hoặc làm cõi mê.” (Cảnh giớiTinh tấn yếu chỉ)

Tôi đọc niệm từng chữ từng chữ một. Sau đó một đồ hình Pháp Luân màu xanh dương xuất hiện trên tấm chăn. Lúc ăn cơm, tôi cũng thấy Pháp Luân trong bát. Tôi đã dùng thìa vẽ một hình Pháp Luân trong khi nhớ lại bài thơ của Sư phụ:

“Thực nhi bất vị Khẩu đoạn chấp trước

Tố nhi bất cầu Thường cư đạo trung”

(Đạo TrungHồng Ngâm)

Diễn nghĩa:

Thực (ăn) mà chẳng [theo] vị — miệng dứt hết chấp trước

Làm [các việc] mà chẳng mong cầu — mãi luôn ở trong Đạo

Tôi còn nghe được lời Sư phụ vang đến bên tai nói cho tôi biết cần chiểu theo bài “Cảnh giới” mà yêu cầu chính mình.

Một ngày sau, một lính canh yêu cầu tôi báo cáo, nhưng tôi từ chối nên bị đánh đập. Trong khi tiếp tục niệm Pháp, tôi thấy Pháp thân của Sư phụ mặc áo cà sa trắng đẩy tôi lên từ một cái hang tối. Tôi lại rơi xuống và Sư phụ lại đẩy tôi lên một lần nữa. Điều này lặp lại vài lần. Thiên mục của tôi cũng nhìn thấy một bài kinh văn của Sư phụ:

“Pháp Lý của Pháp Luân Đại Pháp đối với tu luyện của bất kỳ ai, kể cả tín ngưỡng tôn giáo, đều có tác dụng chỉ đạo, đây là Lý của vũ trụ, là Chân Pháp mà xưa nay chưa từng giảng. Quá khứ không cho phép con người biết được Lý của vũ trụ (Phật Pháp), Ông vượt xa khỏi hết thảy những học thuật và luân lý trong xã hội từ xưa đến nay. Điều được truyền trong tôn giáo trước đây và những gì con người cảm thụ được đều chỉ là vỏ ngoài nông cạn và hiện tượng mà thôi. Còn nội hàm bác đại tinh thâm của Ông là chỉ những người tu luyện tại các tầng thứ chân tu khác nhau mới có thể thể ngộ và triển hiện ra được, mới có thể thật sự thấy Pháp là gì.” (Rộng lớnTinh tấn yếu chỉ)

Tôi đọc và ghi nhớ từng chữ từng chữ một. Tôi còn nhớ lại nhiều bài giảng mà trước đây tôi đã từng học thuộc.

Lính canh yêu cầu tôi tập thể dục, nhưng tôi lại luyện bộ công pháp thứ tư. Nhưng, đã lâu rồi tôi không thể nhớ được các động tác. Sau đó, một lính canh bật ti vi và buộc chúng tôi phải xem các chương trình tẩy não. Một cảnh cho thấy Sư phụ đang dạy các bài công pháp. Nhờ đó tôi nhớ lại các bài công pháp từ một đến bốn. Tôi biết rằng Sư phụ vẫn đang chăm sóc mình.

Một đêm, thông qua thiên mục tôi thấy Sư phụ đặt cảnh tượng chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá vào trong một cái hộp. Tôi ngộ ra rằng việc bức hại các vị thần sẽ không tồn tại trong tương lai nữa, việc các học viên bị ngược đãi như thế này trong tù cũng không còn nữa. Sư phụ không thừa nhận cuộc đàn áp.

Sư phụ cũng cho tôi thấy rằng các học viên trên khắp thế giới đang luyện công vào lúc 3 giờ 50 phút sáng. Sau đó tôi thấy một cảnh trong buổi biểu diễn Thần Vận. Tôi cũng nhìn thấy một buổi lễ thắp nến tưởng niệm của các học viên Canada mặc áo trắng. Từ đó, tôi đã biết về Chính Pháp.

