Văn hóa & Nghệ Thuật - Minh Huệ Nethttps://vn.minghui.org/newsPháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công)Sun, 09 Mar 2025 15:53:44 +0000en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.3Ngũ phúc, tri túc, cảm ân, thiện lươnghttps://vn.minghui.org/news/280503-ngu-phuc-tri-tuc-cam-an-thien-luong.htmlTue, 04 Mar 2025 12:46:16 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=280503[MINH HUỆ 19-02-2024] Lời nói đầu Đạo đức xã hội ngày một sa sút, những năm gần đây hiện tượng ly hôn tái hôn xung quanh ngày càng nhiều, mọi người phổ biến đã quen và không […]

The post Ngũ phúc, tri túc, cảm ân, thiện lương first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
– Bàn về sự nghiêm túc của hôn nhân

Bài viết của đệ tử Đại Pháp hải ngoại

[MINH HUỆ 19-02-2024]

Lời nói đầu

Đạo đức xã hội ngày một sa sút, những năm gần đây hiện tượng ly hôn tái hôn xung quanh ngày càng nhiều, mọi người phổ biến đã quen và không lấy làm lạ nữa. Có người cảm thấy rằng, không chung sống được với nhau thì ly hôn tốt hơn. Có người cảm thấy ly hôn tái hôn là cuộc sống riêng tư và tự do cá nhân. Bất giác khiến tôi cảm thấy con người ngày nay không còn như xưa, hôn nhân cũng bị coi là một hàng hóa, hễ không vừa ý là muốn trả lại, đổi hàng. Hiện tượng thay lòng đổi dạ cũng trở thành trào lưu.

Tôi nghĩ, những người như thế này, rất nhiều người không biết đạo lý nhân quả nghiêm túc, vì vậy tôi viết bài viết này, nhắc nhở đồng tu và những bạn độc giả còn chưa tu luyện về sự nghiêm túc của hôn nhân.

Ngũ phúc

Người xưa cho rằng, con người có Ngũ phúc, một là Trường thọ, hai là Phú quý, ba là Khang ninh, bốn là Hảo đức, năm là Thiện chung. Quan trọng nhất là phúc thứ 4: Hảo đức. Bởi vì đức là nguyên nhân và gốc rễ của phúc, phúc là kết quả và biểu hiện của đức.

Trong Ngũ phúc đương nhiên không bao gồm hôn nhân, càng không có tình yêu, càng không có những cái như dung mạo đẹp mà người hiện đại rất coi trọng. Từ đó có thể thấy giá trị quan của người xưa là: Thân thể khỏe mạnh, ăn mặc no đủ, phẩm đức tốt, trường thọ thiện chung, chính là có phúc rồi, không tham cầu nhiều hơn nữa.

Xã hội hiện đại, rất nhiều người có tiền nhưng không hạnh phúc, tham dục không thỏa mãn, không có phúc hưởng sự khỏe mạnh và yên ổn. Một số người nổi tiếng tuổi tác đã cao còn khát khao “cuộc sống tình cảm”, nên lúc thì ở trạng thái tình yêu mới, hạnh phúc không gì bằng, lúc lại ở trạng thái thất tình, trầm cảm. Những người như thế này, thực tế đã rời xa hạnh phúc rồi. Có người quan sát thấy những người yêu sớm, đồng tính luyến ái, ngoại tình, nghiện ma túy mắc chứng trầm cảm chiếm tỷ lệ cao. Đây có lẽ cũng là 1 thương thức mà Thượng Thiên trừng phạt con người.

Người xưa coi hôn nhân là có quan hệ nhân quả, coi trọng lệnh của cha mẹ, lời nói của người mai mối, chứ không sùng chuộng “tình yêu”. Người hiện đại không biết là vận mệnh đã được an bài trước, tự định nghĩa hạnh phúc là cảm giác tốt, tìm được đúng người. Nhiều lần yêu đương, ở chung trước khi kết hôn, ngoại tình, ly hôn tái hôn, tìm người yêu giống như lựa chọn món hàng. Thậm chí còn có lý luận rằng, nhiều lần yêu giúp nâng cao chỉ số EQ chọn bạn đời.

Quan niệm truyền thống cho rằng, chỗ dựa của hạnh phúc là đức mà bản thân mình tích lũy, hành thiện mới là gốc rễ của việc cầu phúc. Vì dục vọng cá nhân mà không từ thủ đoạn, thì chỉ có tác dụng ngược lại. Sau đây, chúng ta hãy cùng xem một số câu chuyện chân thực.

Câu chuyện của nữ minh tinh Hollywood

Sắc đẹp tuyệt trần của nữ minh tinh Hollywood F. được mọi người miêu tả là “tác phẩm nghệ thuật của Thượng Đế”, lời đánh giá của ban giám khảo khi trao giải Oscar cho cô là “Cô ấy có sắc đẹp như thế này, hoàn toàn không cần kỹ năng diễn xuất như thế này. Cô ấy có kỹ năng diễn xuất như thế này, hoàn toàn không cần có sắc đẹp như thế này”.

Cô kết hôn sinh được cô con gái, nhưng sau đó lại rơi vào cuộc tình nồng thắm với nam diễn viên A, người đã có gia đình. Thế là cả 2 ly hôn rồi kết hôn với nhau, F cũng đạt được đỉnh cao của sự nghiệp, giành giải Oscar. Nếu thời gian dừng lại ở đây, thì đây sẽ là câu chuyện “thành công” chủ động thay đổi vận mệnh, lấy người mình yêu.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Sau này F mắc bệnh tâm thần phân liệt. A – người đã viết cho cô vô số bức thư tình, đã vứt bỏ cô, cưới một nữ diễn viên trẻ. Có lẽ đây chính là giọt nước làm tràn ly, F đã rời bỏ thế gian trong sự bi thảm thê lương. Có người lên án A tuyệt tình. Thực ra cách làm của A phù hợp với phương thức làm người của anh ta. Anh ta đã vì dục vọng cá nhân (có được F) mà đã vứt bỏ vợ. Những người không rời xa người vợ bệnh tật của mình, thì phải thực sự chịu đựng gian khổ. A không phải là người như vậy.

Giả sử F không tham cầu hạnh phúc lớn hơn nữa mà viết lại “kịch bản mới” vận mệnh mình, mà an phận thủ thường theo “kịch bản cũ”, tức là sống cuộc đời yên ổn êm đềm với người chồng luật sư, thì đời này đã ít tạo nghiệp, đời sau sẽ tốt hơn. Bởi vì không biết nghiệp lực của ngoại tình, ngoài hiện thế báo ứng ra, phải chăng sau khi chết vẫn tiếp tục trả nợ nghiệp?

Trong “Thần khúc”, Dante miêu tả trải nghiệm ông huyễn du địa ngục, luyện ngục, và Thiên đàng. Ở tầng địa ngục thứ hai, “những người phạm tội tà dâm, để dục vọng lấn át lý trí” chịu “tiêu hình”, thống khổ khóc lóc, vĩnh viễn không được yên.

Lại nói, trong phúc phận của F, đã thiếu điều then chốt nhất: Hảo đức, nên mới phá hỏng ván bài đẹp. Biểu hiện điển hình của quan niệm hiện đại là, theo đuổi danh lợi không từ thủ đoạn, hoàn toàn không nghĩ cho người khác. Có bình luận về F rằng: “Sống bởi sắc đẹp, chết bởi tính cách”.

Các nữ vương trong địa ngục

Trong Thần Khúc, Dante đề cập đến những vong linh bị hủy bởi sắc dục, trong đó có rất nhiều các nữ vương của các dân tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, ví dụ như nữ vương Semiramis của Assyria, Nữ hoàng Dido của Carthage, Thái hậu Cleopatra của Ai Cập, còn có vương hậu Helen của Sparta, và Paris – người đã yêu và bắt cóc Helen, gây ra cuộc chiến thành Troy 10 năm, ngoài ra còn có cả ​​Tristan – người đã yêu người thím của mình là Isolde.

Trong đó đặc biệt đề cập đến một đôi danh nhân chết vì yêu. Tiểu thư quý tộc Francesca bị cha cô – người vì liên minh chính trị, đã gả cô cho người chồng quý tộc què, xấu xí, tàn nhẫn thô bạo. Em trai chồng cô là Paul – một chàng trai trẻ đẹp. Em chồng chị dâu yêu nhau, bị người chồng giết chết cả hai. Sau khi chết, do tà dâm, họ đã bị đọa địa ngục tầng thứ 2 (tầng tham sắc), bị trừng phạt.

Theo quan niệm hiện đại, có lẽ rất nhiều người sẽ cảm thấy Francesca có thể tha thứ, nhưng tiêu chuẩn của Thần lại khác, hôn nhân dù không được như ý thế nào đi nữa, cũng không phải là lý do ngoại tình. Hôn nhân không như ý là nợ nghiệp do quá khứ đã tạo ra, không nhận nợ, không muốn trả, đấu tranh chống lại mệnh, tiếp tục tạo nghiệp, thì có thể phải xuống địa ngục hoàn trả.

Dante còn đối thoại với linh hồn của Francesca, tìm hiểu tình yêu của họ ẩn trong tâm mà vẫn chưa nói ra, làm thế nào mà 2 người lại nhận ra. Francesca nói rằng, tình gian của cô và Paul bắt đầu từ một lần đọc sách. Trong vườn hoa, 2 người cùng đọc cuốn sách “Lancelot trên hồ”. Launcelot là Hiệp sĩ bàn tròn thứ nhất của Vua Arthur, anh ta đã mê mẩn yêu hoàng hậu Guinevere. Trong một lần gặp nhau trong vườn, anh ta đã “bị tình yêu bắt làm tù binh”, hôn hoàng hậu. Sau khi đọc xong, Francesca và Paul cũng có cảm giác tương tự và đã hôn nhau, do đó đã phạm phải một tội lỗi lớn.

Phan Kim Liên không quyến rũ được Võ Tòng

Câu chuyện tình yêu chị dâu em chồng giữa Francesca và Paul, khiến chúng ta nhớ đến một người em chồng và một người chị dâu ở Trung Quốc, và người ta không khỏi tán thán trước sự bảo vệ mà văn hóa truyền thống dành cho con người.

Phan Kim Liên không thể quyến rũ được Võ Tòng vì phép tắc đã ăn sâu vào tâm khảm của người dân trong xã hội truyền thống Trung Quốc rất nghiêm ngặt – “em chồng chị dâu không được hỏi han trò chuyện”. Ngày xưa, em chồng và chị dâu không bao giờ có thể ngồi cùng nhau và đọc sách (nói gì đến những cuốn sách có nội dung như thế). Phan Kim Liên đã nói những lời “không đúng phép” với Võ Tòng, nên Võ Tòng đã bỏ nhà ra đi. Cặp đôi “em chồng chị dâu ngoại quốc” thực sự đã cùng nhau đọc “những câu chữ không đúng phép” trong cuốn sách.

Lời khuyên hữu ích của Dương Giáng

Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những thay đổi trong não sau khi yêu cũng tương tự như sau khi dùng ma túy. Có người nói, người dễ yêu đương đối xử với người khác giống như thuốc phiện, khi không còn cảm giác gì nữa, họ chuyển sang loại khác, luôn theo đuổi sự kích thích tinh thần. Những người ngoại tình thường vui mừng vì tìm thấy “tình yêu đích thực”, nhưng thực ra họ đã chọn lọc được những người ích kỷ, có chuẩn mực đạo đức thấp.

Dương Giáng từng nói: “Ngoại tình giống như hai người bệnh, tưởng tìm được thuốc tốt, kỳ thực lại tìm được thuốc mê. Khi thuốc hết tác dụng, sẽ đau hơn trước, thậm chí có thể gặp phải thuốc độc giết chết mình”.

“Hồng nhan bạc mệnh”

Hai nữ diễn viên X và F đều từng rất nổi tiếng một thời, nhưng cuộc đời của họ lại hoàn toàn khác nhau.

X cũng sở hữu một vẻ đẹp tuyệt trần. Sau khi kết hôn, cô cự tuyệt sự theo đuổi tận tụy của một tài tử si tình. Cô không có scandal, sống hạnh phúc với chồng cho đến tuổi già, cuộc sống của cô trôi chảy và ổn định. Đánh giá của mọi người về X là “Sắc đẹp là lợi thế, sống đẹp là tài năng”, và “Cô ấy là người thanh tỉnh trong chốn nhân gian”.

Tục ngữ nói “Hồng nhan bạc mệnh”. Tôi thấy rằng số phận không ưu ái những người phụ nữ xinh đẹp, bởi vì theo một góc nhìn nào đó, phụ nữ đẹp mang đến những thách thức lớn hơn. Bởi vì họ sẽ thu hút nhiều người theo đuổi, bao gồm cả những kẻ tồi tệ, và tất nhiên là cả những người đàn ông có nhân cách tốt, nhưng những kẻ tồi tệ thường có dục vọng mãnh liệt hơn, và sẽ làm mọi cách để giành được người đẹp, và họ sẽ liều mạng theo đuổi. Trong khi đó, nhiều người đàn ông có nhân cách tốt đa số là tùy duyên và chấp nhận số phận của mình. Họ trung hậu và thiện lương, sẽ không cố gắng sống chết đeo bám.

Có vẻ như những người phụ nữ đẹp phải giữ cho đầu óc thanh tỉnh để loại bỏ những kẻ tồi tệ, và sống một cuộc sống ổn định. Giống như nữ diễn viên X, cô từng nói rằng cô thích sự trung thực của chồng mình, muốn học hỏi khả năng nhận biết người, và giao phó cuộc đời của mình cho họ. Những gì cô lựa chọn không phải là “đam mê” mà là sự trung thực. Sự khác biệt giữa cô và F – người theo đuổi “đam mê” đã được tạo ra, và tầng thứ vận mệnh đi theo 2 hướng khác nhau. Nhiều ngôi sao nữ của thế hệ X cũng vì “não tình” mà phải lòng trai hư, sau đó số phận quá bi thảm, có người tự tử, có người phát điên, quả thực chứng minh câu nói “Hồng nhan bạc mệnh”.

Tuy nhiên, thực sự không dễ để những người đang trong vinh quang có thể giữ được đầu óc minh mẫn. X là một siêu sao vô song trong thời đại của mình. Theo cách nói ngày nay, đẹp không diễn tả nổi, và cực kỳ nổi tiếng, nhưng cô không bao giờ bị cuốn đi. Bất kể người khác ngưỡng mộ cô đến mức nào, cô không bao giờ mê lạc, tự luyến hay lạc lối. Có bao nhiêu người có thể làm được điều đó? Chẳng trách cô ấy có cuộc sống tốt đẹp. Cô không chỉ là một nghệ sĩ có đạo đức nghệ thuật, mà còn là một người vợ có phụ đức. Hiểu rõ các quy tắc của trò chơi kịch tính cuộc đời, nghiêm túc với cuộc sống thay vì đùa giỡn với nó. Một cuộc sống tốt đẹp đến từ việc tuân thủ các quy tắc, không thực hiện những hành động không theo thông lệ. Trên thực tế, điều này cũng phù hợp với quan niệm truyền thống của con người. Luôn khiêm tốn. Con người sống giữa trời và đất, vì vậy đừng bao giờ quá coi trọng bản thân mình.

Huệ kiếm phá giả tượng

F sống hưởng thụ, muốn làm gì thì làm, cụm từ “lợi dụng sắc đẹp làm dữ” có lẽ ám chỉ loại người này. Vẻ đẹp là con dao hai lưỡi. Đừng quá đắc ý lố bịch và làm tổn thương chính mình. Nói về kiếm, bài viết “Cẩn thận với sắc dục (IV)” của Minh Huệ có đề cập đến “Cửu kiếm trảm sắc”. Bài viết có đoạn: “Trong thế giới tà ác này, đối mặt với sự cám dỗ của khiêu dâm, có bao nhiêu người có thể vượt qua được thử thách này? Có bao nhiêu người không bị mê loạn? Có chín thanh kiếm trí tuệ, và tôi muốn giúp một tay.” Tôi đã chọn ba thanh kiếm trong số đó để chia sẻ với bạn:

“Phá thanh thuần: nụ cười ngọt ngào với trăm nét quyến rũ, cái nhìn e thẹn quay lại, là hình ảnh trong sáng nhất, và là hấp dẫn nhất đối với những người bị ám ảnh bởi dục vọng nhưng vẫn giữ được sự trong sáng. Tuy nhiên, ai biết rằng một chút tử tế trôi nổi trên khuôn mặt, và bao nhiêu ham muốn xấu xa ẩn chứa trong lòng? Tôi hy vọng bạn có thể nhìn thấy khuôn mặt thật bằng đôi mắt sắc bén của mình, và không bị mê hoặc bởi hoàn cảnh bên ngoài.”

“Phá tài nghệ: Ngày xưa, người ta dâng tặng mỹ nữ, ắt phải đào tạo mỹ nữ thành thạo tài nghệ. Từ đó, chúng ta có thể thấy tác dụng của tài nghệ trong việc nâng cao vẻ đẹp. Tao nhân mặc khách thường có điểm yếu này, những kẻ sĩ nho nhã đạo đức cũng bị ảnh hưởng bởi nó. Chúng ta nên biết rằng đức hạnh lớn không thể hiện qua tài nghệ, những người bám vào tiểu thuật sẽ đánh mất đại đạo”.

“Hủy tuyệt sắc: thuốc độc pha mật, cũng có thể làm hại thân thể; sắc họa ngụy trang thành sắc đẹp cũng có thể làm hại tâm. Người ta gọi người tuyệt sắc là hoa mẫu đơn, Phật gọi là hoa kiếm. Nếu nó thấm vào tủy xương của một người, người đó sẽ chết mà không biết oán hận.”

Cần phải có trí tuệ để nhìn thấu giả tượng. Người có tài nghệ và tuyệt sắc, không chỉ dễ thu hút người khác giới, mà còn khiến bản thân họ mê hoặc chính mình, cảm thấy mình đẹp hơn mọi người, và có tài nghệ hơn mọi người. Khi có những suy nghĩ không đúng phép về người khác giới, thường có tâm trạng phấn chấn. Sự kiêu ngạo sẽ che lấp trí tuệ, và tạo điều kiện cho những suy nghĩ xấu xa lợi dụng cơ hội xâm nhập.

Một câu chuyện Phật giáo kể rằng, có một hoàng hậu “rất xinh đẹp và quyến rũ, chỉ không đẹp bằng Tiên nữ thôi, nhưng vượt trội hơn tất cả những người phụ nữ khác”. Bà và nhà vua rất yêu thương nhau. Sau khi bà mất, Bồ Tát nói với nhà vua đang buồn bã rằng: “Vì cô ấy quá tự mãn về vẻ đẹp của mình, sống một cuộc sống phóng túng và không làm việc thiện, cô ấy đã tái sinh trong công viên này thành một con bọ hung”. Có một câu nói: “Tất cả những món quà mà số phận ban tặng đã được đánh dấu một cách bí mật bằng một cái giá”. Chúng ta chỉ có thể biết ơn, quý tiếc phúc, khiêm tốn cung kính, và tự lo cho mình.

Những ý nghĩ xấu xa cũng mang lại tai họa

Có hai câu chuyện trong “Đức dục cổ giám”. Một câu chuyện kể rằng một thư sinh ở Thường Châu cảm thấy mình có tài văn chương tuyệt vời, và được bạn bè khen ngợi. Anh ta trở về nhà trong tình trạng say xỉn vào ban đêm, và có một vọng tưởng trong đầu: “Nếu tôi đỗ kỳ thi, tôi sẽ cưới con gái hàng xóm là A Canh làm thiếp”. Một người chép sách cho người khác, đã bị thổ Thần bắt hồn vào đêm đó. Anh ta nhìn thấy trên sách có ghi tên thư sinh và có dòng chữ đỏ phê rằng: “Mặc dù suy nghĩ là vọng tưởng, nhưng tình hình thực sự là do con người gây ra. Vì vọng tưởng của mình, anh ta sẽ bị trừng phạt bằng cách bị đóng băng và đói một ngày tại trạm dịch Tùng Lăng vào ngày mười bảy tháng giêng”. Thư sinh thực sự đã trải qua nạn này, và gần như chết vì đói và lạnh.

Một câu chuyện khác kể rằng Lý Sinh đang ở trong một quán trọ khi tham gia kỳ thi. Chủ quán trọ rất nhiệt tình với anh, và nói rằng ông ta đã mơ thấy Thần Thổ địa đêm qua đến và nói rằng, “Ngày mai sẽ có một thư sinh tên là Lý sẽ là người đỗ đầu trong kỳ thi. Ông nên đối xử tốt với anh ta.” Lý Sinh rất vui mừng, nghĩ rằng anh đã cưới vợ khi anh nghèo khó, rằng anh nên ly hôn và tái hôn sau khi trở thành quan. Ngày hôm sau, chủ quán mơ thấy Thần Thổ địa nói: “Người thư sinh này tâm địa xấu xa, muốn bỏ vợ trước sau khi thi đỗ. Lần này anh ta thi trượt rồi!”. Đúng như dự đoán, Lý Sinh trở về nhà trong sự nhục nhã.

Là một con người, cần phải sống theo lương tâm của mình, giống như câu nói người xưa: “Không có điều gì là không phải với người khác, và không có điều gì là không thể nói với Trời”.

Kiêu ngạo là gốc rễ của mọi điều xấu xa

F bị hủy hoại bởi sắc dục, đồng thời bị hủy hoại bởi lòng kiêu ngạo, trong khi X lại được ích lợi vì không kiêu ngạo.

Nhiều cô gái “cậy nhan sắc làm càn” thường rất tự mãn với nhan sắc của mình và coi thường người khác. Đàn ông cũng vậy, nhiều người trong số họ cậy tài năng mà kiêu ngạo và coi thường người khác.

Những người kiêu ngạo đều có một điểm chung: họ nghĩ rằng “lợi thế” của họ là thứ họ sẽ có mãi mãi, và do đó họ xem “lợi thế” của mình quá tuyệt đối. Nhưng chúng ta quên rằng, mọi thứ trên thế giới đều luôn thay đổi, và cuộc sống đang thay đổi nhanh chóng. Chúng ta nên có cái tâm kính úy, không được cuồng vọng tự cao tự đại.

Có câu nói: “Hiểu được vô thường thì sẽ không khoa trương”.

Tẩy não trong tác phẩm văn học

Khi tôi còn nhỏ, phim tình cảm rất thịnh hành, và giáo dục người ta những giá trị của danh vọng và tiền bạc. “Đạo đức giá bao nhiêu một cân” là sự phản ánh suy nghĩ nội tâm của nhiều người. Tôi bị nhồi nhét ý tưởng rằng tình yêu là giá trị cao nhất, vượt qua hôn nhân và đạo đức. Nhân vật chính trong các bộ phim tình cảm đều “quyến rũ” và “xinh đẹp”, điều này khiến mọi người dễ bị tẩy não bởi ngụy biện này khi thưởng thức bộ phim, tin rằng khái niệm duy trì hôn nhân là vô đạo đức và vô nhân đạo.

Người xưa dùng câu “tôn trọng nhau như khách” để miêu tả một cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng tôi thường cảm thấy người xưa thật nhàm chán và cứng nhắc, thiếu nhân quyền và tự do. Sau đó tôi phát hiện ra rằng con người hiện đại rất tự do nhưng lại ngày càng xa rời hạnh phúc. Có thể thấy rằng, phép tắc đạo đức không hạn chế con người mà còn bảo vệ họ, giống như lan can trên đường cao tốc quanh co bảo vệ xe khỏi bị ngã. Những nguyên tắc cũ như “nam nữ khác nhau” thực ra không bao giờ lỗi thời. Tốt nhất là bạn nên cố gắng tuân theo chúng và xây dựng cho mình một hàng rào để bảo vệ bản thân khỏi những sai lầm.

