Bài viết của Xuân Thu

[MINH HUỆ 23-07-2020] Phần Chu Ngữ trong sách Quốc Ngữ có viết: “Xưa Trời giáng tai họa”. Sách Xuân Thu Tả Truyện, năm Tuyên Công thứ 15 có ghi chép: “Trời ngược thời la tai họa”. Năm Tuyên Công thứ 16 ghi chép: “Lửa con người là lửa, lửa Trời là thiên tai: Phần Thiên Nhân Cảm Ứng trong sách Xuân Thu Phồn Lộ có viết rằng, vì vương Đạo của quân thần ở nhân gian không hợp với Đạo Trời mà dẫn đến việc Trời giáng dị tượng. Trời giáng dị tượng, thiên tai ở nhân gian, nếu không hối lỗi, thì sẽ giáng xuống tai họa lớn hơn. Vì vậy, hễ gặp năm thiên tai, các quan cổ đại đều coi thực thi các chính sách nhân đức ở vị trí quan trọng nhất.

Lưu Hoán thu mua trâu cày

Những năm Trị Bình thời Tống Anh Tông, Hà Bắc xảy ra thiên tai mất mùa, sau thiên tai mất mùa là động đất lớn, cả năm là năm hung. Lương thực trong nhà người dân đã hết từ lâu rồi, nạn đói hoành hành. Mọi người không có cách nào, đành đem trâu cày của gia đình đi bán, đổi chút lương thực để qua ngày.

Khi đó Lưu Hoán là Tri châu Thiền Châu, ông liền đem tất cả tiền bạc trong kho bạc Tri phủ ra để mua toàn bộ trâu cày của người dân vùng thiên tai. Sang năm sau, sau khi động đất đã hoàn toàn biến mất, người dân lưu lạc ly tán khắp nơi đều trở lại, nhưng nhà nhà đều không có trâu cày. Khi đó giá trâu cày trên thị trường tăng gấp 10 lần. Lưu Hoán bèn đem tất cả trâu cày ông đã mua về phủ đem bán lại với giá gốc. Năm đó các châu của tỉnh Hà Bắc thì chỉ có người dân Thiền Châu là không buộc phải lưu lạc ly tán.

Triệu Thanh Hiến bình ổn giá gạo năm thiên tai

Vào những năm Hy Ninh thời Tống Thần Tông, khu vực Lưỡng Chiết bị hạn hán và nạn châu chấu, lương thực mất mùa, các nơi đều xảy ra nạn đói. Giá gạo rất đắt, người dân không có gì ăn bị chết đói. Quan lại các châu đều dán bảng quan phủ trên các con đường giao thông chính, thưởng cho những ai tố cáo những người đẩy giá gạo lên cao. Quan phủ bắt được sẽ trừng trị nghiêm khắc.

Triệu Thanh Hiến khi đó là Tri châu Việt Châu, bảng mà ông dán lại là thông cáo những người dự trữ gạo trong thiên hạ rằng, quan phủ thu mua gạo với giá cao, thế là người buôn gạo các nơi đều tụ tập đến Việt Châu để cung cấp gạo, chỉ trong thời gian ngắn, gạo trên thị trường đã nhiều lên, giá cả cũng rất nhanh chóng giảm xuống.

Chu Hy sáng tạo phương pháp kho xã

Năm Càn Đạo thứ 4 đời Tống Hiếu Tông, các nơi xảy ra mất mùa, Chu Hy cầu cứu châu phủ, mượn được 600 thạch (1 thạch bằng 120 cân, tức 60kg) gạo để cứu tế. Người dân thiếu lương thực thì mùa hè có thể đến mượn gạo từ kho xã, đến mùa đông trả lại cộng thêm lợi tức, mất mùa thất thu thì có thể giảm một nửa lợi tức, khi gặp nạn đói lớn thì miễn lợi tức. Sau 14 năm, toàn bộ 600 thạch gạo của đã được hoàn trả hết cho châu phủ, ngoài ra vẫn còn dự trữ 3.100 thạch gạo. Số gạo dự trữ này không thu lợi tức nữa. Nếu người dân mất mùa hoặc bị nạn đói thì cũng không phải lo lắng không có cơm ăn nữa.

Thế là Tống Hiếu Tông xuống chiếu thực hiện phương pháp kho xã này trên toàn quốc.