Một ngày nọ tôi không thể luyện công, vì vậy tôi ngồi tư thế hai tay kết ấn. Tôi thấy một dòng năng lượng trắng xoay trong bàn tay. Một bông hoa sen nâng một Pháp Luân đang xoay chuyển trong đầu tôi. Sau đó toàn bộ đầu biến thành một cuốn Chuyển Pháp Luân, tôi thấy bài giảng thứ tư và bài giảng thứ sáu. Một cuốn sách màu vàng xuất hiện với dòng chữ “cửu bình Cộng sản đảng”. Từng chuỗi từng chuỗi Pháp Luân từ trên trời bay vào đầu tôi, triển hiện cho tôi nhiều Pháp lý. Tôi cũng thấy Pháp Luân đang xoay chuyển từ bụng đến tim mình, nó xoay tròn khi tôi niệm Pháp và khi tôi dừng lại thì nó cũng ngừng xoay. Sau đó, tôi thấy bài thơ của Sư Phụ,

“Tâm hoài Chân Thiện Nhẫn

Tu kỷ lợi dữ dân

Đại Pháp bất ly tâm

Tha niên định siêu nhân”

(Viên MinhHồng Ngâm)

Diễn nghĩa:

Tròn đầy sáng tỏ

Trong tâm có mang Chân Thiện Nhẫn

Tu chính mình và có lợi cho [nhân] dân

Đại Pháp không rời khỏi tâm

Đến năm ấy [nhất] định là siêu nhân

Tôi cũng nhìn thấy chủ nguyên thần của mình tỏa sáng, và rắn chắc như kim cương. Sư phụ đã lấy nguyên thần của tôi ra và tẩy tịnh, cứ như vậy từng lượt gột rửa, đồng thời tôi được điểm ngộ và được triển hiện cho nhiều Pháp lý. Tôi đã hiểu rằng các sinh mệnh thể khác nhau được sản sinh ra ở các không gian khác nhau và thời gian khác nhau. Các sinh mệnh thể cũng khác nhau. Tất cả vật chất đều không có cách nào tịnh hóa nhưng chúng có thể được chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Chỉ có trong Đại Pháp mới có thể đề cao tư tưởng và thân thể thực sự khỏe mạnh. Vật chất trong vận động không thể nào trở về trạng thái nguyên thủy, giống như nước bị ô nhiễm. Nhưng Sư phụ có thể đem những cái bất hảo, bất thuần biến thành tốt.

Hướng nội và phát chính niệm

Trước khi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tôi rất nóng tính và thường xuyên tranh đấu với những người khác. Sau khi bắt đầu tu luyện vào tháng 3 năm 1999, tôi bắt đầu hướng nội và đề cao bản thân mình, nhưng tôi lại không học Pháp đầy đủ. Sau đó, tôi tham gia cuộc thỉnh nguyện ôn hòa ngày 25 tháng 4 và bắt đầu phơi bày cuộc bức hại sau khi nó được khởi xướng vào tháng 7 năm 1999. Sau đó tôi bị giam giữ, không được tiếp xúc với Pháp hay cùng các học viên chia sẻ tâm đắc thể hội.

Sau đó có một học viên bị giam giữ cùng phòng giam với tôi. Mỗi ngày anh ấy đọc Hồng ngâm II, hát những bài hát do các học viên sáng tác, và hướng dẫn tôi cách phát chính niệm. Các lính canh phát hiện ra và đánh đập anh ấy tàn bạo. Trong tâm tôi tràn đầy oán hận.

Một hôm, tôi tìm không thấy một cặp nhíp để làm việc, cuối cùng nó lại được tìm thấy bên trong nhiều lớp vải bọc. Lúc đó tôi nhìn thấy đồng tu mỉm cười với mình, tôi lập tức minh bạch rồi bất chợt rơi nước mắt, đây chính là Sư phụ lại lần nữa an bài đồng tu tới trợ giúp tôi và điểm hóa cho tôi phải biết hướng nội tìm.

Sau đó, tôi đột nhiên xuất hiện các triệu chứng hệt như nghẽn mạch, ngày đầu tiên hai chân không thể di chuyển. Ngày thứ hai tôi có thể đi được nhưng vẫn thấy đau. Tôi lờ đi và đi lại như bình thường. Đến ngày thứ ba thì tôi hồi phục.

thiên mục của tôi nhìn thấy một ‘chính nghĩa chi kiếm’ (thanh kiếm chính nghĩa), mà có thể truy tìm tà ác. Một học viên đang ngồi xếp bằng, thanh kiếm này từ đỉnh đầu của anh xuyên thấu xuống. Khi học viên này lựa chọn vứt bỏ tật đố, sắc dục và hiển thị, thì chính nghĩa chi kiếm sẽ thanh lý thân thể anh. Tôi ngộ rằng người tu luyện cần phải buông bỏ quan niệm người thường. Khi tôi có thể hướng nội và tu bỏ những quan niệm người thường, tôi thấy nguyên thần của mình thăng lên, và các vị thần cũng rất bội phục chắp tay hợp thập với tôi. Ngày hôm sau, khi đọc bài kinh văn “Pháp chính” và “Thánh giả” trong Tính tấn yếu chỉ, tôi đột nhiên thấy nguyên thần của mình bay ra, thoáng chốc đã thấy cả hệ Ngân Hà dưới chân mình.