Nhiều thập kỷ trước, mọi người thích những người trung thực. Những người phù phiếm, dù có tài năng hay xinh đẹp đến đâu, đều bị coi là “không đứng đắn”. Những người có quan hệ tình cảm đa tình sẽ bị chỉ trích là có “tác phong xấu”. Nhiều thập kỷ sau, những người trung thực thậm chí còn trở thành đối tượng chế giễu. Khi tìm kiếm một người bạn đời, họ coi trọng “sự quyến rũ” và “đam mê”, nhưng thực tế họ lại chọn những người tham lam và ích kỷ. Như câu nói, “sau khi lựa chọn chán chê, họ chọn một chiếc đèn dầu bị rò rỉ”. Có người đã kết hôn, nhưng lòng lại như cỏ dại, khát vọng cảm giác kích thích của tình cảm đôi bên, chẳng phải là những người trước kia bị chê cười là “không đứng đắn” sao? Về bản chất, đó là một kẻ nghiện sắc tình.

Tác phẩm văn học nghệ thuật hiện đại kích thích lòng người bằng những tình tiết bí ẩn, “giải cơn khát” và khiến con người nghiện thuốc phiện tinh thần, nhưng họ quên rằng nghệ thuật cao hơn cuộc sống. Họ biến những câu chuyện trên màn ảnh thành hiện thực và theo đuổi “tình yêu” ngoài hôn nhân, tương đương với việc nhận được một tấm vé xuống tàu hỏa địa ngục. Một số người thậm chí còn phát triển tính cách kịch tính, coi cuộc sống như một giấc mơ và thiếu nhận thức rõ ràng và lý trí về thực tế. Nhiều khoảnh khắc “đẹp” của “phim tình cảm kinh điển” đã in sâu vào lòng người: vẻ đẹp mê hồn của nụ cười quyến rũ, vẻ đẹp sâu lắng của đôi mắt ngấn lệ, những tình tiết “kinh thiên động địa”… Người ta không thể quên những ký ức tuổi thơ, ký ức tuổi trẻ này, và kết quả là chúng cũng in sâu vào lòng người những giá trị hiện đại, kích hoạt suy nghĩ của người ta về tình yêu và là vũ khí hủy diệt con người một cách mạnh mẽ.

Viết sách cũng bị báo ứng?

Câu “Người yêu rồi sẽ cưới” xuất phát từ “Tây tương ký”. Cuốn sách này khiến nhiều người sinh ra tà niệm, dục vọng. Tác giả Vương Thực Phủ chịu quả báo, cắn lưỡi mà chết. Trên thực tế, câu nói này theo quan niệm truyền thống là sai. Người xưa cho rằng hôn nhân là do nhân quả, con người phải trân trọng số mệnh và phúc phận, không giống với quan niệm “tình yêu là quan trọng nhất” của người hiện đại.

“Tình yêu không biết từ đâu mà đến, nhưng càng ngày càng sâu.” Câu nói quen thuộc này thực ra là tựa đề của “Mẫu Đơn đình”. Cuốn sách miêu tả tình yêu nồng cháy giữa một người đàn ông và một người phụ nữ bằng những từ ngữ hoa mỹ, khiến nhiều người lầm tưởng rằng đi ngược lại đạo đức và theo đuổi tình yêu là tao nhã. Sau khi tác giả Thang Hiển Tổ qua đời, có người chết rồi sống lại đã nhìn thấy ông ấy ở âm phủ, đau đớn như thể da bị xé toạc.

Tự phản tỉnh

Tôi đã từng mơ về một tình yêu nồng cháy, nhưng thực ra tôi chỉ khao khát lấp đầy trái tim trống rỗng và phù phiếm của mình bằng đam mê và lời khen ngợi. Thực ra, tôi chỉ muốn trải nghiệm “tình yêu” và tận hưởng việc được yêu thương và trân trọng. Tôi không quan tâm đối phương là ai. Về bản chất, tôi không yêu đối phương mà là chính mình. Đối phương có phải cũng giống vậy không? Cả hai người họ có vẻ rất thích thú với vở kịch và không hề quan tâm đến việc ai sẽ đóng vai đối phương. Nhưng tôi đã từng tin rằng có người ngưỡng mộ tôi và có người không thể quên tôi. Đây là một ý tưởng tự luyến lố bịch xuất hiện sau khi trí tuệ của tôi bị che mờ.

Trước đây, tôi cảm thấy nền tảng tình cảm của cuộc hôn nhân của mình không sâu sắc, chỉ có cuộc hôn nhân nào trải qua tình yêu nồng cháy mới có nền tảng tình cảm tốt. Trên thực tế, nhiều ví dụ hoàn toàn ngược lại. Nhiều người “đam mê” chuyển từ “yêu” sang “giết nhau”, trong khi những cặp đôi trung thực và bình tĩnh thì hạnh phúc. Một số người thích sự phấn khích và không có tâm lý tận hưởng cuộc sống bình yên. Họ sẽ không cảm thấy thoải mái cho đến khi họ cạn kiệt tất cả những phước lành của mình. Bản thân tôi cũng gần như đã đi theo con đường này. May mắn thay, sau khi tôi tỉnh táo lại, tôi trân trọng cuộc hôn nhân của mình từ tận đáy lòng. Tôi đã chuyển từ việc không thích chồng mình sang đối xử với anh ấy bằng sự tử tế và tôn trọng từ tận đáy lòng. Chúng tôi cũng đã chuyển từ việc không thích nhau sang sống hòa thuận. Điều này cho thấy rằng giải quyết bất bình là cách tốt nhất để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, thay vì tìm kiếm cái gọi là “người phù hợp”.

Các cặp đôi trong hôn nhân không thường xuyên khen ngợi nhau. Lời khen từ người ngoài sẽ khiến họ cảm thấy người khác hiểu mình hơn. Đây là một ngụy biện do thích nghe những lời hay ý đẹp. Lời khuyên chân thành có thể gây khó chịu, nhưng chỉ những người chỉ ra khuyết điểm của bạn mới thực sự đối xử tốt với bạn. Họ sẽ không nịnh hót, lừa dối hay mong đợi bất cứ điều gì từ bạn. Một số cặp đôi từng có mối quan hệ ngọt ngào, nhưng theo thời gian, họ bắt đầu coi thường nhau, cãi vã và có chiến tranh lạnh. Tôi nghĩ rằng phần lớn điều này là do họ quá tham lam tình yêu và quá háo hức được khen ngợi và trân trọng, và trở nên bất mãn nếu không có được nó.

Ngôn ngữ chung? Hay đó là điểm yếu chung của con người?

Những người nghĩ rằng họ có “ngôn ngữ chung” thực ra có chung một điểm yếu của con người – lòng tham danh vọng, tiền bạc và tình yêu. Trong quá trình tương tác, họ dành cho nhau những lời khen ngợi và thích thú, sự quan tâm và tình yêu, ham muốn và thể hiện màu sắc, v.v. Đây không phải là tất cả những tình tiết trong phim tình cảm lãng mạn sao? Ẩn sau vẻ ngoài của “tình yêu đích thực” là sự thể hiện rõ nét sự yếu đuối của con người. Nhưng bản thân tôi trong quá khứ đã không nhìn thấu điều này, và cảm thấy rằng những chủ đề chúng tôi nói đến đều cao quý và chứa đầy vẻ đẹp của bản chất con người. Nhưng đẹp chỉ là vẻ bề ngoài, tà ác sẽ không hiện ra trước mắt người khác, ngay cả khi Bạch Cốt Tinh gian ác, cũng phải cải trang thành một người tốt bụng và xinh đẹp, cũng bởi vì như vậy, sự hỗn loạn càng thêm mãnh liệt. Như đã đề cập trong bài viết trước, “Một chút tử tế hiện lên trên khuôn mặt, nhưng nhiều điều xấu xa ẩn chứa trong trái tim.”

Những người ngoại tình thực chất là đang tự chuốc họa vào thân, họ loại bỏ những người lương thiện, chỉ tìm kiếm những người có lòng tham mãnh liệt. Những người đã trải qua điều đó đều hối hận về quyết định của mình, nhưng những người đến sau vẫn lao vào tình huống tương tự như thiêu thân lao vào ngọn lửa, tin rằng mình có sức hấp dẫn riêng. Sự kiêu ngạo của họ ngăn cản sự khôn ngoan của họ, và họ bỏ qua bản chất xấu xí của con người đằng sau sự thiếu đạo đức. Điều này cũng liên quan đến việc tẩy não các bộ phim tình cảm lãng mạn, lợi dụng lòng kiêu hãnh của con người, và khiến họ cảm thấy mình hiếm hoi và quý giá như các nhân vật trong phim, và xứng đáng được coi là tình yêu duy nhất. Đừng bao giờ tin rằng bạn là “độc nhất và tuyệt nhất”. Hãy chú ý đến những lời tốt đẹp mà bạn nghe được, và cảnh giác với sự cám dỗ của những lời khen ngợi.

Vạn ác dâm vi thủ

Văn Xương Đế Quân nói: “Trời thường giáng họa cho những kẻ háo sắc tham dâm, quả báo rất nhanh. Một số kẻ ngu si, mê muội như đang nằm mơ, không biết sợ. Nếu buông thả bản thân mà không kiểm soát hành vi, bất cứ lúc nào cũng sẽ gặp họa.”

Ngày nay, chúng ta đang sống trong “thời kỳ hỗn loạn” được mô tả trong một bài hát nào đó, khi đen và trắng đảo ngược, ma quỷ hoành hành, sự trụy lạc và xa hoa, và đạo đức sụp đổ. Trong số những người có vấn đề về sắc dục, có nhiều người thuộc tầng lớp “thượng lưu” có năng lực và phong độ, thậm chí một số người còn nghĩ rằng họ có nhân cách tốt. Nhưng không một người thực sự trung thực nào lại có bất kỳ ý nghĩ xấu nào về vấn đề này. Một số người trong phim tình cảm lãng mạn cũng thể hiện những đức tính đạo đức như lòng dũng cảm và chính nghĩa, nhưng họ lại thực hiện những mối tình vụng trộm. Đạo đức đó là giả tạo. Sắc là lửa thử vàng của đạo đức.

Càng đọc nhiều truyện về nhân quả, tôi càng kính trọng luật Trời: một người bị Thần tước mất công danh vì lời nói cuồng vọng của mình, được thể hiện dưới dạng “ngẫu nhiên”: anh ta đạt điểm hầu như tuyệt đối trong tất cả các bài thi, nhưng có một bài bị “than đèn” vô tình đốt cháy nửa trang, và không thể nộp bài được. Một thư sinh nọ bị Thần tước mất công danh vì đã viết một thỏa thuận ly hôn cho người khác. Trước đây, tôi không biết trước đây anh ta đã làm sai điều gì. Trên thực tế, chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn và đã đi quá xa khỏi con đường đúng đắn. Những câu chuyện này là sự mặc khải cho chúng ta về tiêu chuẩn khen thưởng và trừng phạt của Thần. Sau đó tôi nhận ra rằng việc ly hôn là trái với ý Thần, không phù hợp với truyền thống, và ngay cả những người giúp đỡ cũng sẽ có tội. Sau đó, vị thư sinh này đã thuyết phục được hai người tái hôn, và sự nghiệp của anh ta đã thăng tiến nhanh chóng. Sau đó, anh ta đã làm trung gian hòa giải trong mọi vụ ly hôn và cứu được nhiều gia đình. Chẳng trách có câu nói: “Thà phá mười ngôi chùa còn hơn phá một cuộc hôn nhân”. Người xưa tin rằng hôn nhân là “sự sắp đặt của Trời”, là sự sắp đặt của Thần và không nên tùy tiện phá hủy.

Chuyển họa thành phúc

Trong “Thái Thượng cảm ứng thiên hội biên”, có một câu chuyện về “sửa lỗi khuyến thiện, chuyển họa thành phúc”. Trích đoạn tóm tắt như sau:
Yên Huệ An trước kia là một kẻ phù phiếm, phóng đãng, thường lui tới các khu đèn đỏ. Anh gặp một người đang phát sách khuyến thiện trên phố. Anh thấy đó là “Cảm ứng thiên” và “Âm Chất Văn”. Anh sửng sốt khi mở ra đọc. Anh đột nhiên hối hận: “Những hành vi được mô tả trong cuốn sách này giống hệt như của tôi. Dường như chúng được viết về tôi. Tôi thật ngu ngốc! Tôi thật không xứng đáng! Các Thánh nhân cổ đại đã cảnh báo về việc tà dâm, và dạy bảo một cách nghiêm túc, nhưng tôi lại tham lam và không từ bỏ nó. Tôi không biết những điều cấm kỵ. Tôi thực sự đã phá hỏng chính mình!”

Ngày hôm đó, anh thắp hương và quỳ xuống cầu nguyện, thề sẽ không bao giờ phạm tội tà dâm nữa. Anh cũng thề sẽ in và phát hành một ngàn bản sách khuyến thiện như vậy để chuộc lại tội lỗi đã phạm phải. Anh đã thực hành từng điều một và thực sự đã giáo hóa được nhiều người ở nhiều độ tuổi khác nhau. Vì Yên Huệ An đã kịp thời ăn năn và tích cực khuyên bảo người khác làm điều thiện, nên ông không những sống lâu mà con cháu của ông còn đều là những người cao quý. Việc làm điều tốt và sửa đổi là rất quan trọng. Đúng là “Thiên Đạo trừng phạt những kẻ tà dâm mà không ăn năn hối cải tội lỗi của mình”.

Ăn năn và sửa chữa

Lừa dối người khác thì dễ, lừa dối chính mình thì không khó, nhưng lừa dối Thần thì không thể. Tôi hiểu rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc nhỏ mình làm, và cân nhắc động cơ của mình; sau khi chết, chúng ta sẽ biết rõ ràng những việc mình làm là tốt hay xấu. Trong một số câu chuyện nhân quả, khi bị các quan âm phủ thẩm vấn, người ta hoàn toàn không thể chối cãi hay bào chữa, vì mọi thứ đều được phơi bày rõ ràng vào thời điểm đó.

Mặc dù không thể nhìn thấy chiều không gian khác, nhưng càng nghĩ, tôi càng kinh hãi. Nếu tôi thực sự nhìn thấy mọi thứ diễn ra trong tương lai, tôi sẽ thấy mọi suy nghĩ được xem xét như thế nào, một suy nghĩ xấu sẽ dẫn đến điều gì, nhiều suy nghĩ xấu xa sẽ tích tụ thành… Sau khi tôi thực sự nhìn thấy, tôi có hối hận vì đã ngu dốt và không sợ hãi trong thế giới hỗn loạn này không? Như câu nói: “Biết trước đáng giá ngàn vàng, nhưng hối hận đáng giá vạn vàng”.

Trong một câu chuyện, một thư sinh đã gặp một nhóm ma và hỏi tại sao họ không ăn năn và tìm kiếm sự cứu rỗi. Ma nói: “Trước khi chết, phải sám hối. Sau khi chết, thì không thể làm gì được nữa.” Một con ma cảnh báo thư sinh: “Chúng tôi, những con ma đói, đã uống rượu của anh nhưng chúng tôi thực sự không có cách nào để đền đáp anh, chỉ có thể tặng anh một câu: ‘Hãy sám hối khi vẫn còn sống.’”

Nhân đây, tôi cũng muốn khuyên những người bạn của tôi rằng, đừng bao giờ coi nhẹ vấn đề này, vì điều tương tự cũng áp dụng cho những ý nghĩ xấu xa trong lòng bạn. Mắt Thần như điện, không một ý nghĩ nào có thể thoát khỏi ánh mắt của các Ngài. Chúng ta không chỉ nên nhận thức được sự xấu hổ của mình và sửa chữa, mà còn phải cố gắng hết sức để thuyết phục người khác không phạm tội. Đây vừa là việc tốt vừa là sự chuộc lỗi cho những lỗi lầm của chúng ta.

Nam nữ thụ thụ bất thân

Có một câu chuyện “Thà rằng khuấy nước ngàn sông, chớ làm động tâm người tu đạo”, kể về một cô gái đã tặng giày cho bốn mươi nhà sư. Vẻ đẹp và phong thái của cô đã thu hút họ. Nhà sư già nói với cô, “Bởi vì hôm nay cô đã gieo nghiệp xấu, cô chỉ có hai lựa chọn: một là cô sẽ đầu thai thành phụ nữ trong bốn mươi kiếp, và kết hôn với mỗi một trong bốn mươi nhà sư đã bị cô thu hút. Họ cũng sẽ đầu thai trong sáu cõi, và bất kể họ được tái sinh ở cõi nào, cô sẽ phải kết hôn với họ theo nghiệp của mình. Thứ hai là cô chết ở đây hôm nay và cắt đứt cái nhân của bốn mươi lần đầu thai này.”

Ngược lại với câu chuyện này, con người không nên hy vọng mình sẽ “hấp dẫn” như một số người hiện nay, mà nên nghĩ cách để tránh “hấp dẫn”, vì sự xáo trộn vô ý trong lòng người sẽ tạo ra nghiệp chướng. Điều này khiến chúng ta nhận thức rõ hơn về sự khôn ngoan của xã hội truyền thống: tránh tương tác với người khác giới là một cách để giảm nguy cơ làm tổn hại đến đức hạnh, gây ra tai họa và xuống địa ngục. Thời xưa có câu “đàn ông lo việc bên ngoài, đàn bà lo việc bên trong”. Nghi thức xã giao thời xưa quy định khu vực hoạt động của nam và nữ phải càng tách biệt càng tốt.

Một số người tự hỏi, làm sao có thể so sánh xã hội hiện đại với thời cổ đại? Trên thực tế, mọi người đều có thể tuân thủ quy tắc “nam nữ thụ thụ bất thân” một cách tốt nhất có thể, và các vị Thần sẽ nhìn thấy rõ lòng tốt trong trái tim chúng ta muốn bảo vệ người khác và chính mình. Mặc dù nam và nữ không còn “tách biệt” về hình thức trong thời hiện đại, nhưng vẫn phải có “rào cản” riêng, và hành vi phải cố gắng phản ánh phép tắc lễ nghi “kính và tránh xa” của sự tôn trọng lẫn nhau. Giống như việc lưu trữ hóa chất, những chất dễ xảy ra phản ứng hóa học nên được giữ riêng để giảm nguy cơ nổ. Điều tương tự cũng áp dụng cho cả nam và nữ. Nếu có “phản ứng hóa học” xảy ra bên trong, sẽ có nguy cơ trượt xuống địa ngục. Giống như việc thắt dây an toàn khi đi ô tô hoặc mặc áo phao trên thuyền. Hầu hết thời gian, không cần phải có những biện pháp này cũng không sao, nhưng đó không phải là lý do để lơ là trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Hôn nhân không tình yêu có phải là vô đạo đức không?

Bạn có thể đã nghe câu nói rằng “một cuộc hôn nhân không có tình yêu là vô đạo đức”. Một số người thậm chí còn nghĩ rằng đây là lý do chính đáng để theo đuổi tình yêu. Trên thực tế, câu này bắt nguồn từ câu nói của Engels: “Chỉ có hôn nhân dựa trên tình yêu mới là đạo đức”. Đây không phải là sự thật mà là một ngụy biện.

Cuốn sách “Ma quỷ đang thống trị thế giới của chúng ta” viết rằng: “Sự dâm đãng là gen cố hữu của chủ nghĩa cộng sản. Marx, người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản, đã cưỡng hiếp một người hầu gái và sinh ra một đứa con để Engels nuôi; Engels sống với hai chị em gái; Lenin, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã ngoại tình với Inessa trong mười năm”; “Những gì Marx và Engels ủng hộ, mặc dù thường sử dụng những từ như ‘tự do’, ‘giải phóng’ và ‘tình yêu’ để che giấu ý nghĩa thực sự của nó, thực chất là sự từ bỏ trách nhiệm đạo đức của con người, cho phép hành vi của con người bị ham muốn hoàn toàn chi phối.”

Hạnh phúc trong cuộc sống không đơn giản chỉ là tình yêu đôi lứa. Sau khi biết được hậu quả của việc ngoại tình, nhiều người thở dài: “Thiên đạo tuần hoàn, không ai có thể thoát khỏi”. Các nhà xuất bản và đài truyền hình kích thích cảm xúc của mọi người vì lợi nhuận, và trong khi họ kiếm được nhiều tiền từ tỷ suất người xem cao, họ cũng gây hại cho khán giả. Nhiều người xem họ mà không biết, thậm chí bắt chước họ, làm tổn hại nghiêm trọng đến phước lành của chính họ, nhưng lại nghĩ rằng họ đang theo đuổi hạnh phúc. Việc theo đuổi một mối quan hệ ngoài luồng không gì khác hơn là mong muốn tìm được một người hợp nhau và hạnh phúc hơn, nhưng tiền đề là những phúc phần khác vẫn không thay đổi trong khi điều này được thêm vào. Nhưng quan điểm truyền thống cho rằng những phúc phần trong cuộc sống đã được định sẵn, và việc làm tổn thương người khác để đạt được nhiều hơn thì kết quả ngược lại.

Sự ích kỷ phải trả giá

Dương Giáng từng nói: “Có người quan hệ bất chính mà mất mạng, có người quan hệ bất chính mà bệnh tật, có người quan hệ bất chính mà mọi chuyện đều hỏng bét, có người quan hệ bất chính mà gia đình tan vỡ.”

Một số cuộc khảo sát đã phát hiện ra rằng, việc tái hôn của cả hai bên trong một cuộc ngoại tình thường tệ hơn so với cuộc hôn nhân trước. Một số người đã phải chịu thảm họa, một số người thất vọng vì đối tác hiện tại tệ hơn nhiều so với người cũ, và nhiều người trong số họ lại lừa dối. Một số bình luận chỉ ra rằng, những người ngoại tình có tiêu chuẩn đạo đức thấp và ích kỷ hơn người bình thường, sau khi ở bên nhau một thời gian dài, những điểm yếu của con người họ sẽ bị phơi bày. Trong thời đại truyền thống, khi tìm kiếm bạn đời, người ta coi trọng tính cách, đạo đức và ý thức trách nhiệm, trong khi ngoại tình coi trọng sự hiểu biết về tình yêu, sự quyến rũ, v.v., mà không cân nhắc đến các nguyên tắc đạo đức và chỉ nói về cảm xúc. Điều này tương đương với việc lựa chọn người thông qua loại trừ ngược, và không cần phải nói rằng họ sẽ phải chịu hậu quả.

Người ích kỷ nghĩ rằng họ rất chu đáo với bản thân, và có thể lợi dụng người khác mà không phải chịu bất kỳ tổn thất nào, nhưng thực tế họ còn rất xa hạnh phúc. Người vị tha nghĩ ít về bản thân nhưng lại hạnh phúc hơn. Hành vi ích kỷ sẽ mang lại hậu quả cay đắng, và một trái tim ích kỷ sẽ dẫn đến sự bất hạnh, bất mãn, tức giận, ghen tị, v.v. Có vẻ như nếu mọi người không chỉ nghĩ đến bản thân mình, họ sẽ không làm điều tốt nhất cho bản thân mình. Niềm vui và nỗi buồn, bất hạnh và hạnh phúc đều do trời quyết định. Trong mọi việc, chúng ta nên suy nghĩ xem hành động của mình có phù hợp với quy luật tự nhiên hay không.

Một hiện tượng thú vị là ngay cả trong ngành giải trí hiện đại với những cảnh quay quyến rũ và cuộc sống về đêm, về lâu dài, những ngôi sao nam và nữ thành công trong sự nghiệp và hạnh phúc trong cuộc sống, thường không phải là những người phóng túng, mà là những người tỉnh táo, lý trí và trung thành về mặt tình cảm, và họ có nguyên tắc và giới hạn. Trời ban phúc cho người thiện mà.

Lời kết

Nhu cầu của con người thực ra là có hạn. Chỉ cần có đủ thức ăn, quần áo ấm và sức khỏe tốt là chúng ta nên bằng lòng, giống như Ngũ phúc bao gồm. Tuy nhiên, các khái niệm hiện đại lại dẫn dắt con người vào ảo tưởng, theo đuổi sự phấn khích. Đạo đức xã hội đang tụt dốc. Trước đây, việc theo đuổi sự phấn khích thể hiện ở việc nghiện thuốc lá và rượu; ngày nay, nó thể hiện ở việc nghiện ma túy, tình dục bừa bãi hoặc trầm cảm. Sau khi bị nhồi nhét những khái niệm hiện đại, con người lao vào con đường tham lam vô tận, và từ lâu đã xa rời tâm thái đạm bạc ninh tĩnh cần có để đạt được hạnh phúc.