Trần Tễ Nham vỗ yên dân chúng vùng thiên tai

Năm Vạn Lịch Kỷ Tỵ thời Minh Thần Tông xảy ra lũ lụt lớn, Trần Tễ Nham lúc đó là Tri phủ Khai Châu. Quan lại trong phủ cùng bàn bạc biện pháp cứu tế thiên tai. Trần Tễ Nham đề nghị phát cho người nghèo nhất 1 thạch ngũ cốc, người nghèo thứ hai 5 đấu, để người dân được cứu tế thực sự.

Trần Tễ Nam lệnh cho thuộc hạ đánh số người dân bị thiên tai, mọi người cầm số hiệu rồi theo thứ tự xếp hàng lấy ngũ cốc. Trần Tễ Nham đích thân ngồi ở trong chiếc lều nhỏ ở cổng nhà kho, ông cầm bút điểm danh, nhìn y phục và diện mạo người đến lĩnh lương thực, ông đặt biệt chú ý ghi lại những người nghèo nhất. Tuy hàng vạn người dân thiên tai đến xếp hàng nhưng không có người nào tranh giành cãi nhau.

Mùa xuân năm Canh Ngọ, trên có công văn thông báo cần cứu tế những người nghèo khó nhất một lần nữa. Công văn có nói phải dán cáo thị tìm những người nghèo này. Trần Tễ Nham nói không cần, thế là ông lấy ra danh sách tên những người ông đã đánh dấu lần trước, rồi trực tiếp thông báo cho họ đến lĩnh lương thực. Người dân vô cùng kinh ngạc rằng Trần Tễ Nham sao có thể nắm rõ tình hình thực tế của người dân như vậy. Bời vì lần trước khi lĩnh đồ cứu tế là thông báo đột xuất, mọi người không kịp trang sức, nên từ y phục và diện mạo đều có thể nhìn ra người nghèo khổ là những ai.

Cuối năm Vạn Lịch Kỷ Tỵ, lương thực trong kho Khai Châu đã phát hết, Phủ đài lệnh cho các châu huyện huy động 2.000 lạng bạc tồn trong quan khố để mua ngũ cốc. Nhưng lúc này giá ngũ cốc đang tăng cao, mỗi thạch là 6 đồng tiền bạc. Quan phủ lệnh cho các hộ giàu có cung cấp ngũ cốc, quan phủ trả giá 5 đồng, cộng thêm chút phí vận chuyển và lưu trữ, các hộ giàu có bị tổn thất mỗi thạch là 2 đồng. Vốn là năm thiên tai, khả năng chịu đựng của các hộ giàu có cũng có hạn, chỉ thu mua lượng ít ngũ cốc nhập kho, tổng cộng đã thu mua được 4.000 thạch.

Mùa thu năm Canh Ngọ, hoa màu ở Khai Châu chín rộ, ngũ cốc chỉ hơn 3 đồng mỗi thạch, Trần Tễ Nham báo cáo lên Phủ đài huy động 2.000 lạng bạc của quan phủ thu mua lương thực, báo giá là 3 đồng, trả tiền mặt ngay. Trong thời gian thu mua, ngũ cốc lại giảm giá xuống còn 2 đồng rưỡi, những nhà giàu cảm niệm Trần Tễ Nham ban đầu đã không cưỡng ép thu mua nên họ tới tấp đề xuất giảm trừ nửa đồng này cho Trần Tễ Nam. Trần Tễ Nam mỉm cười, vẫn trả mỗi thạch 3 đồng cho những nhà giàu này. Kết quả là Khai Châu không chỉ hoàn thành định mức, mà còn dư ra nhiều hơn 700 thạch lương thực. Trần Tễ Nham đem số lương thực dư ra này chia cho những người dân nghèo trở về quê phục hồi sản xuất.

Vì lũ lụt liên tiếp mấy năm liền, thành đất Khai Châu bị sụp đổ hơn chục chỗ. Quan phủ bàn bạc thi công sửa thành, có người nói cần trưng dụng người dân phục dịch. Trần Tễ Nham không đồng ý, ông cho rằng làm như vậy quá vất vả cho dân và hao tiền tốn của. Ông lệnh cho thuộc hạ dán cáo thị ở 4 cổng thành rằng, thông báo cho những người dân lưu vong nơi xa về quê làm nông, miễn thuế ruộng, quan phủ còn cấp ngũ cốc cứu tế. Thế là một truyền mười, mười truyền trăm, rất nhiều người đã trở về.