Khi những người trong ngục giam đều tập thể dục, thì tôi lại luyện bài công pháp thứ tư. Các lính canh đưa tôi vào một căn phòng và sốc tôi bằng tám dùi cui điện cùng một lúc. Khi tôi đang nằm trên sàn nhà, thiên mục của tôi nhìn thấy những câu thơ:

“Sinh tử phi thị thuyết đại thoại

Năng hành bất hành kiến chân tướng”

(Tâm tự minhTinh tấn yếu chỉ II)

Diễn nghĩa:

Chuyện sống chết không qua việc nói thuyết mà biết được

Có thể làm được hay không mới thấy rõ chân tướng

Dòng điện giật toàn thân nhưng tôi không cảm thấy đau đớn. Sau đó, tôi thấy toàn thân nổi đầy mụn nước và da bị cháy xém. Lính canh hỏi tôi: “Sư phụ của anh có tốt không? Trở về anh có còn tu luyện nữa không?”.

Tôi không trả lời gì cả, nhưng thấy một Pháp thân vàng kim của Sư phụ trên đầu tên lính canh. Tôi biết đây là Sư phụ điểm hóa cho tôi phát chính niệm. Khi lính canh sốc tôi lần nữa thì dùi cui điện ngừng hoạt động. Anh ta tự hỏi sao không dùng được nữa rồi ném dùi cui sang một bên.

Tôi trả lời: “Pháp Luân Đại Pháp hảo. Tôi sẽ tiếp tục tu luyện.” Người lính canh không làm được gì đành bảo tôi quay lại phòng giam. Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến ​​uy lực của phát chính niệm.

Tôi thường xuyên nhìn thấy trước trán và mắt mình Pháp lý Chân-Thiện-Nhẫn. Tôi cũng nhìn thấy Pháp Luân đang xoay và thăng lên. Ngoài ra, tôi còn thấy các thiên nữ rải hoa, còn có hình tượng sinh mệnh có thân trên là người nữ thân dưới là phượng hoàng đang chơi trống để cổ vũ các đệ tử Đại Pháp tinh tấn.

Cứ như vậy, hết quan ải này đến quan ải khác, tôi đối với Đại Pháp ngày càng trở nên tin tưởng vững chắc. Tôi ngộ ra rằng tà ác chính là muốn hủy hoại tôi, còn Sư phụ muốn tiêu trừ nghiệp lực độ tôi tu thành chính quả.

Sư phụ cũng điểm hóa cho tôi rằng bất kể tình huống nào, chúng ta luôn cần phải biết hướng nội và sau đó phát chính niệm.

Sau này, vào buổi sáng sau khi thức dậy tôi sẽ luyện công và phát chính niệm, thanh lý toàn bộ trường không gian của bản thân. Buổi tối tôi chỉ ngủ hai tiếng. Cả buổi tối, Sư phụ giảng Pháp và điểm ngộ cho tôi, để tôi có thể học và niệm Pháp.

Năm 2011, tôi được thả và trở về nhà.

Kiên định đức tin vào Sư phụ

Trải qua những ngày khó khăn nhất trong hơn 10 năm trời bị giam giữ, tôi đã từng phàn nàn vì quá tuyệt vọng và sợ hãi. Nhưng chỉ cần chúng ta có đức tin tròn đầy vào Sư phụ, thì không có ma nạn nào chúng ta không thể vượt qua. Tại thời khắc then chốt, chúng ta cần phải minh bạch rằng mình là đệ tử của Sư phụ Lý Hồng Chí, ngoài Pháp ra cái gì khác cũng không cần. Sư phụ sẽ triển hiện Pháp cho chúng ta, điểm ngộ các Pháp lý để đức tin của chúng ta thêm tròn đầy.

Toàn bộ trên đây là thể ngộ của bản thân tôi. Tôi thể nghiệm được sự từ bi chăm sóc của Sư phụ và Đại Pháp. Tôi cũng muốn khuyên các học viên rằng chỉ cần đắc Pháp rồi, bất kể trước đây mình như thế nào, chúng ta cũng cần có chính niệm. Cho dù khó khăn thế nào đi chăng nữa, bất chấp hoàn cảnh như thế nào, chúng ta cần có niềm tin vững chắc vào Sư phụ và Pháp. Sư phụ từ bi mỗi thời khắc đều đang trông nom chúng ta.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2018/11/6/376410.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2018/11/10/173203.html

Đăng ngày 24-01-2019; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share