Người xưa không biết mệt mỏi kể lại những nguyên lý truyền thống và những câu chuyện nhân quả. Ý định sâu xa của họ là ngăn chặn con người sa vào dục vọng và lợi ích cá nhân, làm băng hoại đạo đức và lương tâm, và cuối cùng bị Trời trừng phạt.

Mong mọi người hãy đối xử tốt với vợ/chồng mình và trân trọng những gì mình đang có, vì một khi đã mất đi thì sẽ không bao giờ trở lại. Là một con người, bạn nên biết ơn và biết đủ, và hết lòng gìn giữ thiện lương trong trái tim mình. Đó là phúc lành của riêng bạn.

Bản quyền © 1999-2025 thuộc Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/2/19/473375.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/1/24/223823.html

Đăng ngày 04-03-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Ngũ phúc, tri túc, cảm ân, thiện lương first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Tiến sĩ Tháo Phổ, cô gái và nghiệp lựchttps://vn.minghui.org/news/280473-tien-si-thao-pho-co-gai-va-nghiep-luc.htmlMon, 03 Mar 2025 12:52:20 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=280473[MINH HUỆ 11-01-2025] Núi Himalaya xưa nay là nơi có rất nhiều người tu luyện, mọi người sống cuộc sống thuần phác, ai nấy đều giỏi ca múa, ngoài ra còn tôn sùng Phật Pháp. Khi đó có một người tu luyện tên là […]

The post Tiến sĩ Tháo Phổ, cô gái và nghiệp lực first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Chọn lọc khi đọc “Câu chuyện tu luyện của Phật Milarepa”

[MINH HUỆ 11-01-2025] Núi Himalaya xưa nay là nơi có rất nhiều người tu luyện, mọi người sống cuộc sống thuần phác, ai nấy đều giỏi ca múa, ngoài ra còn tôn sùng Phật Pháp. Khi đó có một người tu luyện tên là Milarepa. Chư Phật, Bồ Tát đều là kết quả tu hành của nhiều đời nhiều kiếp, nhưng Milarepa lại thành tựu công đức ngang với chư Phật, Bồ Tát chỉ trong một đời. Sau này ông thành thủy tổ của Bạch giáo Tạng mật.

Cuộc đời Tôn giả Milarepa đã trải qua vô số sự nghiệp lợi lạc cho chúng sinh, cuối cùng ở một địa phương là Đình Nhật, ông đã gặp một hành giả là Tiến sĩ Tháo Phổ.

Tháo Phổ yêu tiền như sinh mệnh, nhưng vì ông ta là học giả, nên người dân ở Đình Nhật đều rất cung kính với ông ta. Mỗi khi có yến tiệc, họ thường để ông ta ngồi ghế đầu. Sau khi ông ta gặp Tôn giả, bề ngoài tỏ ra cung kính tín ngưỡng, nhưng thực tế trong tâm đố kỵ. Nhiều lần trước đám đông, ông ta cố ý hỏi Tôn giả rất nhiều câu hỏi khó, muốn để Tôn giả phải bẽ mặt trước đám đông, nhưng vẫn luôn không thành công.

1. Tôn giả Milarepa từ bi thế nào đối với người tình mà Tháo Phổ sai đi đầu độc Ngài

Tiến sĩ Tháo Phổ có nhân tình ở Thông Bố Lâm. Ông ta bảo cô gái này bỏ thuốc độc vào pho mát, rồi đem đi cúng dường, để đầu độc tôn giả. Tháo Phổ hứa với cô gái rằng, nếu việc này làm được tốt, thì ông ta sẽ tặng cô một viên ngọc bích lớn. Cô gái cho rằng ông ta nói thật, nên bỏ thuốc độc vào pho mát rồi đến Nhai Thành cúng dường Tôn giả. [Độc ác đến mức muốn đẩy Tôn giả vào chỗ chết].

Khi đó Tôn giả đã sớm biết rõ mọi chuyện. Tôn giả quan sát nhân duyên, biết rằng những chúng sinh hữu duyên đều đã được hóa độ rồi. Thuốc độc tuy không thể làm hại Tôn giả được, nhưng ngày nhập niết bàn cũng đã gần đến rồi, nên Tôn giả chuẩn bị tiếp nhận đồ cúng dường có thuốc độc. Đồng thời Tôn giả còn biết rằng, trước khi Ngài ăn pho mát độc mà cô gái không có được viên ngọc, thì cô sẽ không lấy được viên ngọc đó, bởi vì sau khi làm xong việc, Tháo Phổ nhất định sẽ không giao ngọc cho cô gái. Do đó, Tôn giả nói với cô gái rằng: “Bây giờ ta chưa muốn ăn, cô hãy đem đến sau nhé, có lẽ lúc đó ta sẽ ăn”.

[Cô gái hám lợi mê mất cái tâm, Tôn giả thuận theo chấp trước của cô để cứu độ]

Cô gái nghe những lời của Tôn giả, trong tâm vừa nghi hoặc vừa sợ, đoán là Tôn giả đã biết trong pho mát có thuốc độc, cô vô cùng bất an ra về. [Lương tâm cô gái xuất hiện].

Trở về gặp Tiến sĩ Tháo Phổ, cô gái kể lại tình hình, và nói rằng, Tôn giả nhất định là có thần thông, do đó không ăn pho mát độc mà cô cúng dường. [Chuyển lời].

Tháo Phổ nói: “Hừm, nếu ông ấy có thần thông, thì đã không bảo cô sau này đem đến cho ông ấy, mà sẽ bảo cô tự ăn pho mát độc này rồi. Ông ấy làm như thế này là bảo cô đến sau, rõ ràng là ông ấy không có thần thông. Bây giờ, cô hãy cầm lấy viên ngọc này, và lại đem pho mát đến cho ông ấy. Cô đi lần này, nhất định ông ấy sẽ ăn”. Thế là Tháo Phổ đưa viên ngọc cho cô gái. [Tháo Phổ ngu muội không chịu nhận giáo hóa, tiếp tục cho rằng bản thân sáng suốt].

Cô gái nói: “Mọi người đều tin là ông ấy nhất định có thần thông. Bởi vì ông ấy có thần thông nên hôm qua đã không ăn. Hôm nay lại đem đến, ông ấy cũng nhất định sẽ không ăn. Tôi rất sợ, không dám đi. Tôi thà không có viên ngọc này. Xin ông hãy khoan thứ cho tôi, việc này tôi không thể nào làm giúp ông được”. [Cô gái với tâm lo lắng, không muốn tiếp tục hành ác].

Tháo Phổ nói: “Trên đời chỉ có người ngu phàm phu mới tin ông ấy có thần thông, vì họ không đọc kinh sách, không hiểu đạo lý, do đó bị những lời bịp bợm của ông ấy lừa dối. Tôi xem trong kinh sách, người có thần thông không giống như ông ấy. Tôi chịu trách nhiệm, đảm bảo ông ấy không có thần thông. Bây giờ cô lại đem pho mát độc đi cho ông ấy ăn, nếu mục đích của chúng ta đạt được, tôi nhất định sẽ không phụ bạc cô”. [Lại lần nữa dùng lợi dụ dỗ].

“Chúng ta đã yêu nhau lâu thế này rồi, sau này sẽ không phải sợ người ta đàm tiếu nữa, nếu cô làm việc này thành công, thì tôi và cô sẽ kết hôn. Khi đó không chỉ viên ngọc này là của cô, mà tài sản bên ngoài và trong nhà của tôi, cũng đều giao cho cô quản. Hai chúng ta sẽ chung sống hạnh phúc, bạch đầu giai lão. Cô xem có tốt không”. [Dùng tình dụ dỗ, tăng thêm dụ dỗ bằng nhiều lợi ích].

Cô gái cho rằng những lời của Tháo Phổ đều là thật, nên lại lấy thuốc độc bỏ vào pho mát, đến dốc Nguyện Lạc Cát Tường để ‘cúng dường’ Tôn giả. Lần này, Tôn giả Milarepa mỉm cười, tiếp nhận. Thế là cô gái trong lòng thầm nghĩ: Lời của Tháo Phổ quả không sai, ông ấy thực sự không có thần thông! [Người hữu cầu lại lần nữa bị tình và lợi ích che lấp cái tâm].

Thấy vậy, Tôn giả liền mỉm cười nói với cô gái rằng: “Cái giá mà cô làm việc này – miếng ngọc đó, đã có trong tay chưa?” [Vạch ra].

Vừa nghe thấy lời này, cô gái há miệng, kinh hãi không thốt nên lời, và cũng không nói ra được. Cô vừa xấu hổ vừa sợ hãi, sợ đến mức toàn thân run rẩy, sắc mặt tái mét, vừa quỳ lạy vừa khóc, run rẩy nói với Tôn giả rằng: “Viên ngọc đã trong tay rồi, nhưng xin Ngài chớ ăn pho mát này, hãy để con ăn”. [Lương tâm cô gái lại lần nữa xuất hiện].

Tôn giả nói: “Cô muốn nó làm gì?”

Cô gái khóc và nói: “Để con – kẻ tạo tội nghiệp này ăn cho xong rồi.”

[Cô gái này vốn hiểu rõ thiện ác, nhưng…]

Tôn giả nói: “Một là ta không nỡ để cô ăn, vì cô quá đáng thương. Hai là nếu ta không nhận cúng dường của cô, thì ta đã trái với nguyện Bồ Tát, phạm lỗi căn bản. Đặc biệt là sự nghiệp tự độ, độ tha, độ chúng sinh của ta đời này cũng đã viên mãn, thời gian đến thế giới khác cũng đã đến rồi. Thực ra, đồ cúng dường của cô không làm hại ta được, ăn và không ăn không có vấn đề gì. Nếu ta ăn pho mát lần trước của cô, thế thì viên ngọc đó e rằng sẽ không đến tay cô, do đó ta mới không ăn. Giờ đây, cô đã có viên ngọc trong tay rồi, ta cũng đã có thể yên tâm ăn, đồng thời ông ấy cũng đã có thể thỏa mãn nguyện vọng của ông ta rồi!”

Tôn giả tiếp tục dạy bảo: “Hơn nữa, ông ấy tuy hứa với cô rằng sau khi việc này thành công, sẽ cho cô cái này, cái kia, những lời này là không đáng tin cậy. Những lời ông ấy nói về ta, không một lời nào là sự thực. Sau này, 2 người sẽ có hối hận rất lớn! Khi đó, hai người tốt nhất hãy từ đó mà sám hối, cố gắng học Phật. Nếu không được như thế, thì ít nhất cũng phải ghi nhớ kỹ, tương lai nếu gặp phải việc liên quan đến sinh mệnh, thì nhất định chớ tạo tội nghiệp nữa! Hãy thành kính cầu nguyện với ta và người kế thừa ta!. [Tôn giả khuyên răn hậu quả, khuyên trở về với căn bản của sinh mệnh].

“Hai người thường vứt bỏ hạnh phúc vui vẻ, tự tìm thống khổ. Lần này, tội nghiệp mà 2 người tạo ra, ta sẽ phát nguyện là sẽ tiêu trừ cho 2 người. Vì sự an toàn của hai người, sự việc này tuy sớm muộn cũng sẽ bị mọi người biết đến, nhưng trước khi ta chết, thì nhất định không được nói với người khác. Ta – ông già này, những lời trước đây mọi người nghe nói đến, rốt cuộc là thật hay là giả, hai người chưa tận mắt nhìn thấy, có lẽ không tin. Lần này cô tận mắt nhìn thấy, đã tin lời của ta không phải là giả chứ!” [Lời nói có lý].

Nói xong, Tôn giả Milarepa cầm bát pho mát độc và ăn hết. [Thản nhiên chịu khổ nạn cực lớn].

2. Tôn giả Milarepa từ bi đối đãi thế nào đối với Tháo Phổ ngu muội cuồng vọng

Một lúc sau, Tôn giả có dáng vẻ bệnh trầm trọng. Khi đó, Tiến sĩ Tháo Phổ mang theo rượu thịt rất ngon, giả dạng muốn đến cúng dường Tôn giả, đến trước mặt Tôn giả, cười giễu và nói: “Ôi, người đại thành tựu như Tôn giả thế này, thì không mắc trọng bệnh như thế này mới đúng! Sao Ngài lại mắc bệnh thế? Nếu có thể chia bệnh được cho người khác, Ngài có thể chia cho các đại đệ tử. Nếu bệnh có thể chuyển cho người khác được, vậy xin Ngài hãy chuyển cho tôi đi! Ngài giờ đây chẳng làm nổi trò gì, kết cục sẽ ra sao?” [Tâm tật đố của kẻ ác gây ra].

Tôn giả cười hòa ái, và nói: “Ta vốn không phải bị căn bệnh này. Nguyên nhân hiện nay buộc phải bị bệnh, ông phải biết rõ mới đúng! Phàm phu thông thường bị bệnh, khác về bản chất với việc hành giả Yoga bị bệnh, duyên khởi cũng khác nhau. Bệnh hiện nay của ta, thực sự là thể hiện của Phật Pháp trang nghiêm”. [ Hòa ái nhẫn chịu đau đớn, Tôn gia khai thị chân tướng].

Tiến sĩ Tháo Phổ trong lòng thầm nghĩ: Tôn giả dường như đang nghi ngờ mình, nhưng vẫn không dám xác định. Vì Tôn giả nói bệnh có thể chuyển dời, điểm này tuyệt đối là không thể tin được. Thiên hạ nào có chuyện bệnh có thể chuyển dời sang người khác được? Thế là Tháo Phổ nói: “Tôi không rõ nguyên nhân bệnh của Tôn giả. Nếu bệnh do ma quỷ phụ thân gây ra, thì nên tu phép đuổi ma. Nếu do Tứ đại không hài hòa gây ra, thì nên uống thuốc điều hòa thân thể. Nếu bệnh thực sự có thể chuyển dời được sang thân thể người khác, vậy Tôn giả hãy chuyển bệnh sang thân tôi là được rồi”. [Kẻ ngạo mạn rất khó từ bỏ tự ngã và ngạo mạn].

Tôn giả nói: “Có một người tội lớn, ma quỷ trong tâm người đó chạy ra làm tổn hại ta, khiến ta Tứ đại không hài hòa mà sinh bệnh. Bệnh này thì ông không có khả năng trừ nó được. Bệnh này của ta tuy có thể chuyển sang cho ông được, nhưng e rằng ông không chịu nổi một khắc, do đó ta sẽ không chuyển dời tốt hơn”. [Tiếp tục khai thị chân tướng].

Tháo Phổ lòng thầm nghĩ: “Cái lão này hoàn toàn không thể chuyển dời bệnh cho người khác được, do đó cố ý nói những lời mát mẻ này. Nhất định phải khiến ông ta bẽ mặt mới được”. Thế là Tháo Phổ cứ kiên trì thỉnh cầu Tôn giả nhất định phải chuyển bệnh cho ông ta. [Kẻ ngu tiên nhập vi chủ, cố chấp vào kiến thức của mình].

Tôn giả nói: “Ông đã kiên trì thỉnh cầu thế này, ta sẽ tạm thời chuyển bệnh đến cánh cửa đối diện. Nếu chuyển cho ông, thì ông sẽ không chịu nổi! Ông hãy xem đi”. Tôn giả liền dùng thần lực chuyển nỗi thống khổ của bệnh tật đến cánh cửa đối diện. Cánh cửa ban đầu phát ra tiếng rắc rắc, dường như sắp nứt vỡ ra, một lát sau, quả thực vỡ ra muôn mảnh. Nhìn Tôn giả, quả nhiên hiện ra dáng vẻ khỏe mạnh vô bệnh. [Tôn giả triển hiện chân tướng: thống khổ của tội nghiệp mà 2 người Tháo Phổ đã tạo ra lớn nhường nào].

Tiến sĩ Tháo Phổ trong lòng thầm nghĩ: “Đây hoàn toàn là ảo thuật phép che mắt! Không thể lừa ta được”. Tháo Phổ nói: “A, Việc này quả là hiếm thấy! Nhưng vẫn cứ xin Tôn giả chuyển bệnh cho tôi”. [Kẻ ngu si tiếp tục để cho quan niệm che lấp cái tâm].

Tôn giả nói: “Ông đã khổ công yêu cầu thế này, thì ta chuyển một nửa bệnh cho ông. Nếu chuyển toàn bộ cho ông, thì chắc chắn ông sẽ không có sức chịu đựng được!”. Tôn giả bèn chuyển một nửa sự thống khổ của bệnh tật cho ông ta. Tiến sĩ Tháo Phổ lập tức đau đớn như sắp ngất đi, run rẩy cũng không được, thở cũng không ra hơi. Đến khi sắp tắc thở thì Tôn giả liền thu lại đại bộ phận bệnh đã chuyển dời cho ông ta, và lại hỏi ông ta rằng: “Ta mới chuyển cho ông nửa non bệnh thôi. Thế nào? Chịu được không?” [Nghiệp lực này mà ông đã tạo ra, thì ông không chịu nổi. Thống khổ quá lớn, tự ông đã bị hủy rồi. Tôn giả thiện đãi và lượng thứ kẻ ngu].

Sau khi Tháo Phổ đích thân nếm cơn đau đớn kịch liệt này, trong tâm nảy sinh lòng sám hối mạnh mẽ. Tháo Phổ quỳ xuống, dập đầu tôn kính, mặt đầy nước mắt khóc và nói: “Thưa Tôn giả, thưa Tôn giả! Thưa Thánh nhân, thưa Thánh nhân! Con thành tâm sám hối rồi! Cầu xin Ngài tha thứ cho con. Con nguyện đem tất cả tài sản cúng dường cho Tôn giả. Tội nghiệp quả báo của con, xin Tôn giả nghĩ cách giúp!”. Tháo Phổ khóc vô cùng thương tâm. [Tôn giả khuyến thiện thành công].

Tôn giả thấy ông ta đã thực tâm sám hối thì vô cùng vui mừng, liền thu hồi nốt phần nhỏ bệnh còn lại trên thân ông ta, và nói với ông ta rằng: “Cả cuộc đời ta xưa nay không muốn tài sản ruộng đất, hiện nay sắp chết rồi, càng không cần những thứ này. Ông hãy giữ lại là được rồi. Sau này, dù cho mất mạng cũng không được làm việc ác nữa. Quả báo của tội nghiệp lần này do ông tạo ra, ta đã nguyện tiêu trừ nó cho ông rồi”. [Để độ nhân, Tôn giả từ bi vô hạn].

Tháo Phổ nói với Tôn giả rằng: “Nguyên nhân trước đây con làm việc ác, đa số đều là vì tiền tài. Hiện nay con cũng không cần bất kỳ tài sản nào nữa. Bản thân Tôn giả tuy không cần, nhưng các đệ tử của Tôn giả tu hành thì cũng cần có lương thực, xin Ngài nhận cho họ”. Tuy Tháo Phổ thỉnh cầu như thế này, nhưng Tôn giả vẫn không nhận. Sau này các đệ tử đã nhận, dùng món tài sản này để cúng dường tập thể. Đến nay, vùng Khúc Ba vẫn còn cúng dường tập thể này.

Tiến sĩ Tháo Phổ sau đó quả nhiên vứt bỏ tham luyến cuộc đời, và trở thành người tu hành rất tốt.

Tôn giả nói với các đệ tử rằng: “Sở dĩ ta muốn sống ở đây, chính là muốn để người mắc đại tội này thành tâm sám hối, và được giải thoát khỏi thống khổ của tội nghiệp”.

Cảm ngộ của người chỉnh lý

Câu chuyện trên được chỉnh lý và đăng trên trang mạng Minh Huệ ngày 1/1/2001. Chớp mắt, tôi tu luyện Chính Pháp đã 26 năm rồi, bản thân tôi cũng đã trải qua rất nhiều, vì vậy lại lần nữa nghĩ đến câu chuyện của Phật Milarepa, càng cảm thấy sâu sắc! Nếu nói trước năm 1999 khi còn là học viên mới, đọc câu chuyện này thấy nỗi bi thống lớn hơn thể ngộ, thế thì hiện nay là sự thể ngộ tôn kính sâu sắc.

Tôn giả Milarepa biết rõ là pho mát có độc, sẽ tổn hại thân thể mình, gây ra nỗi thống khổ nghiêm trọng, nhưng Ngài vẫn không để ý đến bản thân, hoàn toàn suy nghĩ cho kẻ vô tri đó, từ bi đối đãi, để đạt được hiệu quả gợi mở thiện niệm, khai mở lương tâm và Phật tính của người đó ở mức độ lớn nhất.

Tôn giả chuyển nghiệp lực thống khổ gây tổn hại bản thân chuyển đến cánh cửa, cánh cửa đó liền phát ra tiếng “rắc, rắc”, dường như sắp vỡ tan, một lúc sau thực sự vỡ tan thành rất nhiều mảnh. Đối diện với chân tướng trước mặt, Tào Phổ lại khinh miệt nói đó là “phép che mắt”, có gì ghê gớm đâu, và còn châm biếm rằng: “À, đây cũng là điều hiếm thấy! Nhưng vẫn xin Tôn giả chuyển bệnh sang cho tôi!”.

Tôn giả không so đo với ông ta, vẫn suy nghĩ cho ông ta, cân nhắc đến khả năng lý giải và khả năng chịu đựng của ông ta: “Ông đã khổ công yêu cầu thế này, thì ta sẽ chuyển một nửa bệnh cho ông. Nếu chuyển tất cả cho ông, thì chắc chắn ông sẽ không chịu nổi”. Nói xong câu này, Tôn giả mới chuyển một nửa bệnh cho Tào Phổ.

Lập tức, Tào Phổ đau đớn đến mức sắp ngất đi, run rẩy cũng không được, thở cũng không được. Khi sắp tắc thở… Tôn giả hỏi: “Ta mới chuyển cho ông non nửa bệnh, thế nào, chịu được không?”

Không thấy không tin, thấy rồi cũng không tin, lấy thân mình thử, sau khi Tháo Phổ đích thân nếm cơn đau đớn kịch liệt do nghiệp lực tạo ra, thì mới sinh lòng sám hối mạnh mẽ! Tháo Phổ thật may mắn, vì đã gặp được Tôn giả Milarepa đại từ đại bi, không tính vui khổ cá nhân, vô tư vô ngã!

Đệ tử Đại Pháp chúng ta đều từ văn tự biết rằng: Tu luyện ắt phải tiêu nghiệp, cứu người còn phải gánh vác nghiệp lực. Từ văn tự, chúng ta cũng biết: Sư phụ luôn tiêu nghiệp cho chúng ta, tiêu nghiệp cho chúng sinh. Nhưng chúng ta có thực sự hiểu rõ được sức nặng của 2 chữ “Tiêu nghiệp” này không? “Trân quý sự chịu đựng của Sư phụ”, “Từ Pháp nhận thức Pháp”, “Thực hiện sứ mệnh”, sức nặng của mấy chữ này vượt xa ngàn cân.

Bản quyền © 1999-2025 thuộc Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/1/11/488210.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/1/15/223647.html

Đăng ngày 03-03-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Tiến sĩ Tháo Phổ, cô gái và nghiệp lực first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Người thợ đá sáng suốthttps://vn.minghui.org/news/280442-nguoi-tho-da-sang-suot.htmlSun, 02 Mar 2025 13:10:48 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=280442[MINH HUỆ 08-01-2025] Năm Sùng Ninh thứ nhất (năm 1102), Thái Kinh được Tống Huy Tông bổ nhiệm làm tể tướng. Thái Kinh cầm quyền không lâu thì đã làm một việc đại sự kinh động cả trong và ngoài triều đình: Khắc “bia đảng tịch”. Ông ta đã có […]

The post Người thợ đá sáng suốt first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Cam Lộ

[MINH HUỆ 08-01-2025] Năm Sùng Ninh thứ nhất (năm 1102), Thái Kinh được Tống Huy Tông bổ nhiệm làm tể tướng. Thái Kinh cầm quyền không lâu thì đã làm một việc đại sự kinh động cả trong và ngoài triều đình: Khắc “bia đảng tịch”. Ông ta đã có dụng tâm đưa danh sách 109 vị “gian đảng” đứng đầu là Tư Mã Quang, Văn Ngạn Bác và “tội trạng” trình báo cho Tống Huy Tông, để Tống Huy Tông hạ chiếu, khắc bia danh tính của gian đảng và dựng ở bức tường phía đông của Đoan Lễ Môn, Văn Đức Điện.