Dân nghèo hồi hương tới tấp đem bao đến lĩnh lương thực, Trần Tễ Nham sai người dán thêm một cáo thị nhỏ rằng: Người lĩnh lương thực cần dùng bao của mình, trước tiên đựng đất đến những nơi thành đổ thì đổ đất, tổng quản sẽ đóng dấu lên chiếc bao, sau đó đem bao có con dấu đó đi lĩnh ngũ cốc. Như thế, khi công tác cứu tế hoàn thành thì tường thành cũng đã được sửa chữa xong, khoản chi tài chính của Khai Châu không bị tăng thêm.

Tô Thức xây dựng “Đê Tô Công”

Khi Tô Thức đảm nhiệm Thái thú Hàng Châu thì vừa lúc bị hạn hán, thu hoạch không tốt, khi đó lại có bệnh truyền nhiễm hoành hành. Tô Thức dâng tấu triều đình xin miễn 1 phần 3 số lương thực nộp lên trên, giá gạo lập tứ giảm xuống. Tô Thức lại dâng tấu triều đình ban cho mấy trăm giấy phép cho những người có thể xuất gia, dùng để đổi lấy lương thực cứu tế người dân bị đói. Bởi vì tăng lữ không phải nộp thuế cho quốc gia. Mùa xuân năm sau, Tô Thức đem thóc ở kho dự trữ bán ra giá thấp cho dân chúng, nên người dân không bị nạn đói.

Thời Bạch Cư Dị triều Đường đã từng đưa nước Tây Hồ dẫn vào sông đào, rồi lại dẫn nước sông đào tưới cho hàng ngàn khoảnh ruộng, nhưng cỏ nước trong nước Tây Hồ quá nhiều, năm nào cũng cần khơi thông, nên từ đời Tống trở đi đã từ bỏ không quản nữa. Sông đào mất nguồn nước Tây Hồ nên chỉ còn dựa vào thủy triều của sông Trường Giang, nhưng nước thủy triều nhiều phù sa, thuyền bè qua lại khu vực nội thành cần cứ 3 năm lại phải huy động nhân công nạo vét khai thông một lần, vì vậy đã trở thành mối lo cho cư dân thành phố Hàng Châu.

Sau khi Tô Thức nhậm chức, ông sai người khai thông sông đào Mao Sơn và sông Diêm Kiều, sau đó lại xây cống kiểm soát dự trữ vào tháo nước Tây Hồ. Như vậy nước biển thủy triều mới không chảy vào khu nội thành.

Nhưng cỏ nước trong Tây Hồ và phù sa thì làm thế nào? Ngoài thời gian làm việc ra Tô Thức thường xuyên đến bên Tây Hồ quan sát, suy nghĩ, cuối cùng ông đã nghĩ ra một cách, đem cỏ nước và phù sa vun đống trong hồ, hình thành một con đê chạy xuyên qua hồ, khiến hai bờ Nam Bắc được nối thông trực tiếp, tiện lợi cho người dân đi lại. Ruộng đất ven hồ có thể khai khẩn để trồng mạch, lợi nhuận thu được làm quỹ xây dựng đê và khoản tiền cải tạo Tây Hồ.

Thế là ông đem số tiền và lương thực còn dư sau khi cứu tế năm mất mùa ra, cộng thêm khoản 100 giấy phép tăng nhân, dùng để chiêu mộ người trồng mạch. Sau khi hoàn thành con đê dài, ông trồng phù dung, dương liễu trên đê, cảnh sắc như bức tranh, người Hàng Châu gọi là Đê Tô Công.

So sánh với những chính sách nhân đức trong những năm mất mùa của người xưa, rồi lại xem những hành vi các quan chức Trung Cộng ngày nay, nhân dân mãi mãi không biết quan chức rốt cuộc đã tham nhũng bao nhiêu tiền, càng không biết được những quan chức bị pháp luật xử lý, tài sản tham nhũng của họ được xử lý như thế nào. Dịch bệnh bùng phát, lũ lụt, động đất năm 2020 nghiêm trọng như thế này, Trung Cộng một mặt vẫn cổ xúy kinh tế tăng trưởng bao nhiêu phần trăm so với năm ngoái, một mặt lại không ngừng bắt người dân quyên góp, có thể nói là chính sách tà ác hủ bại nhất trong lịch sử.

(Mọi bài viết, hình ảnh, hay nội dung khác đăng trên Minghui.org đều thuộc bản quyền của trang Minh Huệ. Khi sử dụng hoặc đăng lại nội dung vì mục đích phi thương mại, vui lòng ghi lại tiêu đề gốc và đường link URL, cũng như dẫn nguồn Minghui.org)


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/7/23/古代官员灾年德政的故事五则-409375.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2020/9/5/186641.html

Đăng ngày 15-04-2021; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share