Sau đó danh sách “gian đảng” lại tăng thêm một loạt. Năm Sùng Ninh thứ tư (năm 1105), Thái Kinh gộp hai loạt lại thành một quyển sách, tổng cộng 309 người, trong đó có những nhân vật cựu đảng nắm quyền vào những năm Nguyên Hựu như Tư Mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt, Hoàng Đình Kiên, và có cả những nhân sĩ tân đảng có thù riêng với Thái Kinh như Chương Đôn, Lục Điền, Lý Thanh Thần v.v. Thái Kinh đích thân viết văn bia, và hạ lệnh cho tất cả các quan phủ các châu huyện trong toàn quốc khắc lại bia này, để sự việc này được thông báo cho toàn thiên hạ. Đây chính là “Bia đảng tịch Nguyên Hựu” nổi tiếng trong lịch sử.

Tại sao Thái Kinh lại làm như thế này? Một là báo thù, có liên quan đến cựu đảng năm xưa khi ông ta bất đắc chí; Một nữa là đố kỵ những người nổi danh thiên hạ như Tư Mã Quang, Tô Thức v.v.; Một nữa là đánh những người bất đồng với mình để gây dựng uy quyền. Điều mọi người không hiểu là, Triều Tống, kỹ thuật chế tạo giấy và thuật in ấn vô cùng phát triển, tại sao Thái Kinh lại lựa chọn phương thức khắc bia đá? Phải chăng là khiến “kẻ thù” chịu nhục vạn thế chăng? Cách làm của ông ta quả là quá ác, quá tuyệt tình!

Cách làm của Tống Huy Tông và Thái Kinh, đã gây ra sự phản đối của rất nhiều nhân sĩ có lương tri đương thời.

Ở Cửu Giang, một anh thợ đá tên là Lý Trọng Ninh, được Thái thú Cửu Giang mời đi khắc bia. Khi nghe nói danh sách “gian đảng” khắc lên bia, anh đã lập tức từ chối. Anh nói: “Khi tôi còn nhỏ, nhà rất nghèo, học được chút tay nghề khắc đá để nuôi sống gia đình. Bình thường khi nhận được các việc lớn, đều là khắc thơ văn cũng những người như Tô Thức, Hoàng Đình Kiên. Tuy tôi chưa từng gặp họ, nhưng cũng coi như là đã nhận được ân huệ của họ. Danh sách này có tên của họ, tôi khắc thì chẳng phải là vong ơn bội nghĩa đó sao?”

Thái thú nghe xong rất cảm động, khen Lý Trọng Ninh rằng: “Rất nhiều quan lớn trong triều đều không bằng anh!”

Lịch sử là công bằng. Ai trung ai gian, trời đất lương âm tự có một cái cân, không phải là kẻ cầm quyền nói thế nào là như thế! Tống Huy Tông là hôn quân nổi tiếng trong lịch sử; Thái Kinh bị đời sau coi là gian thần sánh ngang với Tần Cối, còn những người bị ông ta công kích như Tư Mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt, Hoàng Đình Kiên v.v., đều được người đời sau kính ngưỡng. Lý Trọng Ninh tuy là một anh thợ đá, nhưng trước áp lực, anh vẫn giữ giá trị quan làm người, đánh giá về đúng sai chất phác nhất, thực sự rất đáng quý!

Sự tình tương tự xảy ra ngày nay. Năm 1999, Trung Cộng phát động cuộc bức hại tàn khốc đối với Pháp Luân Công, các hãng truyền thông lớn rợp trời dậy đất bôi nhọ Đại Pháp, trong đó lời nói dối nổi tiếng nhất là vụ ngụy án “tự thiêu Thiên An Môn” do Truyền hình Trung ương (CCTV) tự biên tự diễn dưới sự sai khiến của Giang Trạch Dân.

Điều khiến Giang Trạch Dân không ngờ đến là, rất nhiều không tin ngụy án “tự thiêu”, lý do không tin đủ các loại các dạng:

  • Có người từ những kinh nghiệm hàng ngày nhìn thấy như sơ hở của vụ ngụy án “tự thiêu”: Cảnh sát hiện trường “tự thiêu” sao lại có thể trong thời gian cực ngắn lấy ra được nhiều bình cứu hỏa như thế? Lẽ nào họ vác bình cứu hỏa đi tuần tra? Sự việc trái với lẽ thường ắt sẽ có điều quái dị.
  • Có người từ góc độ y học nhìn thấy sơ hở của vụ ngụy án “tự thiêu”: Tiết mục “Phỏng vấn tiêu điểm” đưa tin, cô gái “tự thiêu” Lý Tư Ảnh làm phẫu thuật khí quản, ngày thứ 4, khi phóng viên phỏng vấn, cô hát với khí lực sung mãn. Dòng khí của cô lúc này không chạy qua thanh đới, ca hát rõ ràng là trái với kiến thức thông thường của y học.
  • Có người có nhận thức sâu sắc đối với lịch sử của Trung Cộng: Từ ngày nó ra đời, luôn luôn không ngừng giết chóc và nói dối, lần này bức hại Đại Pháp, nhất định cũng không ngoại lệ.
  • Có người từ sự thực nhìn ra sự kiện “tự thiêu” là có gian dối: Những người bức hại Đại Pháp như Giang Trạch Dân, Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Lý Đông Sinh v.v. đều là đạo đức bại hoại, tham nhũng dâm loạn, còn những đệ tử Đại Pháp xung quanh đều là đạo đức cao thượng, đầy chính khí. Vụ án “tự thiêu” nhất định là vở kịch tiểu nhân hãm hại quân tử.
  • Có người thông qua so sánh: Trung Cộng thúc đẩy Giả – Ác – Đấu, Đại Pháp tín ngưỡng Chân – Thiện – Nhẫn, ai chính ai tà, chẳng phải nhìn một cái là rõ ràng rồi đó sao?

Trong tâm mỗi người đều có một cái cân. Khi Trung Cộng điên cuồng bức hại Pháp Luân Công, vẫn có ngàn ngàn vạn vạn người Trung Quốc giữ được đầu óc thanh tỉnh, nhận rõ lời dối trá của Trung Cộng. Trí tuệ của những nhân sĩ chính nghĩa này cũng rất giống với người thợ đá sáng suốt kia!

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/1/8/488024.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/1/9/223522.html

Đăng ngày 02-03-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Người thợ đá sáng suốt first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 3)https://vn.minghui.org/news/279780-van-minh-tien-su-trong-chu-han-2.htmlSun, 09 Feb 2025 16:48:40 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=279780[MINH HUỆ 13-11-2024] (Tiếp theo Phần 2 Phần 1) 4. Côn Luân – Trung Quốc cổ lưu lại trong văn tự Đại Vũ trị thủy là sự tích mà mọi người đều rất quen thuộc. Thời vua Nghiêu tại vị, một trận hồng thủy hiếm thấy đã nhấn chìm núi cao, gò […]

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 3) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Hiểu Ca

[MINH HUỆ 13-11-2024]

(Tiếp theo Phần 2 Phần 1)

4. Côn Luân – Trung Quốc cổ lưu lại trong văn tự

Đại Vũ trị thủy là sự tích mà mọi người đều rất quen thuộc. Thời vua Nghiêu tại vị, một trận hồng thủy hiếm thấy đã nhấn chìm núi cao, gò đồi. Trận đại hồng thủy hủy diệt văn minh nhân loại thời tiền sử này, thì rất nhiều dân tộc đều có ghi chép. “Thượng thư – Nghiêu điển” có thuật lại rằng: Thời vua Nghiêu, trời giáng đại hồng thủy, nước liền với trời, mênh mông rộng lớn, không thấy biên giới.

Cũng trong thời gian tương ứng, “Kinh Thánh – Sáng thế ký” của phương Tây cũng có ghi chép rằng: “Sự việc này xảy ra vào ngày 17 tháng 2. Ngày này, cửa sổ trời mở ra, mưa lớn 40 ngày đêm…. những núi cao trong thiên hạ đều bị nhấn chìm”.

Đó chính là trận đại hồng thủy có tính toàn thế giới, hủy diệt văn minh nhân loại lần trước.

图8:州,甲骨文,水中的高地。
Hình 8: Chữ Châu 州 – cồn đất, cù lao, chữ giáp cốt, là đất cao ở trong nước

Trong Thuyết Văn, chữ Châu 州 đã ghi chép thông tin này: “Châu: Nơi có thể cư trú trong nước gọi là Châu. Xưa thời vua Nghiêu bị hồng thủy, người dân cư trú ở những chỗ đất cao trong nước”.

图9:丘,甲骨文,象两座山相连。
Hình 9: Chữ Khâu 丘 – gò đất, chữ giáp cốt, giống như 2 ngọn núi liền nhau

Trong Thuyết Văn còn có một chữ Khâu 丘, rằng: “Khâu, là nơi đất cao, không phải con người tạo ra. Ý nghĩa theo chữ Bắc và chữ Nhất. Nhất 一 nghĩa là đất, con người cư trú ở phía Nam của Khâu (gò đất), do đó nghĩa chữ Khâu theo chữ Bắc. Quốc gia trung ương là ở phía Đông Nam núi Côn Luân”. Như vậy, Khâu – gò, là nơi có địa thế khá cao, núi Côn Luân cũng được gọi là Côn Luân Khâu. “Quốc gia trung ương” chính là bang quốc của Thiên tử, ở phía Đông Nam núi Côn Luân.

“Sơn hải kinh” có ghi chép rằng: “Đài vua Nghiêu, đài vua Khốc, đài vua Đan Chu, đài vua Thuấn, mỗi vị 2 đài, đài hướng 4 phương, ở phía Bắc núi Côn Luân… Các đài của các vua, ở phía Bắc núi Côn Luân”. Đài vua là dùng để tế tự, quan sát thiên tượng, thường được xây dựng ở gần kinh thành, đó là nơi huyết mạch của mệnh quốc gia. Điều này cũng đã ấn chứng thuyết “quốc gia trung ương” ở phụ cận núi Côn Luân.

Trong “Thủy chú kinh” dẫn dụng “Vũ bản kỷ” viết rằng: “Núi Côn Luân… cao chót vót 5 vạn dặm, là trung tâm của đất”. Trước đại hồng thủy, “trung tâm của đất” là ở núi Côn Luân. Về điểm này, từ những thông tin mà truyền thống tế tự lưu truyền lại cũng có thể ấn chứng.

“Lễ ký chính nghĩa” có dẫn dụng “Quát địa tượng” rằng: “Trung tâm của đất là núi Côn Luân”. Và cũng viết rằng: “5000 dặm phía Đông Nam của nó gọi là Thần Châu”. Từ Côn Luân về hướng Đông Nam 5000 dặm, chính là mảnh đất Thần Châu. Các nghi thức tế tự cổ xưa, vừa phải tế Thần của Thần Châu, vừa phải tế Thần Côn Luân. Trung tâm của đất từ Côn Luân chuyển đến Thần Châu, nhưng vẫn phải tế Côn Luân. Có thể thấy Côn Luân có quan hệ truyền thừa với Trung Quốc. Khi đó, trung tâm văn minh Trung Hoa chính là ở khu vực lân cận núi Côn Luân, sau đó trung tâm không ngừng chuyển dịch về phía Trung Nguyên, thì vị trí trung tâm của núi Côn Luân cũng dần dần nhạt đi.

Độ cao trung bình của núi Côn Luân là 5.500 đến 6.000 mét so với mặt nước biển. Khi xảy ra đại hồng thủy, những người Trung Quốc cư trú ở vùng núi Côn Luân do ở nơi có địa thế rất cao, và đã kịp thời chạy lên núi Côn Luân, do đó rất nhiều người đã may mắn sống sót, vượt qua đại kiếp nạn này.

Trong các truyền thuyết về đại hồng thủy của các dân tộc trên thế giới, sau khi đại hồng thủy qua đi, đều có cực ít những người cá biệt tiếp tục sinh sống. Trong Kinh Thánh có ghi chép rằng, chỉ có gia đình Noah trên con thuyền Noah mới sống sót. Rất nhiều nhân khẩu và nền văn minh Trung Quốc thượng cổ lại được lưu lại một cách thần kỳ. Hà đồ, Lạc thư, Âm dương, Ngũ hành chính là văn minh tiền sử từ trước đại hồng thủy lưu lại, mà trong quá trình này, 3 đời Thánh vương Nghiêu, Thuấn, Vũ với đại đức cảm động trời đất, trên phụng Thiên Đạo, dưới nuôi dưỡng giáo hóa dân, trong kiếp nạn có tính hủy diệt, họ đã kế thừa và truyền lại văn minh Trung Hoa.

Đại Vũ trị thủy, 3 lần qua cổng nhà mà không vào. “Các di tích của Đại Vũ nhiều mênh mông”, có rất nhiều các di tích cổ và truyền thuyết ở các địa phương Trung Quốc liên quan đến Đại Vũ. Làm thế nào mà 4000 năm trước, Đại Vũ chỉ dùng thời gian 7, 8 năm là có thể xẻ núi, đào sông, khai thông 9 châu, 9 con sông. Cho dù là sức mạnh khoa học kỹ thuật ngày nay, thì cũng không phải là việc dễ dàng. Vậy Thần tích đó được ghi chép trong rất nhiều điển tịch, phải chăng là thực sự tồn tại?

Trong “Sở từ – Thiên vấn”, Khuất Nguyên từng viết rằng: “Hà hải ứng long, hà tận hà lịch? Cổn hà sở doanh? Vũ hà sở thành?”, nghĩa là: Ứng long ở sông biển, đã có những trải nghiệm thế nào? Cổn – cha của Vũ, khi trị thủy thì Ứng long đã khởi tác dụng gì? Vũ kế thừa sự nghiệp của cha, đã thành công như thế nào?

Trong “Bão Phác Tử”, Cát Hồng đời Đông Tấn đã viết rằng: “Vũ thừa nhị long, quách chi vi ngự”, nghĩa là: Đại Vũ trị thủy, cưỡi rồng đi lại.

“Thái Bình Quảng Ký” có dẫn “Thập di ký” rằng: “Vũ dốc hết sức đào kênh ngòi, dẫn nước sông, san bằng núi. Hoàng Long kéo đuôi phía trước, Huyền Quy cõng bùn xanh phía sau”. Hoàng Long là Ứng long, đã có tác dụng quan trọng khi Đại Vũ trị thủy.

Vũ mang Thiên mệnh, trị sửa 9 châu, Thượng Thiên an bài các Thần thú như Hoàng Long, Huyền Quy v.v. làm những việc mà sức người không thể làm nổi. Trong văn hóa Trung Quốc, rồng phổ biến tồn tại. Đối với sự xuất hiện của rồng, từ thời thượng cổ liên tục kéo dài đến các triều đại. Trong “24 bộ sử”, rồng liên tục xuất hiện ở các địa phương, được coi là dấu hiệu Thượng Thiên hiển thị thiên tượng.

图10:龙,甲骨文。
Hình 10: Rồng (chữ Long – 龍), chữ giáp cốt

Trong Thuyết Văn đã quy nạp rõ rằng đặc trưng của rồng: “Rồng là loài trùng dài có vẩy. Có thể ẩn, có thể hiện, có thể nhỏ, có thể lớn, có thể ngắn, có thể dài, Xuân Phân bay lên trời, Thu Phân ẩn dưới vực sâu”. Rồng là loài thú có vẩy lớn nhất, có thể tiềm phục nơi tối tăm, có thể bay lên không trung sáng tỏ, có thể biến thành rất nhỏ, có thể biến thành rất lớn, có thể biến thành rất ngắn, có thể biến thành rất dài, tiết Xuân Phân thì bay lên trời, tiết Thu Phân thì ẩn mình dưới vực sâu.

Sau khi trị thủy thành công, Đại Vũ được phong ở đất Hạ, khai sáng lên triều Hạ – triều đại đầu tiên của thời Tam Đại. Thuyết Văn có viết rằng: “Hạ, là người Trung Quốc”. Đất Hạ chính là Vận Thành, Sơn Tây ngày nay. Đại Vũ lập kinh đô ở đất Hạ.

图11:鼎,甲骨文
Hình 11: Chữ Đỉnh – 鼎, chữ giáp cốt

Sửa sang vùng cửu châu là trời thành tựu, 9 châu đổi mới. Thuyết Văn có viết: “Đỉnh, là dụng cụ quý 3 chân 2 tai, điều hòa ngũ vị. Xưa Vũ thu đồng từ 9 vị quan đứng đầu 9 châu, đúc đỉnh ở chân núi Kinh Sơn, vào núi rừng sông đầm, các loài quỷ quái đều không dám gặp, dùng để phụng thiên thể”. Đỉnh là đồ lễ dùng đồng thanh đúc thành, có 3 chân 2 tai, dùng để đựng đồ tế lễ để tế tự trời đất. Đại Vũ thu thập đồng của 9 châu, đúc đỉnh ở chân núi Kinh Sơn. Khi đỉnh vận chuyển qua núi rừng sông đầm, các loài yêu tinh quỷ quái đều không dám xuất hiện. Đó là vì đỉnh có đức dày, có uy nghiêm phụng Thiên ý.

Về nguồn gốc của đỉnh, trong “Sử ký – Phong thiện thư” có viết rằng, Hán Vũ Đế từng hỏi quần thần về sự tình của đỉnh, rất nhiều đại thần đều nói rằng: Tương truyền Thái Đế (tức Thái Hạo) thời thượng cổ chế tạo ra Thần đỉnh, mang ý nghĩa là Nhất thống, tượng trưng cho việc khởi nguồn của thiên địa vạn vật đều là công của Tạo Hóa. Hoàng Đế chế tạo ra 3 bảo đỉnh, tượng trưng cho Thiên – Địa – Nhân hợp nhất, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Vũ thu thập đồng từ 9 vị đứng đầu 9 châu, đúc 9 đỉnh, phân chia 9 châu, tượng trưng tai họa hồng thủy 9 châu đã được tiêu trừ, Hoa Hạ thay cũ nạp mới, do đó hậu thế gọi là Cách cố đỉnh tân.

Những năm 1920, các nhà khảo cổ phát hiện ra rằng, đỉnh của Trung Quốc có lịch sử xa xưa, khoảng 7000 năm trước, văn hóa Ngưỡng Thiều đã xuất hiện đỉnh gốm – Cách 鬲, sau này dần dần diễn biến thành đỉnh đồng.

Thuyết Văn Giải Tự có viết: “Cách 鬲 là loại đỉnh, 3 chân”. Cách thuộc về chủng loại đỉnh, đứng bằng 3 chân. Điều khiến các nhà khảo cổ nghĩ mãi vẫn không tìm ra lời giải, đó là đỉnh gốm có lịch sử xa xưa này, cũng giống như chữ Hán, chỉ tồn tại ở Trung Quốc, là hiện tượng văn hóa riêng của văn minh Trung Hoa. Nhà khảo cổ nổi tiếng Nhật Bản là Kōsaku Hamada đã từng nói rằng: “Cách là thứ chỉ riêng Trung Quốc có, là nguồn gốc của đỉnh”.

Trong Sử Ký có miêu tả tình cảnh Hoàng Đế đúc đỉnh rằng: “Hoàng Đế khai thác đồng ở núi Thú Sơn, đúc đỉnh dưới chân núi Kinh Sơn. Khi đúc đỉnh thành công, thì có rồng thả râu xuống nghênh đón Hoàng Đế”. Tác giả dùng từ “Xuống nghênh đón” (Hạ nghênh), Hoàng Đế vốn là Thiên Đế trên Thiên thượng, hạ thế khai sáng ra màn mở đầu văn minh Trung Hoa 5000 năm, Hoàng Đế dùng đỉnh để báo cáo với Trời, cưỡi rồng trở về. Đây chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “Đỉnh thành long khứ” (đỉnh đúc xong, cưỡi rồng bay đi, sau chỉ đế vương qua đời)

Hoàng Đế đúc đỉnh ở núi Kinh Sơn, Đại Vũ cũng đúc đỉnh ở núi Kinh Sơn, ý nghĩa là kế thừa việc Hoàng Đế tiên phong dùng đức trị, lấy đỉnh tượng trưng cho đức, “Thiên Địa Nhân, đỉnh có 3 chân”, lịch trình văn hóa Thần truyền “Thiên – Nhân hợp nhất” của văn minh Trung Hoa khởi đầu từ đây.

(Hết)

Bản quyền © 1999-2025 thuộc Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/11/13/484905.html

Đăng ngày 09-02-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 3) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 2)https://vn.minghui.org/news/279745-van-minh-tien-su-trong-chu-han-3.htmlSat, 08 Feb 2025 14:10:06 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=279745[MINH HUỆ 12-11-2024] (Tiếp theo Phần 1) 3. Nghiêu Thuấn lấy khổ làm vui, đức cảm động Trời Vua Nghiêu có vị trí đặc biệt trong văn hóa Trung Quốc. Trong “Thượng thư – Nghiêu điển” có viết: “Lệnh cho quan Hy và Hòa tuân theo Thiên Đạo, chiểu theo quy […]

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Hiểu Ca

[MINH HUỆ 12-11-2024]

(Tiếp theo Phần 1)

3. Nghiêu Thuấn lấy khổ làm vui, đức cảm động Trời

Vua Nghiêu có vị trí đặc biệt trong văn hóa Trung Quốc. Trong “Thượng thư – Nghiêu điển” có viết: “Lệnh cho quan Hy và Hòa tuân theo Thiên Đạo, chiểu theo quy luật của mặt trời, mặt trăng, các hành tinh để chế ra lịch pháp, và truyền thụ lại cho mọi người”. Vua Nghiêu sai quan đại thần quan sát thiên tượng, chế định lịch pháp, và truyền thụ cho bách tính, giúp ích việc canh tác nông nghiệp. Bắt đầu từ đó, việc quan sát thiên tượng, quan trắc thiên thời, hiệu chỉnh sai lệnh thời gian các năm, đã trở thành một sự kiện quan trọng nhất của quân vương các triều đại. Từ những ghi chép văn hiến có thể thấy, vua Nghiên đã khai sáng ra truyền thống này.

Thuyết Văn có viết: “Nhuận là tháng dư, cứ 5 năm lại một tháng nhuận”. Trung Quốc cổ đại sử dụng song song âm lịch và dương lịch, thời lệnh mùa mỗi năm thì hàng năm bị lùi lại hơn 10 ngày so với năm trước, nên sinh ra vấn đề tuế sai, cũng chính là mâu thuẫn giữa mùa và thời lệnh. Cổ nhân định ra biện pháp “đặt tháng nhuận”, đem số ngày dư giữa dương lịch và âm lịch cộng dồn lại, cách vài năm đặt một tháng nhuận.

“Thượng thư – Nghiêu điển” có viết: “Một năm có 366 ngày, dùng tháng nhuận định tứ thời, thành năm. Trị sửa bá quan, chính sự hưng thịnh”. Thời kỳ vua Nghiêu, đã chế định ra lịch pháp, và dùng tháng nhuận để hiệu chỉnh tuế sai, giúp ích cho việc canh tác sản xuất của bách tính. “Tiền Hán thư” có đánh giá rằng: “Quan sát thiên văn, xem vị trí của 28 chòm sao và quy luật của mặt trời, mặt trăng và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), để ghi chép các dấu hiệu hung cát, Thánh vương dùng nó để bàn việc triều chính”. Bậc Thánh vương gánh vác sứ mệnh, dùng thiên văn thiên tượng để quy chính trật tự nhân gian.

Vua Nghiêu thường đi thị sát thiên hạ, tìm hiểu dân ý, xem xét dân tình thế thái. Vua coi bốn biển là nhà, lấy khổ làm vui, rất nhiều địa phương trên toàn quốc đều có những di tích và phong tục mà vua Nghiêu lưu lại.

Thuyết Văn có viết: “Cừ, phương Bắc gọi thịt chim khô là Cừ. Cơ lưu truyền rằng: Vua Nghiêu như Cừ, vua Thuấn như Cừ”. Thuyết này vẫn được lưu truyền từ thời đó đến ngày nay, là nói rằng màu da của vua Nghiêu phơi nắng đến mức đen bóng. Sách “Luận hoành” giải thích rằng, vua Nghiêu, vua Thuấn tuần du thiên hạ, không ngừng bôn ba, bị ánh nắng mặt trời chiếu đến mức “Thân hình gầy gò”.

Vua Nghiêu lưu truyền mỹ đức vô tư đại lượng cho hậu thế. Ông cho rằng, con trai Đan Chu của ông là “Hiêu tụng”, tức ngạo mạn và thích tranh cãi, và đã truyền ngôi vua cho Thuấn – người nổi tiếng bởi đức hiếu hạnh, và trở thành điển phạm thiên cổ. Vua Nghiêu gả 2 con gái cho Thuấn, để khảo nghiệm đức hạnh của Thuấn, và cuối cùng đã chọn Thuấn làm vua chung của thiên hạ. Thuyết Văn có viết: “Nga là con gái của vua Nghiêu, là vợ của Thuấn, tên tự là Nga Hoàng”.

Trong lịch sử Trung Hoa, bất kể là triều đại nào, đời nào, đều có đánh giá cực cao đối với vua Nghiêu. Khổng Tử nói: “Chỉ có Trời là cao nhất lớn nhất, chỉ có vua Nghiêu là học theo được Trời”. Vua Nghiêu được coi là tị tổ của đạo thống Trung Hoa, là tấm gương mà các bậc đế vương các triều đại hậu thế noi theo. Có thể thấy, đức của vua Nghiêu và ảnh hưởng của ông đối với hậu thế lớn như thế nào.

Vua Thuấn nổi tiếng thiên hạ với mỹ đức hiếu hạnh. “Vua Nghiêu học theo Trời, vua Thuấn học theo Đất”, vua Nghiêu quy phạm thiên văn thời lệnh, vua Thuấn giáo hóa đạo đức lễ nghi.

图4:教,甲骨文
Hình 4: chữ Giáo 教 chữ giáp cốt

Thuyết Văn có viết: “Giáo là trên thực thi, dưới học theo”. Giáo hóa tức là trên thực hành, dưới học theo, bắt chước. Quân vương đề xướng điều gì, thì xã hội sẽ theo cái đó. Bên trái chữ Giáo 教 là chữ Hiếu 孝. Thuyết Văn có giải thích rằng: Hiếu là việc giỏi phụng dưỡng cha mẹ”. Thời cổ đại, hiếu được cho là phẩm đức quan trọng nhất, xưa nay đều nói rằng “Bách thiện hiếu vi tiên”.

图5:孝,甲骨文,上为老人,下为子。
Hình 5: Chữ Hiếu 孝 chữ giáp cốt, trên là Lão nhân (người già), dưới là chữ Tử (con)

Vua Thuấn còn dùng lễ nhạc giáo hóa thế nhân. Thuyết Văn có viết: “Nhạc Thiều là khúc nhạc của Ngu Thuấn. Kinh Thư có viết: Tiêu Thiều tấu 9 lần, phượng hoàng bay đến múa”. Tiêu Thiều là khúc nhạc vũ lớn thời vua Thuấn, khi khúc nhạc Tiêu Thiều được diễn tấu, thì ngay cả phượng hoàng từ phương xa cũng bay đến, nhảy múa uyển chuyển.

图6:凤,甲骨文,与篆书相比,甲骨文形象地展现了凤凰的特征。
Hình 6: Chữ Phượng 鳳 chữ giáp cốt, so với chữ triện thì chữ giáp cốt thể hiện một cách hình tượng đặc trưng của phượng hoàng

Thuyết Văn có viết: “Phượng là loài chim thần. Thiên Lão nói: Hình dáng của phượng hoàng là phía trước giống chim hồng, phía sau giống kỳ lân, cổ giống rắn đuôi giống cá, hoa văn giống rồng, lưng giống hổ, hàm giống chim én, mỏ giống gà, có đủ 5 sắc màu. Phượng hoàng ở quốc gia của người quân tử phương Đông, bay lượn ngoài bốn biển, qua núi Côn Luân, uống nước ở Để Trụ, tắm ở Nhược Thủy, tối ngủ ở Phong Huyệt, nó xuất hiện thì thiên hạ đại thái bình”. Phượng hoàng là thần điểu ở Thiên giới, nếu phượng hoàng xuất hiện, thì nhất định là khi thiên hạ đại an định, vạn bang hòa mục.

Vua Thuấn kế thừa đạo thiện nhượng (nhường ngôi) của vua Nghiêu, truyền ngôi cho Đại Vũ. Đại Vũ đã tiếp nhận sự thiện nhượng của vua Thuấn ở Thái miếu của vua Nghiêu, giống như việc vua Thuấn tiếp nhận sự thiện nhượng của vua Nghiêu.

图7:圣,甲骨文,上面的耳上听天道,左边的口教化万民。
Hình 7: Chữ Thánh 聖, chữ giáp cốt, phía trên là chữ Nhĩ 耳 – Tai nghe Thiên Đạo, bên trái là chữ Khẩu 口 – Miệng giáo hóa muôn dân

Vua Nghiêu và vua Thuấn được coi là 2 vị Thánh Vương trong lịch sử thượng cổ. Trong Thuyết Văn giải nghĩa: “Thánh 聖 tức là thông. Theo nghĩa chữ Nhĩ – tai”. Cái gọi là “theo nghĩa chữ Nhĩ – tai” nghĩa là “Nghe Thiên Đạo”. Tai nghe Thiên Đạo, còn chữ Khẩu là miệng phát khẩu lệnh, dưới là chữ Vương 王 – vua. Do đó Thánh tức là nội thông với Thần linh, ngoại trị sửa bách tính, đây cũng chính là Đạo Nội Thánh Ngoại Vương.

(Còn tiếp)

Bản quyền © 1999-2025 thuộc Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/11/12/484904.html

Đăng ngày 08-02-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 1)https://vn.minghui.org/news/279679-van-minh-tien-su-trong-chu-han.htmlThu, 06 Feb 2025 12:42:33 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=279679[MINH HUỆ 11-11-2024] 1. Những thay đổi do chữ giáp cốt mang lại Chữ Hán có lịch sử lâu đời. Trong “Dịch Kinh – Hệ từ” và “Thuyết văn giải tự” có ghi chép: “Thời cổ đại, Bào Hy là vua của thiên hạ, ngẩng đầu quan sát các hiện […]

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Hiểu Ca

[MINH HUỆ 11-11-2024]

1. Những thay đổi do chữ giáp cốt mang lại

Chữ Hán có lịch sử lâu đời. Trong “Dịch Kinh – Hệ từ” và “Thuyết văn giải tự” có ghi chép: “Thời cổ đại, Bào Hy là vua của thiên hạ, ngẩng đầu quan sát các hiện tượng trên trời, cúi đầu quan sát các quy luật của đất; nhìn hoa văn, đặc trưng của chim thú và nơi ở thích nghi của chúng, gần thì lấy từ bản thân, xa thì lấy từ các sự vật, thế là bắt đầu tạo ra Bát quái, thông với đức của Thần linh. Thương Hiệt – sử quan của Hoàng Đế là người đầu tiên sáng tạo ra chữ viết, dựa theo loại mà tạo ra chữ tượng hình, do đó gọi là Văn. Sau này Hình – Thanh kết hợp bổ trợ cho nhau, và gọi là Tự”.

Bào Hy tức là Phục Hy, quan sát thiên tượng, địa lý, và quan sát các dấu hiệu của chim thú cá côn trùng, phát minh ra Bát quái, có thể thông với Thần linh. Sử quan của Hoàng Đế là Thương Hiện mô phỏng theo các hình tượng của trời đất, chiểu theo các loại hình của các sự vật khác nhau, vẽ viết mô tả, phát minh ra văn tự (chữ viết).

Do thời gian lâu dài, thượng cổ không có các tư liệu lịch sử xác thực lưu truyền, đều là các đời truyền miệng, “Tam Hoàng tứ Đế” trở thành truyền thuyết và nhân vật trong Thần thoại. Nhất là đến cuối thời nhà Thanh đầu thời Dân Quốc, làn gió phương Tây dần nổi lên ở phương Đông, phong trào “nghi cổ” khiến cho lịch sử trước năm Cộng Hòa thứ nhất đời Tây Chu trong “24 bộ sử” bị coi là “Ngụy sử”, tức là lịch sử không thể nào chứng minh được.

“24 bộ sử” là tín sử được công nhân. Tín sử là dùng văn tự ghi chép, có thể phân định là “lịch sử đáng tin cậy được ghi chép lại bằng văn tự”, với điểm phân chia là năm Cộng Hòa thứ nhất đời Tây Chu, tức năm 841 TCN. Lịch sử sau đó có văn tự ghi chép hoàn chỉnh, còn trước đó gồm Ngũ Đế bản kỷ, Hạ bản kỳ, Ân bản kỷ, do thiếu văn tự ghi chép hệ thống, nên vào thế kỷ 20 đã bị dán mác “Ngụy sử”.

Cho đến năm 1928, Viện Khảo cổ Trung Hoa Dân quốc đã khai quật Tiểu đồn Ân Khư ở Hà Nam, không chỉ có các kiến trúc và mộ táng còn lưu lại, mà còn có lượng lớn tư liệu văn hiến bói từ trên giáp cốt (xương và mai rùa) thời nhà Thương. Nghiên cứu các ghi chép chữ giáp cốt, đã có được những niên kỷ, ngày, tháng, và những đại sự chiêm bốc (xem bói) các triều đại nhà Thương, về cơ bản là trùng khớp với những gì được ghi chép trong “Sử ký – Ân bản kỷ”.

Sự phát hiện ra chữ giáp cốt ở Ân Khư (di tích hoang phế triều Ân), đã biểu thị rõ rằng, nguồn tư liệu lịch sử mà Sử Ký sử dụng là có căn cứ. Nếu “Ân bản kỷ” là đáng tin cậy, vậy thì có lý do gì để hoài nghi “Hạ bản kỷ” ở trước “Ân bản kỷ”? Văn tự cũng đã chứng thực những thông tin then chốt tồn tại chân thực của một triều đại, tuy nhiên vẫn chưa phát hiện ra văn tự thời Tam Hoàng Ngũ Đế và triều nhà Hạ, nhưng, cùng với các văn vật thời thượng cổ được phát hiện ngày càng nhiều, thì đối với thuyết “nghi cổ” nói rằng triều Hạ, Tam Hoàng Ngũ Đế là không tồn tại, thì các nhà nghiên cứu đã có một thái độ rộng mở hơn. Đúng như Voltaire đã nói trong “Bách khoa toàn thư – Lịch sử” rằng: “những nhân tố khiến người Trung Quốc vượt qua tất cả các dân tộc trên thế giới, những ngôn ngữ mà họ nói bất kể là trong pháp luật, phong tục tập quán hay là nhân văn, thì trong 4000 năm chưa từng bị biến hóa”.

Chữ giáp cốt là thể chữ Hán lâu đời nhất được phát hiện ra cho đến ngày nay, trong đó có khoảng 4.500 chữ Hán, và đã khảo cứu giải thích được 2.000 chữ. Tổng số những mảnh giáp cốt được phát hiện ra đến nay đã hơn 100.000 miếng, tổng số chữ hán khắc trên giáp cốt khoảng 1 triệu chữ. Đây là một thể hệ văn tự thành thục, hoàn chỉnh. Trong Lục thư của “Thuyết văn giải tự” thì chữ giáp cốt đã có đầy đủ, do đó có thể biết khởi nguồn của chữ Hán, phải là có trước chữ giáp cốt, và còn có lịch sử sử dụng viết chữ sớm hơn nữa.

“Thuyết văn giải tự” là trước tác ghi chép về cội nguồn chữ Hán, thu lục hơn 9.000 chữ Hán, truy ngược về cội nguồn sản sinh chữ Hán, từ thiên tượng đến địa lý, từ đồ vật tới văn hóa, v.v., bao la vạn tượng, tất cả đều được thu nạp và giải thích trong “Thuyết văn giải tự”.

“Thuyết văn giải tự” lấy chữ tiểu triện làm chủ đạo, nếu cổ văn và chữ trứu (chữ triện) khác nhau, thì chữ triện sẽ được liệt kê ra. Nhưng rốt cuộc thì số lượng đồ đồng khai quật được ở thời Đông Hán còn ít, số lượng chữ đúc trên chuông, đỉnh (kim văn) có hạn. Chữ giáp cốt gần với chữ đúc trên chuông đỉnh, được nhà Ân Thương khoảng 3300 năm trước sử dụng, so với thời Đông Hán mà Hứa Thận sinh sống, thì sớm hơn 1500 năm.. Việc chữ giáp cốt với chữ tượng hình là chính, đã ấn chứng tính chính xác của “Thuyết văn giải tự” đối với việc truy ngược cội nguồn chữ Hán, đồng thời cũng bổ sung một số sai lệch tồn tại trong “Thuyết văn giải tự”. “Thuyết văn giải tự” và chữ giáp cốt kết hợp lại, ấn chứng lẫn nhau, đã trở thành cách làm thông thường của việc nghiên cứu giải nghĩa chữ Hán trên thế giới hiện nay.

Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử từng cảm thán rằng: “Lễ nhà Hạ, ta có thể nói được, lễ nước Kỷ không đủ làm chứng. Lễ nhà Ân ta có thể nói được, lễ nước Tống không đủ làm chứng. Là do văn hiến không đủ. Nếu đủ thì ta cũng có thể làm chứng được”. Nước Kỷ là hậu duệ của nhà Hạ, nước Tống là hậu duệ của nhà Ân. Khổng Tử cho rằng: Lễ của 2 triều đại Hạ, Ân, tuy vẫn có thể nói một chút, nhưng vì văn hiến không đủ, do đó khó mà nghiệm chứng được. Nếu có đủ văn hiến, thế thì có thể nói rõ ràng được.

Từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đến nay, trong 100 năm, chữ giáp cốt đã ứng thời xuất hiện, những tư liệu chữ giáp cốt có hơn 1 triệu chữ, trở thành cửa sổ quan trong để con người tìm hiểu thời Tam đại Hạ, Thương, Chu và văn hóa thượng cổ xa xưa hơn nữa. Nghiên cứu chữ giáp cốt đã trở thành khoa học có tính thế giới, được sự quan tâm chú ý rộng rãi.

2. Tam Hoàng Ngũ Đế trong chữ Hán

Lịch sử có văn tự ghi chép là “Tín sử” (lịch sử khả tín). Vậy trước ‘tín sử’ là gì? Thời đại chưa có văn tự ghi chép, thường được gọi là “Văn minh tiền sử” (prehistory). Chiểu theo tiêu chuẩn này, thì lịch sử Tam Hoàng Ngũ Đế, triều Hạ, triều Thương trước khi Bàn Canh dời đô, tức trước khi chữ giáp cốt ra đời, đều thuộc về thời kỳ văn hóa tiền sử.

Trong “Thuyết văn” (Thuyết văn giải tự, ở dưới đều gọi tắt là “Thuyết văn”), giải thích chữ Hoàng 皇 là: “Hoàng là lớn. Theo chữ Tự 自. Tự là khởi đầu. Hoàng khởi đầu là Tam Hoàng, là những vua lớn”. Chữ Hoàng trong Hoàng Đế là có hàm nghĩa đặc định, tức là chỉ Tam Hoàng, là “đầu tiên”, “là vua lớn”. Tam Hoàng là những người gây dựng nền văn minh Trung Hoa đầu tiên, thường cho rằng Tam Hoàng là Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Còn có các thuyết khác, và không kết luận cố định. Nhưng Phục Hy thì tất cả các thuyết đều công nhận.

“Lễ ký – Khúc lễ” có ghi chép rằng, Phục Hy chế định ra một loạt chế độ cưới hỏi như sính lễ, mai mối v.v., khiến cho mối quan hệ giữa nam với nữ không còn tùy ý nữa, đã quy phạm ra đạo đức nhân luân.

图1:网,甲骨文
Hình 1: Chữ Võng (lưới) chữ giáp cốt

Đã có gia đình, vẫn còn cần phải sắp xếp cuộc sống cho họ. Phục Hy dạy học đan võng bắt cá săn thú. Thuyết Văn giải nghĩa: “Võng (lưới) là do Bào Ky dùng thừng kết thành để bắt cá”. Kết thừng tức là đan lưới. Trong “Bão phác tử”, Cát Hồng có viết: “Thái Hạo học theo nhện đan lưới”. Thái Hạo là chỉ Phục Hy, được sự gợi mở của việc nhện chăng tơ làm mạng nhện, ông đã dùng dây thừng bện thành lưới để bắt cá.

Mỗi một vị Thánh trong Tam Hoàng, đều có sứ mệnh khác nhau. Thuyết Văn có viết: “Nữ Hoa là vị Thần Thánh nữ cổ đại, là người đã tạo ra vạn vật”. Nữ Oa là vị Thánh có thần lực thời thượng cổ, tạo ra và dưỡng dục vạn vật, là mẫu nghi thiên hạ.

Hoàng 簧 (lưỡi gà trong ống sáo) là lưỡi gà trong cái sênh (nhạc cụ từ quả bầu và 13 ống, thổi ra âm thanh). Thuyết Văn có ghi chép rằng, Nữ Oa phát minh ra loại nhạc khí sênh hoàng này. Bà dùng nhạc vũ khiến vạn vật trong thiên hạ đều được giáo hóa và quy chính, tu dưỡng đức dân, khiến thiên hạ thịnh trị.

Thần Nông nếm trăm loại cây cỏ, phát minh ra công cụ cày ruộng đất – Lỗi tỉ 耒耜 (cái cày), đó là câu chuyện mà mọi người đều quen thuộc. Thuyết Văn có viết rằng: “Khương, Thần Nông cư trú bên sông Khương, do đó lấy đó là tên họ của mình”.

Thuyết Văn có ghi chép lịch sử Thần Nông phát minh ra đàn Cầm 琴 rằng: “Cầm, là do Thần Nông sáng tạo ra, có 5 dây, thời Chu thêm 2 dây”. Ngũ huyền (5 dây) gồm Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Cổ cầm “nói nên cái đức của trời đất, biểu đạt sự hòa đồng với đức trời đất của Thần Nông”, bồi dưỡng vun đúc tính tình. Tam Hoàng quy phạm luân lý nhân gian, truyền thụ cho mọi người kỹ năng sinh sống, đặt điều kiện nền tảng cần thiết cho văn minh Trung Hoa.

Thần Nông truyền 17 đời, đều gọi là Viêm Đế. Viêm Đế đời cuối cùng tên là Du Võng. Đến thời kỳ Du Võng, tộc Thần Nông đã đi đến suy bại. Lúc này vùng đất Hoa Hạ sinh ra Hoàng Đế – Thủy tổ nhân văn mở màn văn minh Trung Hoa. Hoàng Đế đứng đầu Ngũ Đế. Thời kỳ Hoàng Đế, là sự khởi đầu của lịch sử gần 5000 của Trung Quốc. Người Trung Quốc thường xưng là “con cháu Viêm Hoàng”, ý nghĩa là Viêm Đế và Hoàng Đế là thủy tổ chung của dân tộc Hoa Hạ.

图2:帝,甲骨文,用木头搭成的祭台,供奉天帝。
Hình 2: Chữ Đế 帝 chữ giáp cốt, dùng gỗ bắt thành đài tế, thờ cúng Thiên Đế

Trong Thuyết Văn có giải thích chữ Đế là: “Đế 帝 nghĩa là đế 谛 – chân lý, là hiệu của vua thiên hạ”. Đế 谛 – chân lý nghĩa là thẩm tra, xem xét, Đế với Thiên mệnh hiệu triệu thiên hạ. Ngũ Đế được ghi chép trong Kinh Dịch, “Đại Đới lễ ký” là: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Khốc, Nghiêu, Thuấn.

Trong Thuyết Văn, những chữ có liên quan đến Hoàng Đế là:

“Cơ 姬, Hoàng Đế cư trú bên sông Cơ, nên lấy đó làm tên họ”.

“Miện 冕, là mũ của quan đại phu trở lên. Mũ miện tấm phản ở trên, có các dây lưu đeo các viên ngọc ở trước và sau, có chùm tua ở 2 bên. Nghĩa theo chữ Mạo 冃 (chữ mạo cổ, tức cái mũ), âm Miễn 免. Hoàng Đế thời cổ đại là người đầu tiên làm ra mũ Miện”. Hoàng Đế đã thiết lập các chức vị quan, và chế tác ra mũ miện cho các quan chức đội.

“Chỉ 畤, là nơi Ngũ Đế tế trời đất. Nghĩa theo chữ Điền 田, âm Tự 寺. Hữu Phù Phong có 5 Chỉ (nơi tế lễ). Các địa danh Hảo Chỉ, Phu Chỉ đều là nơi tế lễ thời Hoàng Đế”. Từ thời kỳ Ngũ Đế, tế lễ trời đất đã có nơi sử dụng riêng rồi, trong đó Hảo Chỉ và Phu Chỉ ở Phù Phong chính là địa chỉ tế lễ thời Hoàng Đế.

图3:典,甲骨文,双手小心地捧着典册,记录重要的典礼。
Hình 3: Chữ Điển 典, chữ giáp cốt, hai tay cẩn thận nâng sách lễ, ghi chép điển lễ quan trọng.

Đã tương truyền Thương Hiệt sáng tạo ra chữ Hán, vậy có thư tịch lưu lại không? Thuyết Văn có viết: “Điển 典 là sách của Ngũ Đế. Nghĩa là sách ở trên cái Ki, tức gác cao”. Nghĩa gốc của chữ Điển chính là sách thời đại Ngũ Đế. Có nhà khảo cổ cho rằng, thời kỳ Hoàng Đế, chủ yếu là hoạt động ở lưu vực sông Hoàng Hà, nên có lẽ các văn vật sách ở điển tịch đã bị phù sa Hoàng Hà tàn phá và vùi lấp, không thể nào khai quật được.

Ấn tượng chung là, Tam Hoàng Ngũ Đế là hình tượng hư cấu trong Thần thoại, nhưng trong chữ Hán – loại chữ được gọi là ‘hóa thạch sống’, thì nó thực sự đã lưu giữ được những thông tin về Tam Hoàng Ngũ Đế ở các phương diện khác nhau.

(Còn tiếp)

Bản quyền © 1999-2025 thuộc Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/11/11/484897.html

Đăng ngày 06-02-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Văn minh tiền sử trong chữ Hán (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Mối nguy hiểm của trí tuệ nhân tạohttps://vn.minghui.org/news/276585-moi-nguy-hiem-cua-tri-tue-nhan-tao.htmlTue, 21 Jan 2025 10:45:33 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=276585[MINH HUỆ 02-12-2024] Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp trí tuệ nhân tạo (AI) đã đạt được những bước đột phá lớn, chuyển từ nghiên cứu cơ bản sang thương mại hóa với định hướng cao hơn và toàn diện hơn. Trước đây, AI chỉ đóng vai trò […]

The post Mối nguy hiểm của trí tuệ nhân tạo first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Minh Nhất

[MINH HUỆ 02-12-2024] Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp trí tuệ nhân tạo (AI) đã đạt được những bước đột phá lớn, chuyển từ nghiên cứu cơ bản sang thương mại hóa với định hướng cao hơn và toàn diện hơn. Trước đây, AI chỉ đóng vai trò hỗ trợ nhưng hiện nay nó đã được chú ý rộng rãi với nhiều ứng dụng đa dạng. Một số người tin rằng tác động của AI sẽ tương tự như tác động do Internet mang lại và trong một số trường hợp thậm chí còn hơn thế. Tuy nhiên, việc quá phụ thuộc vào AI cuối cùng liệu có dẫn đến việc AI kiểm soát con người không?

Tác giả cho rằng là có, bởi vì bất thất bất đắc. Nhìn chung, AI có thể mang lại cho con người sự hài lòng và tiện lợi nhất thời, nhưng sớm hay muộn, con người sẽ dần mất đi một số khả năng nhất định do AI và cuối cùng phải trả một cái giá rất đắt.

Đầu tiên, AI đang cạnh tranh với con người về cơ hội việc làm và nó có thể cướp đi công việc của nhiều người. Có thể là lập trình phần mềm, viết lách, quản lý văn phòng, nhập dữ liệu, dịch vụ khách hàng, sản xuất dây chuyền lắp ráp, công việc bán lẻ, dịch thuật, nhiếp ảnh và nhiều công việc khác nữa.

Thứ hai, AI có thể tác động đến khả năng học tập, sáng tạo và ra quyết định của nhân loại. Học tập là một quá trình mà qua đó chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn về thế giới, về bản thân và không ngừng cải thiện theo hướng tốt hơn. Với AI, nhân loại không còn cần phải học và cải thiện nhiều nữa, thay vào đó là trực tiếp hướng đến kết quả cuối cùng do máy móc cung cấp. Dần dần, con người có thể trở nên thụ động, lười biếng, mất khả năng tương tác với thế giới, tương tác với nhau, mất khả năng đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề.

Thứ ba, khi AI lan rộng đến nhiều khía cạnh xã hội và cuộc sống, chúng ta có thể mất khả năng nhận biết những gì đang diễn ra trong xã hội, cách lập kế hoạch cho cuộc sống của mình, v.v. Khi AI tiếp cận đến các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống của chúng ta – chẳng hạn như điện thoại di động, máy tính, tivi, ô tô, đồ điện tử gia dụng – và biết cách giao tiếp với nhau, thảm họa thực sự có thể xảy ra. Chúng ta có thể mất quyền riêng tư, bị đưa đến nhầm nơi khi lái xe, bị nhốt bên ngoài ô tô hoặc nhà của mình, v.v.

Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận với trí tuệ nhân tạo trước khi quá muộn.

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/12/2/485582.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/1/15/223661.html

Đăng ngày 21-01-2025; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Mối nguy hiểm của trí tuệ nhân tạo first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Luận đàm từ một sự kiện không phù hợp khoa họchttps://vn.minghui.org/news/273888-luan-dam-tu-mot-su-kien-khong-phu-hop-khoa-hoc.htmlSun, 15 Dec 2024 11:09:48 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=273888[MINH HUỆ 14-10-2024] Ngày 1 tháng 6 năm 1983, một tiểu đội quân Nhật xâm lược Trung Quốc từ Hào Châu, An Huy tiến vào huyện thành Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam. Ở một làng cách huyện thành khoảng 3 dặm, quân Nhật quan sát được góc Đông […]

The post Luận đàm từ một sự kiện không phù hợp khoa học first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Hiểu Độ (Trung Quốc)

[MINH HUỆ 14-10-2024] Ngày 1 tháng 6 năm 1983, một tiểu đội quân Nhật xâm lược Trung Quốc từ Hào Châu, An Huy tiến vào huyện thành Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam. Ở một làng cách huyện thành khoảng 3 dặm, quân Nhật quan sát được góc Đông Nam và Đông Bắc của huyện thành có kiến trúc khá cao, nghi là công sự quân sự, bèn quyết định trước tiên pháo kích phá hủy 2 cứ điểm này. Pháo thủ Taro Umekawa trước tiên pháo kích phá hủy kiến trúc góc đông nam (Khôi Tinh Lâu). Sau đó Taro pháo kích kiến trúc góc đông bắc (Lão Quân Đài), bắn liền mấy phát đạn pháo mà không thấy nổ, cảm thấy không thể nào hiểu nổi, bèn bắn một trái pháo vào trong thành để nghiệm chứng, kết quả là nổ bình thường. Taro lại hướng vào công trình kiến trúc đó bắn pháo, nhưng vẫn không thấy có tiếng nổ, bắn 12 phát đạn pháo đều không nổ. Tiểu đội trưởng đích thân bắn một quả đạn pháo cũng không nổ, tổng cộng là bắn 13 quả đạn pháo.

1. Sự kiện dường như không thể xảy ra trong xác suất học

Quân Nhật tiến vào huyện thành Lộc Ấp, phát hiện tòa đài cao và phòng ốc này thờ phụng tượng Lão Tử của Đạo gia, không khỏi kinh ngạc kêu lên: “Đây là tổ tông Trung Quốc hiển linh”. Toàn bộ quân Nhật quỳ trước tượng Lão Quân dập đầu tạ tội.

图1:河南省周口市鹿邑县老君台
Ảnh 1: Lão Quân Đài huyện Lộc Ấp thành phố Chu Khẩu tỉnh Hà Nam

Huyện Lộc Ấp tỉnh Hà Nam tương truyền là quê nhà của Lão Tử, tòa kiến trúc góc đông bắc trong thành tên là “Thăng Tiên Đài”. Những năm triều Tống, hoàng đế truy phong Lão Tử là “Thái Thượng Lão Quân Hỗn Nguyện Thượng Đức Hoàng Đế”, do đó cũng gọi là “Lão Quân Đài”. Đài cao 13 mét, phần đế chiếm diện tích 764 mét vuông. Đài có tổng cộng 33 tầng bậc thanh, trong chính điện thờ phụng một pho tượng Lão Tử bằng đồng. Trong sân còn có các Thần vật như bia khắc, cột thép v.v.

图2:东山墙及树杈间弹孔
Ảnh 2: Những lỗ đạn pháo trên tường phía đông và trên thân cây

Đạn pháo quân Nhật bắn trúng bức tường phía đông của đại điện, bức tường lệch đông của hậu điện, một viên đạn pháo kẹt trên trạc cây của cây bách phía đông điện, 2 viên xuyên vào bức tường đại điện: 1 viên kẹt trên dầm mái, 1 viên rơi vào Thần kham trước tượng Lão Quân. Khoảng năm 2003, nhân viên thi công khi tu sửa những chỗ bị đổ nát góc tây nam của Lão Quân Đài, đào được 1 quả đạn pháo đã bị rỉ sét của quân Nhật, sau này kích nổ. Đến đây thì toàn bộ 13 quả pháo của quân Nhật đã được tìm thấy. Sau đại điện còn có 2 điện nhỏ, khi đó quân trấn thủ đã tồn trữ đầy thuốc súng trong một căn điện nhỏ, một khi bị kích nổ thì sức tàn phá cực kỳ lớn.

图3:哑弹及说明
Ảnh 3: Những viên đạn pháo không nổ và thuyết minh

13 viên đạn pháo bắn vào Lão Quân Đài đều không nổ, thực sự là không thể tượng tượng nổi, thực sự là chuyện kỳ lạ, mọi người chưa có được lời giải thích, thường cũng không đi sâu nghiên cứu nữa. Nhưng có một số người lại tin rằng, đây là Lão Quân hiển linh, Thần can thiệp, có Thần hộ Pháp, không cho phép nó nổ.

Nhìn từ góc độ xác suất học, cũng là không thể tưởng tượng nổi, xác suất 13 phát đạn pháo liên tiếp đều không nổ hầu như bằng 0. Cụ thể, chúng ta hãy cùng xem:

图4:炮弹图例
Ảnh 4: Sơ đồ các trường hợp đạn pháo

Tính một cách rộng rãi nhất, chúng ta giả thiết tỷ lệ đạn pháo không nổ là 40% (tức là cứ 10 viên đạn thì có 4 viên không nổ), sau đây chúng ta sẽ nhìn thấy, đặt giá tỷ lệ không nổ cao thì càng có tính thuyết phục.

Khi bắn một viên không nổ, thế thì bắn viên thứ hai, viên thứ hai không nổ thì bắn viên thứ ba, chẳng phải là tăng tỷ lệ thành công đó sao?

Do đó chúng tôi nghĩ ra một mô hình “song song”, vì hệ thống song song có thể tăng tính tin cậy. Xuất phát từ việc để độc giả dễ lý giải và trực quan, chúng tôi vẽ sơ đồ. Một nhánh đại biểu một phát đạn pháo, hai nhánh song song biểu thị hai phát đạn pháo. Một phát đạn pháo, tỷ lệ thành công là 60% (vì tỷ lệ không nổ là 40%). Tỷ lệ thành công tức là tính tin cậy. Tính tin cậy và tỷ lệ không nổ là bổ sung lẫn nhau, hoặc nói là loại trừ lẫn nhau, không dung hòa nhau, tổng của hai cái đó là 1. Tỷ lệ thành công = 1 – Tỷ lệ không nổ.

Tỷ lệ thành công khi bắn hai phát đạn pháo là K-84%, tỷ lệ thành công khi bắn ba phát đạn pháo là K-94%, bốn phát là K-97%, đến phát thứ năm, tỷ lệ thành công đạt 99%. Cũng có nghĩa là, tỷ lệ thành công rất cao rồi, nếu bắn 13 phát, thì hầu như là không thể có chuyện không nổ.

Giả sử chúng ta lấy tỷ lệ đạn pháo không nổ là 20% (tức tỷ lệ thành công K=80%), thì bắn ba viên đạn, tỷ lệ thành công K=96%, đến viên thứ ba, tỷ lệ đã đạt 99% rồi. Do đó nói, cho dù tỷ lệ không nổ cao đến 40%, thì cũng chỉ cần năm quả đạn pháo là đã “giải quyết được vấn đề” rồi. Nhưng thực tế, tỷ lệ đạn pháo không nổ không cao như thế này.

Nhưng sự kiện Lão Quân Đài này lại trái với quy luật xác suất học, dường như đã cho lý thuyết xác suất một cái tát.

Bởi vì tính tỷ lệ không nổ của hệ thống song song là rất dễ, nó là tích của các tỷ lệ không nổ của các mạch nhánh. Còn tỷ lệ thành công (tính tin cậy), chỉ cần dùng 1 trừ đi tỷ lệ không nổi là xong.

2. Khoa học hiện đại nhỏ hơn chân lý của vũ trụ rất nhiều

图5:附在墙上的记述老君台事件的说明
Ảnh 5: Bản thuyết minh kể về sự kiện Lão Quân Đài dán trên tường

Phương pháp luận của nghiên cứu khoa học cho rằng, một lý thuyết chỉ cần có một trường hợp trái ngược xuất hiện là có thể bị lật đổ. Trong sự kiện Lão Quân Đài, chẳng phải xác suất học đã vô hiệu đó sao? Tôi cho rằng đúng là như thế. Nhưng tôi không tinh thông về xác suất học, nên cũng không ra ra luận đình 100%.

Vậy tại sao xác suất học lại được ứng dụng rộng rãi trong hiện thực? Tôi nhìn nhận thế này: Chúng ta thừa nhận xác suất học có ứng dụng hiệu quả trong hiện thực, nhưng xác suất học không bao quát và giải thích được tất cả mọi hiện tượng. Sở dĩ xác suất học có hiệu quả ở những phương diện đó, là vì phương diện đó phù hợp với quy luật vũ trụ ở tầng thứ đó. Còn ở phương diện và tầng thứ cao hơn như sự kiện Lão Quân Đài, thì nó không thích hợp nữa. Đằng sau việc này đều có phép tắc vũ trụ khống chế, cũng là Thần khống chế.

Quan điểm cơ bản của xác suất học cho rằng: Các sự kiện xảy ra ở nhân loại “đều là sự kiện tùy cơ”. Chúng tôi trải qua nhiều năm học Pháp Luân Đại Pháp, có những nhận thức khác nhau đối với thế giới, nhìn những sự kiện của nhân loại là “tùy cơ”, ngẫu nhiên, nhưng không có việc nào ngẫu nhiên cả, đều là có nguyên nhân. Sự vận hành của nhân loại chính là một vở kịch, đến bước nào diễn cái gì, mỗi sự kiện xuất hiện chính là một vai diễn đã được an bài. Cuộc đời của một người là chiểu theo sự an bài đó, mỗi sự tình cũng là có tiền nhân hậu quả. Bạn đã nhìn thấy sa mạc cao nguyên xảy ra lũ lụt chưa? Nó đã xảy ra rồi đó. Bão đã gây ra tổn thất to lớn cho ba tỉnh Đông Bắc Trung Quốc. Còn có các hiện tượng như nước sông chảy ngược v.v., cũng đều đã xuất hiện rồi. Tai họa của nhân loại đều là lời cảnh cáo của Thượng Thiên đối với con người, con người cần phản tỉnh bản thân mình.

Cơ học Newton cũng được mọi người công nhận và sử dụng, nhưng nó không thể giải thích được hiện tượng con người bay lên, do đó nó không phải nguyên nhân chân thực của vũ trụ. Hiện tượng con người bay lên là có rất nhiều ghi chép rồi.

3. Sai một ly đi một dặm

Khoa học hiện đại cũng là không ngừng đổi mới, thậm chí lật đổ những nhận thức trước đây, mặc dù như vậy, nó cũng chưa nhận thức được chân tướng của vũ trụ. Khoa học hiện đại là đứng ở góc độ nhân loại, hoặc nói là những gì mắt thường nhìn thấy để quan sát thế giới, bài xích Thần, còn không gian bề mặt của nhân loại lại là không gian mê, là tương phản với chân tướng của vũ trụ, do đó khoa học hiện đại không chỉ có rất nhiều sai lầm, mà còn vĩnh viễn sẽ không đạt đến độ cao của chân lý vũ trụ.

Trong lịch sử khoa học, thường là, một lý thuyết giải thích được cái này thì không giải thích được cái kia, được cái này thì mất cái kia, thường đều là thầy bói xem voi. Muốn giải thích hoàn mỹ tất cả mọi thứ của nhân loại, duy chỉ có lấy việc tín Thần làm cơ điểm, thông qua tu luyện chân chính, đề cao cảnh giới tâm tính, từng bước đồng hóa với chân lý vũ trụ Chân Thiện Nhẫn, từ đó liễu ngộ được chân lý vũ trụ.

Rất nhiều người cho rằng “Chân Thiện Mỹ” rất tốt, kỳ thực cái Mỹ mà người thường nói đó chính là người thường không thực sự lý giải hàm nghĩa chân chính của Nhẫn thì mới nói như vậy. “Mỹ” trong xã hội người thường hoàn toàn không thể nào sánh được với Nhẫn trong chân lý vũ trụ, sao có thể nói đến việc thay thế được? Trong xã hội nhân loại, biểu đạt thiện tính thì Mỹ là Mỹ – tốt đẹp, còn biểu đạt tà mị và ác, tuy có mượn danh nghĩa của Mỹ, thực chất là rất xấu, là ác, là ma tính, là hại người hại mình.

Vậy Nhẫn là gì? Giống như rất nhiều người, không cần nghĩ ngợi gì, cho rằng Nhẫn chỉ có nghĩa là khó chịu, đau đớn, oan ức sao? Hoàn toàn không phải như vậy…

Mỹ và Nhẫn, sai khác một chữ, đâu chỉ là “sai một ly đi một dặm”!

Bản quyền © 2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/10/24/484106.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/12/3/221919.html

Đăng ngày 15-12-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Luận đàm từ một sự kiện không phù hợp khoa học first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Lập đông”: Vạn vật ẩn tàng, nuôi dưỡng tinh nhuệhttps://vn.minghui.org/news/273680-lap-dong-van-vat-an-tang-nuoi-duong-tinh-nhue.htmlSat, 07 Dec 2024 15:18:22 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=273680[MINH HUỆ 04-11-2024] [Ký giả Nhan Phác Phương của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập] Nóng đi lạnh đến, thu thu hoạch, đông tàng trữ. Tiết khí cuối cùng của mùa thu là Sương giáng vừa qua, tiếp theo sẽ là Lập đông. Lập đông là khởi đầu của mùa đông, là tiết […]

The post “Lập đông”: Vạn vật ẩn tàng, nuôi dưỡng tinh nhuệ first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 04-11-2024] [Ký giả Nhan Phác Phương của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập] Nóng đi lạnh đến, thu thu hoạch, đông tàng trữ. Tiết khí cuối cùng của mùa thu là Sương giáng vừa qua, tiếp theo sẽ là Lập đông.

Lập đông là khởi đầu của mùa đông, là tiết khí thứ 19 trong 24 tiết khí, mặt trời đi đến vị trí 225 độ trên đường Hoàng đạo, hàng năm bắt đầu từ ngày 7 hoặc 8 tháng 11 Dương lịch. Ngày Đông chí năm 2024 là ngày 7/11.

2024-11-3-203806-0--ss.jpg

“Mùa xuân cày cấy, mùa hạ làm cỏ, mua thu thu hoạch, mùa đông tàng trữ”, đó là những việc lớn trong 1 năm ở xã hội cổ đại. “Tứ Lập” trong 24 tiết khí là Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, là những ngày lễ tiết quan trọng. “Chu bễ toán kinh – Quyển hạ” có viết rằng: “Tứ Lập, là bắt đầu của sinh sôi, phát triển, thu hoạch, tàng trữ”. Lập tức khởi đầu kiến tạo, bắt đầu từ đây. Hoàng lịch Trung Quốc coi Tứ Lập là khởi đầu của 4 mùa.

“Nguyệt lệnh 72 hậu tập giải” có viết rằng: “Mùa đông là kết thúc, vạn vật ẩn tàng”. Ý nghĩa là sự hoạt động của vạn vật đi đến dừng nghỉ, động vật tàng ẩn chuẩn bị ngủ đông, nuôi dưỡng tinh nhuệ, chuẩn bị để mùa xuân sang năm bừng bừng sức sống. Cây trồng cũng thu hoạch phơi xong, tàng trữ trong kho. Người nông dân trải qua 1 năm lao động cày cấy vất vả, nhân ngày đông nông nhàn, nghỉ ngơi dưỡng sức, phục hồi nguyên khí.

'农作物收晒完毕、收藏入库。(清 黄钺《春台熙皋・册・玉粒冬藏》,台北故宫博物院)'
Cây trồng cũng thu hoạch phơi xong, tàng trữ trong kho. (Tranh Tàng trữ thóc mùa đông của Hoàng Việt đời Thanh – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Đặc sắc Lập đông: Mưa thuốc giết các loài côn trùng

Thời tiết Lập đông rất quan trọng đối với nông dân cổ đại. Khi đó chưa có dự báo thời tiết, các cụ già ở nông thôn căn cứ vào việc quan sát mưa, nắng, hướng gió vào ngày này, đã tổng kết ra “Mùa đông có lạnh hay không, hãy xem ngày Lập đông”.

Rốt cuộc là xem như thế nào? Một số câu tục ngữ lưu truyền đã lâu, qua đó có thể biết được vài phần, như: “Lập đông có mưa, phòng mùa đông giá lạnh; Lập đông không mưa, phòng mùa xuân hạn hán”; “Lập đông tạnh nắng, cả mùa đông băng giá; Lập đông âm u, cả mùa đông ấm áp”; “Lập đông có gió bắc, áo da đắt như vàng; Lập đông có gió nam, áo da treo góc nhà”.

Mưa vào thời gian giữa tiết Lập đông và Tiểu tuyết, có tên gọi đặc biệt là “mưa thuốc” hoặc “mưa dịch”.

“Bản thảo cương mục – Thủy bộ” của Lý Thời Trân đời Minh có ghi chép rằng: “Ngày thứ 10 sau Lập đông là nhập dịch, đến Tiểu tuyết là xuất dịch, có mưa gọi là mưa dịch, cũng gọi là mưa thuốc. Các loài côn trùng uống nước mưa này đều ẩn tàng ngủ đông, đến mùa xuân sấm nổi lên mới xuất hiện”. Lý Thời Trân còn nói rằng, mưa thuốc có thể “giết các loài côn trùng, thích hợp dùng để đun thuốc sát trùng”. Ý nghĩa là các loài côn trùng uống nước mưa này đều ẩn tàng ngủ đông, cho đến mùa xuân năm sau khi có tiếng sấm thì mới xuất hiện, do đó gọi là mưa thuốc, có thể dùng để giết các loài côn trùng hoặc đun thuốc sát trùng”.

Ba dấu hiệu Lập đông

Lập đông là tiết trong tháng 10 Hoàng lịch. Bài thơ “Vịnh 24 khí thi – Lập đông thập nguyệt tiết” của Nguyên Chẩn – thi nhân đời Đường, có viết rằng: “Sương giáng lạnh thân người, băng nhẹ nước sạch đầy. Bóng trăng dần hao mòn, mấy hàng nhạn về Nam. Ruộng đồng đã thu hoạch, áo ấm cũng làm xong. Gà đồng chui xuống nước, hóa ngao sò không khó”. Mấy câu thơ này đã miêu tả chính xác dấu hiệu cảnh vật Lập đông.

Dấu hiệu thứ nhất: Nước bắt đầu thành băng

Dấu hiệu thứ hai: Đất bắt đầu đông kết

Dấu hiệu thứ ba: Gà đông xuống nước thành ngao sò. Sau tiết Lập đông, không nhìn thấy gà đồng nữa, còn bên bờ biển lại xuất hiện ngao sò có hoa văn và màu sắc giống như màu lông gà đồng, do đó người xưa cho rằng, sau Lập đông, gà đồng biến thành ngao sò.

'唐代诗人元稹的《咏廿四气诗・立冬十月节》贴切地描写了立冬物候:“霜降向人寒,轻冰渌水漫。”(瑞士法轮功学员摄影作品)'
“Vịnh 24 khí thi – Lập đông thập nguyệt tiết” của Nguyên Chẩn, thi nhân đời Đường đã miêu tả chính xác dấu hiệu của Lập đông rằng ““Sương giáng lạnh thân người, băng nhẹ nước sạch đầy”. (Ảnh của học viên Pháp Luân Công Thụy Sĩ)

Tập tục Lập đông

Giao tế nghênh đông

Trong xã hội cổ đại, hoàng đế thực hiện nghi lễ ra ngoại ô đón mùa đông, đồng thời ban thưởng y phục mùa đông cho quần thần, chăm sóc người cô quả.

“Lễ ký – Nguyệt lệnh” có ghi chép rằng: “Ngày Lập đông, Thiên tử đích thân dẫn Tam công, Cửu khanh, các quan đại phu để đón mùa đông ở ngoại thành phía bắc. Khi trở về, ban thưởng cho người chết vì việc công, chăm sóc người cô quả”. “Tế Thần Đất vùng Thần Châu ở ngoại ô phía bắc”.

Ngày Lập đông, Thiên tử dẫn bá quan đến ngoại ô phía bắc đón mùa đông, cúng tế Thần Đất. Sau khi hồi cung, còn chăm sóc vỗ về gia quyến người chết vì việc công, và người cô quả. Ba ngày trước Lập đông, viên quan cai quản lịch pháp cúng tế sẽ báo cáo với hoàng đế ngày Lập đông, hoàng đế bắt đầu tắm gội trai giới. Ngày Lập đông, hoàng đế dẫn Tam công, Cửu khanh đến ngoại ô phía bắc (Bắc giao) để cúng tế nghênh đón mùa đông. Sau khi trở về, còn ban thưởng lớn để vỗ yên xã tắc. Hoàng đế sẽ ban áo da cho bề tôi và gia quyến của họ. Hoàng đế hiền đức còn phát đồ cứu tế cho người dân nghèo, để họ vượt qua mùa đông dễ chịu hơn.

'天坛是中国古代帝王祭天的场所。自天坛建成至今,曾有23位皇帝在此举行过682次祭祀大礼。(公有领域)'
Thiên Đàn là nơi các đế vương Trung Quốc cổ đại tế Trời. Từ khi xây dựng cho đến nay, đã có 23 hoàng đế cử hành 682 đại lễ tế tự ở Thiên Đàn.

Ngày Lập đông, nông dân tế tự vui mừng thu hoạch, một số khu vực có tập tục tế tổ tiên, mở yến tiệc được mùa v.v. Ý nghĩa của Lập đông đối ứng với suy nghĩ của xã hội nhân văn, là mùa cảm tạ ân huệ, tôn kính Trời Đất và tu đức, thương sót sinh mệnh.

Dự trữ rau mùa đông

Ở miền bắc Trung Quốc, khi Lập đồng, trời lạnh nước đóng băng, đã tiến vào thời kỳ rau quả không sinh trưởng. “Đông Kinh mộng hoa lục” có ghi chép rằng, kinh thành thời kỳ Bắc Tống là Biện Kinh (tức Khai Phong ngày nay), trên đến hoàng cung, dưới đến dân gian, đều bắt đầu dự trữ lương thực và rau vào thời gian Lập đông để chuẩn bị sống trong qua mùa đông. Trước ngày Lập đông, trên đường giao thông bận rộn, đầy những ngựa xe, lạc đà chở đầy thực phẩm để sống qua mùa đông, tạo thành quang cảnh tiết Lập đông.

Ăn sủi cảo

Miền bắc Trung Quốc có tập tục Lập đông ăn sủi cảo, vì Cảo và Giao gần âm, do đó có câu nói rằng, lúc giao thời giờ Tý ăn sủi cảo. Mới cũ bàn giao vào giờ Tý, ban đêm vào giờ Tý là giao thời giữa ngày cũ và ngày mới, giờ Tý Lập đông là giao thời giữa mùa thu và mùa đông. Giờ Tý mồng một Tết là giao thời giữa năm cũ và năm mới. Giao thời giờ Tý ăn sủi cảo, tượng trưng sự khởi đầu mới.

'冬天藏护得当,遵循天时变化调养饮食、起居,则能保养精神和元气。( 明 赵左《寒江草阁・轴》局部,台北故宫博物院)'
Mùa đông dưỡng tàng giữ gìn thích hợp, tuân theo sự thay đổi của thiên thời điều chỉnh ẩm thực, sinh hoạt, thì có thể bảo dưỡng tinh thần và nguyên khí. (Một phần bức tranh Hàn Giang Thảo Các của Triệu Tả đời Minh – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Lập đông dưỡng sinh

Thuận theo sự biến đổi của quy luật tự nhiên “Xuân sinh sôi, hạ tăng trưởng, thu thu hoạch, đông tàng trữ”, thời tiết Lập đông, tiểu vũ trụ là thân thể người cũng tiến vào trạng thái “dưỡng tàng” mùa đông. Mùa đông dưỡng tàng giữ gìn thích hợp, tuân theo sự thay đổi của thiên thời điều chỉnh ẩm thực, sinh hoạt, thì có thể bảo dưỡng tinh thần và nguyên khí, tránh sự xâm hại của bệnh tà.

Tẩm bổ mùa đông

“Lập đông bổ đông”, “Bổ đông bổ miệng”, “Mùa đông tẩm bổ, sang năm đánh hổ”, người xưa cho rằng, sau Lập đông thì hàn khí nặng, thân thể dễ bị không thoải mái, do đó dân gian có thói quen ẩm thực “Bổ đông”. Lúc Lập đông “tẩm bổ” để bổ sung nguyên khí, chống lại giá lạnh, dưỡng tinh súc nhuệ, chuẩn bị tốt cho sang năm, đồng thời cũng khao thưởng cả nhà đã vất vả cả một năm qua.

Tẩm bổ mùa đông, bổ ôn là thích hợp, có thể lựa chọn thực phẩm ôn nhiệt chế biến món ăn, như: gừng già, tỏi, quế, nhục đậu khấu, bạch đậu khấu, hồ tiêu, nhục thung dung, hồi, nhãn khô v.v., có hiệu quả làm ấm thân thể và bảo vệ sức khỏe.

Lẩu dê, vịt mái om gừng, gà om dầu vừng, sườn hầm thuốc bắc v.v., là những mon ăn bổ dưỡng mùa đồng thường thấy. Mỗi người có thể chất khác nhau, do đó hãy tư vấn thầy thuốc Đông y để biết thân thể mình là hàn nhiệt hư thực thế nào, thì mới không bị tẩm bổ mù quáng.

Sử dụng các thực phẩm màu đen

“Hoàng Đế nội kinh” có viết rằng: “Phương bắc sinh hàn, hàn sinh thủy, thủy sinh mặn, mặn sinh thận”. Có thể thấy, thận đối ứng với mùa đông. Trong ngũ hành, mùa đông thuộc hành Thủy, thuộc màu đen, “màu đen đi vào thận”, do đó thực phẩm màu đen thích hợp với dưỡng âm, dưỡng thận mùa đông.

Ví như, gạo nếp cẩm dưỡng âm bổ thận, kiện tỳ dưỡng gan; đỗ đen bổ gan thận, khỏe gân cốt; vừng đen bổ gan dưỡng thận, sáng mắt đen tóc; táo đen (táo tầu đen) bình vị kiện tỳ, bổ thận tăng tủy; mộc nhĩ đen dưỡng âm bổ thận, dưỡng vị bổ thận v.v., đều là những sản phẩm tốt.

Ngoài ra, ngạn ngữ có câu “Lập đông củ cải hơn canh sâm, không phiền thầy thuốc kê đơn thuốc”, vì vậy, sau Lập đông cũng nên ăn nhiều hồng củ cải trắng, xanh, đỏ.

'立冬后也宜多吃红、白、青等不同颜色的萝卜。(清 金廷标《仿陈书画・册・萝卜霜松》局部,台北故宫博物院)'
Sau Lập đông cũng nên ăn nhiều hồng củ cải trắng, xanh, đỏ. (Một phần bức tranh Củ Cải Sương Tùng của Kim Đình Tiêu đời Thanh – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Ngủ sớm dậy muộn

“Hoàng Đế nội kinh” có ghi chép rằng: “3 tháng mùa đông, gọi là bế tàng, ngủ sớm dậy muộn, ắt chờ ánh sáng mặt trời”. Thời cổ đại, mọi người tuân theo thói quen sống “mặt trời mọc làm việc, mặt trời lặn nghỉ ngơi”, để thân thể thích ứng với thiên nhiên. Sau Lập đông nên ngủ sớm dậy muộn, sinh hoạt theo thời gian của mặt trời, hơn nữa mỗi khi lao động thì lấy mức độ là để thân thể không mệt mỏi.

Làm việc và nghỉ ngơi như thế này thì người hiện đại khó làm được, nhưng khuyến cáo là hãy cố gắng hết sức đảm bảo giấc ngủ đầy đủ, có lợi cho việc ẩn tàng dương khí, tích tụ thận tinh.

Nhìn từ ngũ hành tương khắc, đông thủy khắc hỏa, hỏa thuộc tâm, do đó dễ xảy ra các bệnh về tim mạch.

“Hoàng Đế nội kinh” có viết rằng: “Điềm đạm hư vô, chân khí theo về, tinh thần giữ bên trong, bệnh sao có thể vào được?”. Ý nghĩa là: Cố gắng hết sức không để nhọc cái tâm trí và tổn thương tinh thần, không tức giận, để tinh thần thu vào bên trong, không phóng túc truy cầu, an tĩnh tri túc, không lo nghĩ, như thế thì chính khí trong thân thể tự theo đó mà điều hòa, Tinh – Khí – Thần đầy đủ, thì bệnh tật khó mà tiếp cận thân thể được.

'善意包容能消融冰霜,让人如沐春风。(法轮功学员美术作品《山村福音》,明慧网)'
Thiện ý bao dung có thể tan băng giá tuyết sương, khiến người ta như tắm trong gió xuân. (Tác phẩm mỹ thuật “Sơn thôn phúc âm” của học viên Pháp Luân Công)

Bao dung và cảm ân

Lập đông mở màn mùa đông. Nước ngưng kết thành băng, gió bắc vù vù, đất lạnh giá, vạn vật thu tàng, tránh giá lạnh. Nhưng vẫn có một sự ấm áp, có thể làm tan băng giá tuyết sương, có thể khiến người ta như tắm trong gió xuân, đó chính là thiện ý và bao dung giữa người với người.

Mùa đông là thời tiết nghỉ ngơi điều dưỡng, dưỡng tinh súc nhuệ, cũng là thời gian nhìn lại mình, làm trong sạch nội tâm, cảm tạ ân huệ của Trời Đất. Người Trung Quốc nói “kính phụng thiên thời, để con người hợp với Trời”. Nguyện chúc các bạn nuôi dưỡng tàng chứa tốt Tinh Khí Thần của mình, chuẩn bị tốt cho mùa xuân tới. Xin giới thiệu với các bạn tuyển tập: Trân quý sinh mệnh.

Bản quyền © 2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/11/4/484671.html

Đăng ngày 07-12-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Lập đông”: Vạn vật ẩn tàng, nuôi dưỡng tinh nhuệ first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Sương giáng” cuối thu: Gió cuốn sạch mây nhẹ, bầu không vạn dặm sươnghttps://vn.minghui.org/news/273306-suong-giang-cuoi-thu-gio-cuon-sach-may-nhe-bau-khong-van-dam-suong.htmlSat, 23 Nov 2024 16:05:41 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=273306[MINH HUỆ 16-10-2024] [Ký giả Nhan Phác Phương của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập] Trong “Gió thu xào xạc thời tiết mát, cỏ cây lay động trong màn sương” [1], Sương giáng – tiết khí cuối cùng của mùa thu đã tới. Sương giáng, là tiết khí thứ 18 trong 24 tiết […]

The post “Sương giáng” cuối thu: Gió cuốn sạch mây nhẹ, bầu không vạn dặm sương first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 16-10-2024] [Ký giả Nhan Phác Phương của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập] Trong “Gió thu xào xạc thời tiết mát, cỏ cây lay động trong màn sương” [1], Sương giáng – tiết khí cuối cùng của mùa thu đã tới. Sương giáng, là tiết khí thứ 18 trong 24 tiết khí, mặt trời đi đến vị trí 210 độ Hoàng đạo, vào khoảng từ 22 tháng 10 đến 24 tháng 10 Dương lịch hàng năm. Sương giáng năm 2024 là ngày 23/10.

2024-10-15-204057-0--ss.jpg

“Nguyệt lệnh 72 hầu giải tập” có viết: “Trong tháng 9, khí thu lại và ngưng đọng, sương móc kết thành sương”. Ý nghĩa là, tháng 9 Hoàng lịch, nhiệt độ liên tục giảm, vào ban đêm và sáng sớm, khí nước trên mặt đất hoặc trên các vật mặt đất ngưng kết thành tinh thể băng xốp, gọi là sương. Thông thường gọi sương lần đầu xuất hiện trong mùa thu là Tảo sương, hoặc Sơ sương.

“Sương giáng khiến người lạnh, băng nhẹ nước chảy chậm” [2]. Sau Sương giáng, tiết khí tiếp theo là Lập đông. Do đó, Sương giáng ở bắc bán cầu ngụ ý thu qua đông tới, thay đổi mùa, lúc này những thực vật không chịu được giá lạnh sẽ dừng sinh trưởng, đại bộ phận các khu vực ở Trung Quốc đều cảm thấy thời tiết chuyển sang mát và se lạnh.

Sương giáng tam hậu

Câu thơ của Nguyên Chẩn, thi nhân đời Đường “Gió cuốn sạch mây nhẹ, bầu không vạn dặm sương” [3] đã miêu tả đặc điểm của Sương giáng: Gió bắc cuốn mây nhẹ đi, bầu trời vạn dặm phủ lớp sương sớm. Thi nhân Bạch Cư Dị cũng cảm nhận được Sương giáng là đã sắp đến cuối năm: “Sương giáng nước về suối, gió thổi cây về núi, chậm rãi năm sắp hết, vật trở về cội nguồn” [4].

Sương giáng bắt đầu, khí hậu dần dần từ cuối thu bước sang mùa đông, “Dật Chu thư – Thời huấn” đã ghi chép 3 giai đoạn vật hậu của Sương giáng:

Sói là loài thú săn mồi cúng tế: khi Sương giáng đến, sói bắt đầu chuẩn bị thức ăn mùa đông, săn bắt con mồi rồi để cùng một nơi, giống như là cúng tế vậy.

Cỏ cây vàng rụng: 5 ngày sau tiết Sương giáng, vạn vật cảm ứng khí khắc nghiệt của trời đất, cỏ cây lá khô vàng rụng. Thơ của Trương Hoành đời Hán có viết “Than” về nỗi buồn mùa thu rằng: “sương rơi nhiều, cây cỏ tiêu điều”.

Côn trùng ngủ đông: 10 ngày sau Sương giáng, hàn khí dần xâm nhập, loài côn trùng ngủ đông trong các hang lỗ, không cử động cũng không ăn. Trong “Đế cư kiềm nam thập thủ” của Hoàng Đình Kiên đời Tống có viết: “Sương giáng nước về suối, gió thổi cây về núi. Chậm rãi năm sắp hết, côn trùng đều bế quan”, đã viết rằng thời gian này, côn trùng tiến vào trạng thái ngủ đông.

'唐代诗人元稹的“风卷清云尽,空天万里霜。”形容了霜降节气的特点:北风卷起清云而去,空天万里披上了早霜。(清《允禧山水・册・枫叶霜林》,台北故宫博物院)'
Câu thơ của Nguyên Chẩn, thi nhân đời Đường “Gió cuốn sạch mây nhẹ, bầu không vạn dặm sương” đã miêu tả đặc điểm của Sương giáng: Gió bắc cuốn mây nhẹ đi, bầu trời vạn dặm phủ lớp sương sớm. (Bức tranh “Lá phong rừng sương” của Doãn Hy đời Thanh – Bảo tàng Cố cung Đài Bắc)

Sương giáng dưỡng sinh: Nên bổ bình hòa, kiêng cay nóng

Đối ứng với sự thay đổi của 4 mùa, thì việc dưỡng sinh đương nhiên là không thể coi nhẹ, vào tiết Sương giáng cuối thu, khi độ chênh nhiệt độ trong ngày lớn, cần chú ý đạo dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe thân và tâm, tránh. Sinh hoạt và nghỉ ngơi nên tiếp tục ngủ sớm dậy sớm như đầu thu và giữa thu, tránh vận động đột ngột và quá mức. Tiến hành các hoạt động có lợi cho sức khỏe thân tâm và não, như: Học tập những sự vật mới, sáng tác, luyện tập tĩnh tọa v.v… điều này có lợi cho việc tiến vào trạng thái yên tĩnh, vui vẻ và chuyên chú, có thể tránh được trạng thái trầm uất mùa thu như tinh thần sa sút, thiếu khí lực v.v…

Theo quan điểm dưỡng sinh học của Đông y, bên ngoài cần thêm quần áo giữ ấm toàn thân, đặc biệt chú ý giữ ấm vùng bụng. Nếu cục bộ thân thể giữ ấm không thỏa đáng, thì các chứng bệnh như dạ dày mạn tính, đau khớp trời lạnh (viêm khớp gối), viêm khí quản mạn tính, sẽ tái phát và nặng thêm, cũng dễ gây ra các bệnh tim mạch, viêm mũi dị ứng, cảm cúm thu đông và nhiễm trùng đường hô hấp.

Bên trong cần nhuận táo nhuận phế, coi trọng bổ tỳ dưỡng vị, tăng cường chức năng phòng vệ của thân thể. Ngạn ngữ nói rằng: “Bổ cả năm không bằng bổ Sương giáng”, “Bổ mùa đông không bằng bổ Sương giáng”. Mùa thu không thích hợp phương thức bổ táo nhiệt, ẩm thực nên bổ bình hòa là chính, và cần điều dưỡng khí huyết để dưỡng vị, do đó dùng thực phẩm thiên nhiên thanh đạm và bình hòa là thích hợp, như: lê, táo, trám, bạch quả (ngân hạnh), hành tây, rau cải, củ cải, long nhãn, táo tàu, mật ong, mã đề v.v.

Có thể ăn nhiều cháo. Trong “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân có viết rằng: “Phương thuốc cổ có dùng thảo dược, gạo tám, gạo tẻ, lúa mạch nấu cháo, trị được rất nhiều bệnh”. Các thầy thuốc Đông y vùng Hoa Hạ cổ đại đều khuyên dùng cháo, vì cháo là thực phẩm dưỡng sinh bổ bình hòa, có tác dụng làm ấm dạ dày, và sinh tân dịch, ví như: cháo rau quỳ, cháo bột bách hợp, cháu rau, cháo hạt thông v.v., đều là bổ bình hòa rất phù hợp.

Cuối thu rất dễ bị khô táo, thân thể rất dễ bốc hỏa, cần tránh ăn những thực phẩm kích thích dạ dày và ruột, như vịt om gừng, gà hầm rượu và thuốc bắc, lẩu dê v.v., hoặc các món ăn cay nóng, đều có thể làm cho người có thể chất táo nhiệt càng dễ bốc hỏa dẫn đến táo bón. Ngoài ra, mùa thu thường ăn hạt dẻ, tuy là món ngon bổ dưỡng, nhưng cần lưu ý ăn hạt dẻ sống cực kì khó tiêu hóa, ăn chín thì dễ trệ khí, nên người có hệ thống tiêu hóa không tốt thì không nên ăn nhiều.

Tập tục Sương giáng

Đánh Sương giáng

Trong Chu Lễ có ghi chép, đại tư mã (chức quan quản lý quân đội toàn quốc) khi xuất quân, cần tiến hành tế lễ với kỳ đào (cờ tiết) gọi là “Quân nha lục đạo chi Thần”. Theo phong tục cổ, mỗi năm vào ngày Lập xuân là ngày khai binh, Sương giáng là thời kỳ thu binh. Do đó trước ngày Sương giáng, tổng binh và các võ quan của các phủ, huyện trang bị nai nịt đầy đủ, mặc giáp đội mũ giáp, tay cầm đao thương cung kiếm, dàn quân trước miếu cờ tiết (kỳ đào) cử hành nghi lễ thu binh, để cầu loại bỏ những điều không may mắn, thiên hạ thái bình.

Lúc canh năm ngày Sương giáng, các võ quan hướng về cờ tiết hành đại lễ 3 quỳ 9 khấu đầu. Lễ xong, dàn đội ngũ chỉnh tề đâm thương vào không khí 3 nhát kêu vang, sau đó lại thử hỏa pháp, đánh thương, gọi là “Đánh Sương giáng”, cũng gọi là “Tế kỳ đào”. Người dân thường đến xem đông như nước thủy triều.

Thu tế Sương giáng thời cổ đại biểu lộ sự sùng kính của con người đối với Thượng Thiên.

'清《雍正帝祭先农坛图卷》局部。(公有领域)'
Một phần bức tranh “Ung Chính Đế tế Tiên Nông đàn” đời Thanh.

Thả diều

Ngoài tiết Thanh minh ra thì ngày Sương giáng cũng được coi là ngày thả diều. Do vùng Giang Nam vào thời gian tháng 3, tháng 4 là mùa mưa, không thích hợp thả diều, do đó dân chúng địa phương thường chọn ngày Trùng cửu và Sương giáng vào tiết thu trời trong xanh gió mát để thả diều, mỗi năm các địa phương của Đài Loan cũng cử hành lễ hội thả diều vào những ngày này.

Ăn hồng, củ cải

Trước và sau tiết Sương giáng, chính là thời kỳ hồng chín, do đó dân gian có câu nói “Sương giáng hồng đỏ như lửa” và “Sương giáng hái hồng”. Sau khi có sương, cây hồng rụng hết lá, những quả hồng lúc lỉu như những cái đèn lồng nhỏ treo đầy cành, mà những trái hồng sau khi bị sương xuống thì vị càng ngọt, vị chát càng ít, là thời gian tốt nhất để hái hồng.

Trong “Bản thảo cương mục”, Lý Thời Trân ghi chép rằng: “Hồng là trái cây bổ tỳ, phế và bổ huyết, Hồng có vị ngọt và bình hòa, tính sáp và thu liễm, có tác dụng kiện tì sáp tràng, trị ho cầm máu”. Từ thời cổ đại, hồng đã được coi là loại trái cây quý vừa ngon vừa bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe.

'霜降前后,正是柿子的成熟期。(图为《元人丰登报喜图・轴》局部,前方果盘盛满百合、柿子、苹果、佛手,旁置柏枝与柿、灵芝与细颈玻璃瓶,巧妙运用同音谐音,表达“百事平安、福气吉祥”之意,台北故宫博物院)'
Trước và sau tiết Sương giáng, chính là thời kỳ hồng chín. (Một phần bức tranh Được mùa báo hỷ thời nhà Nguyên. Đĩa trái cây phía trước đựng đầy bách hợp, hồng, táo, phật thủ, bên cạnh là bình cổ mảnh cắm cành bách và hồng, linh chi, dùng đồng âm và hài âm biểu đạt “Bách sự bình an, phúc khí cát tường” – Bảo tàng Cố cung Đài Bắc)

Sau tiết Sương giáng, thời tiết lạnh, rất dễ gây hiện tượng sổ mũi, Đông y nói rằng “Phổi khai khiếu ở mũi”, bảo vệ phổi thích hợp, tự nhiên sẽ không sổ mũi, mà trái hồng có công hiệu rất tốt lợi phế thanh nhiệt, kiện tì và làm ấm dạ dày. Do đó có câu nói rằng “Sương giáng ăn hồng, thì không sổ mũi”.

Người Sơn Đông thì nói “Xử thử cao lương, Bạch lộ ngũ cốc, Sương giáng nhổ củ cải”. Tiết Sương giáng đến là thời gian thu hoạch củ cải, là thực phẩm theo mùa mà thiên nhiên ban tặng. Từ thời cổ đại, dân gian đã lưu truyền câu ngạn ngữ “Đông ăn củ cải hạ ăn gừng, không phiền thầy thuốc kê đơn thuốc”, “Củ cải cuối thu bổ hơn nhân sâm”.

Thưởng cúc, thưởng phong, thưởng mang hoa

Thời cổ có câu nói “Sương xuống hoa cúc nở”, tiếp theo Hàn lộ, Trùng dương leo núi thưởng cúc, tiết Sương giáng, rất nhiều địa phương cử hành hội hoa cúc, nhà phú quý bày hàng trăm chậu hoa cúc quý trong sân rộng, sau đó uống rượu thưởng hoa, ngâm thơ vung bút mực.

Cuối thu, thiên nhiên đổi sang trang phục thu diễm lệ, lá phong ở vùng cao từ xanh chuyển sang màu đỏ, khắp núi đồi là hoa mang (một loại hoa cỏ gần giống cỏ lau) nở rộ. Những lá phong đỏ như lửa tầng tầng lớp lớp, những hoa mang trắng như bạc lắc lư theo gió, tăng thế khí thế náo nhiệt cho mùa thu heo hắt, đó chính là thời tiết đẹp để thưởng thức lá phong và hoa mang.

'“霜叶红于二月花”[5],深秋正是赏枫的好时节!(清 恽寿平《瓯香馆写意・册・枫叶》,台北故宫博物院)'
“Sương giáng lá đỏ hoa tháng 2” [5], cuối thu là thời tiết đẹp thưởng thức lá phong. (Bức tranh Lá Phong của Uẩn Thọ Bình đời Thanh – Bảo tàng Cố cung Đài Bắc)

Biệt ly – nhớ nhung – tu hành

Sương giáng là thời tiết biệt ly. Lá vàng múa rơi, lưu luyến cáo biệt cây. Côn trùng ngủ đông, chim sẻ chim én bay về phương nam, những cánh rừng náo nhiệt trước đây, giờ chỉ còn những cành cây khẳng khiu rụng lá.

Sương giáng là ngày nhớ nhung, vạn vật điêu tàn, quân tử “cảm thời tiết nhớ người thân”. Hoàng Đình Kiên, thi nhân thời Bắc Tống bước trên sương nhớ người thân, “Đi trong hoang dã, không dám bước mạnh. E rằng tâm nhớ người thân sẽ động, có nỗi lo bước trên sương”. Ý nghĩa là, du nhân dạo chơi nơi hoang dã, e sợ bước nhẹ trên sương, tiếng bước chân lao xao, đều sẽ kinh động cái tâm nhớ người thân, lo lắng vì trở về muộn. Sự quan tâm của thi nhân với cha mẹ khiến người ta cảm nhận như chính mình cảm nhận vậy: Thời tiết Sương giáng, hiếu tử “lo lắng bước trên sương“ đã được lưu truyền như thế đó.

Sương giáng cũng là thời cơ tốt của việc tu hành. Hoa đã rụng hết, yên tĩnh mênh mông, khiến cái tâm thất tình lục dục trong ngũ sắc trầm lắng xuống, trong trẻo ra, thể ngộ được bản chân của sinh mệnh. Chúc phúc mọi người trong lúc thu đi đông đến, có thêm lòng yêu thương, có thêm trí huệ, và càng hiểu thêm sự tôn trọng và trân quý, càng chân thành thiện ý và bao dung hơn đối với mỗi ngày hôm nay độc nhất vô nhị, bởi vì mỗi ngày hôm nay đều chứa đầy khả năng sáng tạo tươi đẹp. Xin giới thiệu với mọi người seri: Những câu chuyện đi tìm ý nghĩa sinh mệnh.

'“霜降水返壑,风落木归山。”[4](清 董邦达《秋水芦村・卷》,台北故宫博物院)'
“Sương giáng nước về suối, gió thổi cây về núi” [4]. (Bức tranh Làng lau sông thu của Đổng Bang Đạt đời Thanh – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Chú thích:

[1] tuyển tự “Yến ca hành” của Tào Phi thời Tam Quốc.

[2] “Vịnh 24 khí thu – Lập đông thập nguyệt tiết” của Nguyên Chẩn đời Đường

[3] “Vịnh 24 khí thu – Sương giáng cửu nguyệt trung” của Nguyên Chẩn đời Đường

[4] “Tuế vãn” của Bạch Cư Dị đời Đường

[5] “Sơn hành” của Đỗ Mục đời Đường

Bản quyền © 2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/10/16/483940.html

Đăng ngày 23-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Sương giáng” cuối thu: Gió cuốn sạch mây nhẹ, bầu không vạn dặm sương first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thuhttps://vn.minghui.org/news/272900-han-lo-loi-cho-van-vat-di-xa-tim-co-thom-leo-cao-thuong-sac-thu.htmlFri, 08 Nov 2024 10:57:31 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=272900[MINH HUỆ 07-10-2024] “Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ” [1] – đây là câu thơ trong bài thơ Đường “Trai tâm”, đã nói ra trong sắc thu dần dần nồng nàn, nghênh đón tiết Hàn Lộ. Hàn Lộ là sương đã lạnh, ý nghĩa là đại bộ phận các khu vực […]

The post “Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thu first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 07-10-2024] “Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ” [1] – đây là câu thơ trong bài thơ Đường “Trai tâm”, đã nói ra trong sắc thu dần dần nồng nàn, nghênh đón tiết Hàn Lộ. Hàn Lộ là sương đã lạnh, ý nghĩa là đại bộ phận các khu vực ở Trung Quốc, thời tiết sẽ từ mát mẻ quá độ sang lạnh giá.

2024-10-6-211124-0--ss.jpg

Hàn Lộ là tiết khí thứ 17 trong 24 tiết khí, cũng là tiết khí thứ 5 của mùa thu, mặt trời di chuyển đến kinh độ 195 độ, hàng năm rơi vào khoảng ngày 8 đến ngày 10 tháng 10 Dương lịch. Tiết Hàn Lộ năm 2024 bắt đầu từ ngày 8/10.

“Lịch Thư” có ghi chép rằng: “Sao Bắc Đẩu chỉ hướng nam giáp là Hàn Lộ, lúc này sương lạnh, sắp ngưng kết, do đó gọi là Hàn Lộ”.

“Nguyệt lệnh 72 hậu giải tập” có viết: “Tiết tháng 9, khí sương lạnh, sắp ngưng kết”.

Hàn Lộ là tiết khí xuất hiện chữ Hàn đầu tiên trong 24 tiết khí, nhưng không phải là biểu thị lạnh như mùa đông. Lúc này, khí hậu mát hơn tiết Bạch Lộ, sương cũng nhiều hơn, ban đêm mặt đất ngưng kết những hạt sương long lanh, và sắp ngưng kết thành sương móc, và mang theo chút lạnh, nhưng vẫn chưa tiến vào mùa đông lạnh giá.

'“寒露”气温较“白露”时更凉,露水更多,“凝空流欲遍,润物净宜看”[2]。(瑞士法轮功学员摄影作品)'
“Hàn Lộ” khí hậu mát hơn Bạch Lộ, sương nhiều hơn, “Ngưng tụ trên không chảy khắp nơi, lợi cho vạn vật sạch nên xem” [2]. (Tác phẩm nhiếp ảnh của học viên Pháp Luân Công Thụy Sĩ)

Miền Bắc đã hiện ra cảnh sắc cuối thu, đôi khi thấy sương móc vào buổi sáng. Miền Nam cũng dần đậm sắc thu, mát mẻ hanh khô. Tết Trùng Dương năm 2024 là ngày 11 tháng 10, chính là thời tiết đẹp “Đi xa tìm cỏ thơm” [3], dắt các trưởng bối leo cao lãm thưởng sắc thu.

Hàn Lộ đặc sắc: Ý thu nồng nổi gió cửu giáng

“Phất phơ gió mát thổi, thê lương sương lạnh ngưng” [4], Hàn Lộ (sương lạnh) là bước ngoặt khí hậu chuyển từ mát sang lạnh, mùa thu trước tiết Hàn Lộ mang theo chút mát mẻ, sau tiết Hàn Lộ thì thực sự có chút lạnh rồi, tiết khí ngay sau đó là Sương Giáng. Khoảng thời gian này, nhiệt độ liên tục giảm, cuối thu, sẽ trượt xuống mùa đông như là trượt ống trượt vậy.

Ba dấu hiệu của Hàn Lộ

“Thơ vịnh 24 tiết khí – Tiết Hàn Lộ tháng 9”

Hàn Lộ kinh thu muộn, sáng xem cúc dần vàng
Ngàn nhà gió quét lá, vạn dặm nhạn về nam.
Ngao sò buồn bầy chim, mùa màng sợ sương sớm.
Mới biết chí tùng bách, đông hạ sắc xanh xanh.

Bài thơ này của Nguyên Chẩn – thi nhân đời Đường, đã giải thích 3 dấu hiệu Hàn Lộ vô cùng sống động, khiến người ta cảm giác như chính mình đang trải qua.

Dấu hiệu thứ nhất – Hồng nhạn trở về bờ: Bắt đầu từ tiết Bạch Lộ giữa mùa thu, lục tục có hồng nhạn khởi hành bay về phương Nam. Đến Hàn Lộ mùa thu, loạt hồng nhạn cuối cùng xếp thành hình chữ Nhất hoặc hình chữ Nhân bay về phương Nam.

Dấu hiệu thứ 2 – chim sẻ xuống nước thành ngao sò: Trước sau ngày thứ 5 của Hàn Lộ, cuối thu trời lạnh, chim sẻ không xuất hiện, người xưa nhìn thấy bên bờ biển bỗng nhiên xuất hiện rất nhiều ngao sò, hoa văn và màu sắc vỏ của chúng rất giống chim sẻ, do đó bèn cho rằng, là chim sẻ biến thành.

Dấu hiệu thứ 3 – Cúc bắt đầu nở hoa vàng: Trước và sau ngày thứ 10 tiết Hàn Lộ, hoa cúc vàng nở rộ. Trong “Lễ ký” có ghi chép rằng “Tháng mùa thu, cúc nở hoa vàng”.

'寒露的第十天前后,黄菊盛开。(清 庄瑗《人物画卌・册・高士移菊图》,台北故宫博物院)'
Trước và sau ngày thứ 10 tiết Hàn Lộ, hoa cúc vàng nở rộ. (Tranh “Cao sĩ di cúc đồ” của Trang Viện đời Thanh” – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Nổi gió Cửu giáng

Có câu ngạn ngữ rằng: “Tháng 9 nổi gió Cửu giáng, trốc đầu không nơi trốn”. Sách “Đài Loan huyện chí” do Trần Văn Đạt biên soạn những năm Khang Hy có ghi chép rằng: “Tháng 9, gió bắc lạnh buốt, thời gian lâu có tên là gió Cửu giáng”. Gió cửu giáng là chỉ gió lạnh tháng 9, tiết Hàn Lộ, miền Bắc Đài Loan đúng vào lúc gió mùa đông bắc tăng cường, gió bắc thổi mạnh, thổi bay mũ của những người bị trốc đầu vốn dùng mũ che đậy xấu xí.

Gió Cửu giáng lạnh thấu xương, nhưng tiết Hàn Lộ, ở vùng Bắc Phố, Tân Phố và Quan Tây của huyện Tân Trúc miền Bắc Đài Loan đúng vào mùa thu hoạch trái hồng, lúc này dân gian làm hồng khô, bánh hồng, gió Cửu giáng chính là trợ thủ đắc lực.

Mùa thu ăn trái hồng, có công hiệu bảo vệ sức khỏe tim mạch. Nhìn từ góc độ Đông y, trái hồng tính hàn, vị ngọt, có tác dụng nhuận phế chữa ho.

Tục ngữ có nói rằng: “Ăn cơm Hàn Lộ, ít gặp mặc áo đơn”, “Hàn Lộ chân không lộ”, người già cũng thường nói “lạnh bắt đầu từ chân”, sau Hàn Lộ, cần đặc biệt chú ý giữ ấm, nhất là chân.

Tập tục Hàn Lộ

Leo cao thưởng sắc thu

Hàn Lộ là thời tiết đẹp leo cao thưởng sắc thu, leo cao nhìn xa, tận cùng tầm mắt, sắc thu vàng khắp núi, do đó tục ngữ nói rằng: “Leo cao giải u uất mùa thu”. Do rất gần với tiết Trùng Dương mồng 9 tháng 9 âm lịch, nên tập tục này dần dần dịch chuyển sang tiết Trùng Dương, tập tục Trùng Dương leo cao có khởi nguồn từ thời nhà Hán, ban đầu là để tránh tà.

Nhìn từ sự biến hóa âm dương, người Trung Quốc cổ đại cho rằng “Núi là dương, đầm là âm, cao là dương, thấp là âm”, nơi cao là nơi có dương khí cực thịnh, mùa thu leo cao có thể tụ dương khí. Nhìn từ Tây y, leo cao có thể tăng dung lượng phổi, phòng chống cảm mạo. Tóm lại, leo cao ngắm cảnh sắc đã trở thành một hoạt động tốt giải sầu, thư thái thân tâm vào thời tiết thu này.

Thưởng thức hoa cúc

Tháng 9 Hoàng lịch Hàn Lộ đến, cũng gọi là Tháng hoa cúc, là mùa hoa cúc nở rộ. Khác với những loài hoa khác nở rộ mùa xuân và mùa hạ, hoa cúc càng nhiều sương giá thì càng nở rộ. Hoa cúc là loài hoa có tính tiêu biểu nhất cho thời tiết Hàn Lộ, nơi nơi đều thấy tung tích của cúc, mọi người thưởng ngoạn hoa cúc, uống trà hoa cúc, rượu hoa cúc, đã trở thành thú chơi tao nhã vào tiết khí này.

Trong “Tây khê tùng ngữ” của Diêu Khoan, văn nhân đời Tống đã gọi cúc là Thọ Khách, tượng trưng trường thọ. Trùng Dương mồng 9 tháng 9, chính là thời kỳ hoa cúc nở rộ, Trùng Dương leo cao người thêm thọ, Tết Trùng Dương cũng được gọi là Tết Hoa Cúc.

'寒露到来的黄历九月又称菊月,是菊花盛开的季节。(清 恽寿平 《瓯香馆写生册・菊花》,公有领域)'
Tháng 9 Hoàng lịch Hàn Lộ đến, cũng gọi là Tháng hoa cúc, là mùa hoa cúc nở rộ. (Tranh Hoa Cúc của Uẩn Thọ Bình đời Thanh)

Ăn bánh hoa cao và hạt vừng

Hàn Lộ và Tết Trùng Dương về thời gian là gần nhau, do đó có tập tục ăn bánh hoa cao sau khi leo cao, do bánh Cao và leo Cao đồng âm, nên ăn bánh hoa cao ngụ ý “Bộ bộ cao thăng”.

Người xưa nói: “Mùa thu hanh khô, nên ăn vừng để nhuận táo”. Cùng với khí hậu ngày càng lạnh, dân gian có tập tục “Hàn Lộ ăn vừng”. Vừng vị ngọn bình, trong các trước tác y học như “Thần Nông bản thảo kinh” và “Bản thảo cương mục” đều có đánh giá rất cao về vừng, có tác dụng bổ gan thận, nhuận ngũ tạng, hạ huyết áp, chữa ho suyễn, nhuận da, chống suy lão, còn nhuận tràng thông tiện, Đông y thường dùng vừng để cải thiện các chứng bệnh như váng đầu, hư nhược, bạc tóc, táo bón v.v.

Hàn Lộ dưỡng sinh

Người cổ đại Trung Quốc coi trọng “Thiên – nhân hợp nhất”, cho rằng còn người và thiên nhiên là một chỉnh thể, một năm bốn mùa khí hậu thay đổi đều ảnh hưởng đến nhịp điệu sinh lý của con người, do đó về ăn uống làm việc và nghỉ ngơi cần phải thuận theo quy luật tự nhiên của sự thay đổi của mùa và tiết khí.

Từ góc độ Đông y mà nói, thời tiết Hàn Lộ, đặc điểm thời tiết lớn nhất ở phương Nam là khô hanh, mà khô hanh thì dễ tổn thương phổi và dạ dày. Lúc này sự bốc hơi của mồ hôi và các chất dịch của mọi người khá nhanh, do đó thường xuất hiện da khô, tăng nếp nhăn, miệng khô cổ khô, ho khan ít đờm, thậm chí lông tóc rụng nhiều, táo bón v.v. Do đó trọng điểm dưỡng sinh là dưỡng âm phòng khô hanh, nhuận phế bổ dạ dày.

Ẩm thực lấy “chua, ngọn, nhuận” làm chính, ít ăn các thực phẩm cay nóng, phát tán. Đông y cho rằng, trong ngũ vị thì cay, ngọt có thể hóa thành âm sinh tân dịch, có thể ăn nhiều những thực phẩm nhu nhuận như cháo, gạo nếp, ngó sen, hoa cúc, cua để bổ trung ích khí, đồng thời tăng các món như gà, vịt, thịt bò, gan lợn, cá, tôm, táo tàu, củ từ v.v. để tăng cường thể chất, ít ăn ớt, gừng, hành, tỏi, vì cay nóng dễ tổn thương chức năng nội tạng của thân thể người.

Thời tiết Hàn Lộ, gió thổi lá rơi, cảnh tượng cuối thu hiu hắt dễ khiến người ta sinh ra cảm giác thê lương, dễ tổn thương tình cảm chí hướng, xuất hiện các trạng thái không hăng hái như tâm trạng bơ vơ, tinh thần ủy mị, ăn uống không ngon, và sau đó ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Lúc này, có thể thuận theo nhu cầu nghỉ ngơi an dưỡng, giảm các hoạt động quyết liệt, tăng thời gian ngủ.

Mọi người đều nói “Leo cao giải thu sầu”, có thể ra bên ngoài nơi có nhiều ánh nắng, leo núi leo cao, hoặc trò chuyện trên bãi cỏ, hoặc rèn luyện thư giãn, những việc này đều có thể thả lỏng thân tâm, có lợi cho việc bồi dưỡng tâm thái lạc quan thoáng đạt.

'寒露时节,正值九九重阳节,携长辈爬山登高或草地闲聊或進行舒缓锻炼,是放松身心好时节。(清 张若霭《墨妙珠林(卯)・册・寒露》,台北故宫博物院)'
Thời tiết Hàn Lộ, đúng dịp Tết Trùng Dường mồng 9 tháng 9, dắt trưởng bối leo núi hoặc trò chuyện trên bãi cỏ, hoặc rèn luyện thư giãn, là thời tiết thả lỏng thân tâm. (Tranh Hàn Lộ của Trương Nhược Ải đời Thanh, Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Trùng Dương kính lão

Tết Trùng Dương có rất nhiều hoạt động tập tục dân gian, như tránh ác tiêu tai, leo cao nhìn xa, ngắm hoa cúc, cắm cành thù du v.v., đều có ngụ ý kính úy trời đất, chúc phúc người già bình an mạnh khỏe. Tôn hiền kính lão là mỹ đức của dân tộc Trung Hoa, “Dê có ân quỳ cho bú, quạ có nghĩa cho ăn”, tận hiếu đạo là bổn phận thiên kinh địa nghĩa.

Nhưng trong cuộc sống hiện thực, “tận hiếu” luôn bị người hiện đại coi nhẹ, thậm chí vì việc nuôi dưỡng người già mà đưa nhau ra công đường, nhưng pháp luật cưỡng chế không thay đổi được cái tâm con người.

Có một số người như thế, trong cõi hồng trần cuồn cuộn, với sự thiện lương xuất phát từ nội tâm, đã thể hiện ra hiếu hạnh vượt trên bình thường trong cuộc sống bình thường: Xin giới thiệu với quý vị “seri gia đình hạnh phúc”, chúc quý vị gia đình hạnh phúc, vui vẻ.

Chú thích:

[1] “Trai tâm” của Vương Xương Linh đời Đường: Nữ mộng đổ vách đá, nước suối tĩnh mông lung. Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ. Sáng uống sương trên hoa, đêm ngủ gió gốc thông. Hoa mây hóa thành nước, quang và ta hòa đồng. Nhật nguyệt động hồn phách, lưa thưa bầu trời không.

[2] “Đêm trăng thấy sương lạnh trên lá ngô đồng” của Đới Thái đời Đường: Lác đác lá ngô đồng, trăng trắng sương mới đọng. Nhỏ giọt đầy ánh sáng, lấp lánh sắc màu lạnh. Gió lay giọt sầu rơi, cành rung tiếc giọt châu. Khí lạnh ngỡ thu muộn, âm nhỏ đêm sắp tàn. Ngưng tụ chảy khắp nơi, tốt tươi lợi vạn vật. Ngắm cảnh đẹp không chán, cảnh sắc này hiếm thay.

[3] “Tiễn Hòe Quảng thi trượt trở về Dương Châu” của Vi Ứng Vật đời Đường: Thi trượt thường oan uổng, thiếu niên tâm nhẹ tênh. Chào bạn về bên biển, giống cậu nổi danh thơ. Tối từ biệt núi xanh, đi xa tìm cỏ thơm. Ngày về chắc không xa, sương lạnh ướt thành Vu.

[4] “Trì thượng” của Bạch Cư Dị đời Đường: Phất phơ gió mát thổi, thê lương sương lạnh rơi. Lan tàn hoa sắc trắng, lá sen rách còn xanh. Hạc một mình bãi cát, đôi đom đóm sáng nước. Nếu là cảnh sa sút, vẫn đáng rượu tỉnh say.

Bản quyền © 2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/10/7/483670.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/10/24/221353.html

Đăng ngày 08-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thu first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Trung Thu nói về “Lễ”https://vn.minghui.org/news/272880-trung-thu-noi-ve-le.htmlThu, 07 Nov 2024 15:52:34 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=272880[MINH HUỆ 31-08-2024] Trung thu sắp đến, một vầng trăng sáng chiếu khắp thiên hạ. Nói đến Tết Trung thu, mọi người thường liên tưởng đến bánh Trung thu và câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt. Kỳ thực, ngoài ăn bánh Trung thu, thưởng nguyệt […]

The post Trung Thu nói về “Lễ” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của ban biên tập “Chúc bạn bình an”

[MINH HUỆ 31-08-2024] Trung thu sắp đến, một vầng trăng sáng chiếu khắp thiên hạ. Nói đến Tết Trung thu, mọi người thường liên tưởng đến bánh Trung thu và câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt. Kỳ thực, ngoài ăn bánh Trung thu, thưởng nguyệt ra, vào ngày Tết Trung thu, người xưa còn có tập tục tế nguyệt, kính lão v.v. Những tập tục này không chỉ hàm chứa sự mong muốn được đoàn tụ với người thân, mà càng thể hiện ra ý kính ngưỡng của người xưa đối với trời đất Thần linh.

Nói đến nguồn gốc của Tết Trung thu, cần phải bắt đầu từ việc tế nguyệt. Trung thu trở thành ngày lễ, là từ việc tế Thần mặt trăng vào mùa thu phát triển ra. Trong “Lễ ký – Tế pháp” có ghi chép: “Mặt trời, mặt trăng, các vì sao, là những thứ mà con người chiêm ngưỡng”; “Đêm trăng là là tế nguyệt”. Chiểu theo tiết khí thời lệnh, người xưa có truyền thống “buổi sáng tiết Xuân phân, và buổi tối tiết Thu phân”, vào ngày Xuân phân này, ban ngày tế mặt trời; vào ngày Thu phân này, buổi tối tế mặt trăng. Ngày 18 tháng 8 (âm lịch), là chính giữa 3 tháng mùa thu, do đó người đời sau lấy ngày Trung thu (giữa mùa thu) làm ngày lễ tế mặt trăng.

Mùa thu là mùa ngũ cốc bội thu, cũng là lúc trái đất tiến vào thời kỳ nghỉ ngơi điều tức, nuôi dưỡng sức lực. Mọi người sau khi bận rộn thu hoạch, dùng trái cây tinh khiết và ngũ cốc để tế bái Thần Mặt trăng, cảm ơn một năm qua mưa thuận gió hòa, cảm tạ sự bảo hộ của trời đất Thần linh.

Nếu sau khi thu hoạch, không để đất đai nghỉ ngơi, vội vàng bắt đầu trồng trọt thì sẽ ra sao? Trong “Lễ ký – Nguyệt lệnh” có viết rằng: “Trọng thu thực hành xuân lệnh, thì mưa thu không rơi, cây cỏ sinh trưởng, quốc gia có mối lo”. Trọng thu nếu nếu thực hiện xuân lệnh (cày cấy) thì mưa thu sẽ ngừng rơi, cây cối lại ra hoa, quốc gia sẽ có khủng hoảng lớn.

Lễ của trời đất bốn mùa, đạo của âm dương hài hòa, không chỉ là nông nghiệp và trồng trọt, mà còn liên quan đến mọi phương diện, xuất phát từ các nguyên nhân như lợi ích, tham cầu v.v., con người có thể vào lúc thời cơ không thích hợp, làm những sự việc không thích hợp. Nếu không phù hợp với Lễ, rời xa khỏi thiên lý thiên Đạo, thế thì sẽ xuất hiện các sự tình mà Thượng Thiên cảnh báo như như tai họa, trời trừng phạt v.v. Lễ pháp như thế này được nói rất rõ ràng trong “Nguyệt lệnh”, nhưng thực sự làm được thì không dễ.

Lễ mùa thu không thể trái được

Trong Hán Thư, Hậu Hán Thư, tổng cộng có 16 lần dẫn dụng “nguyệt lệnh”, đều là vì một số viên quan quận, châu, phủ nào đó, “mùa hạ thực hiện lệnh mùa thu” hoặc “mùa thu thực hiện lệnh mùa xuân, trái với thiên thời, mà đã xuất hiện đủ các dấu hiệu cảnh báo của thiên tượng.

Những năm Hán Hòa Đế, một năm nọ, đã sắp đến mùa hạ, vốn là khí tương vạn vật hồi sinh, trái đất ấm áp, nhưng thời tiết vẫn lạnh lẽo thiếu hơi ấm. Quan đại thần Lỗ Cung quan sát được một số châu quân đã hành quyết tù phạm vào mùa hạ, chứ không phải vào mùa thu như truyền thống.

Theo ghi chép trong “Hạ lệnh”, người xưa cho rằng, mùa xuân vạn vật hồi sinh, nên không được bắt giết động vật, làm tổn hại cỏ cây; mùa thu ngũ cốc chín, vạn vật điêu linh, lúc này là thời cơ để thu hoạch, săn bắn. Đối với sinh mệnh con người thì cũng là đạo lý như thế, tuy nhiên nếu 1 người vào mùa hè phạm tội chết, cần phải thi hành, nhưng cũng chờ đến mùa thu mới xử tử. Như thế mới hợp với đạo của tứ thời. Đây là truyền thống mà người xưa lưu lại.

Do đó Lỗ Công can gián với Hán Hòa Đế rằng, chiểu theo những gì “Nguyện lệnh” nói, thì mùa hạ cần giảm nhẹ hình phạt, phóng thích phạm nhân tội nhẹ, vì việc nhà nông đang bận, nên để họ trở về hoàn thành cày cấy. Nếu mùa hạ thực hiện pháp lệnh mùa thu, xử tử hình, thế thì sẽ xảy ra hiện tượng mưa khổ liên tiếp, ngũ cốc không chính.

Lỗ Công nói tiếp, từ tháng 3 đến nay, khi hậu bất thường lạnh giá, cây trồng lẽ ra là bắt đầu sinh trưởng, nhưng tình hình sinh trưởng không tốt. Đây là biểu hiện của việc trên ngược thời khí, dưới tổn thương nông nghiệp.

Lỗ Cung lại thuật lại đạo lý của “Nguyệt lệnh”, đây là quy định do triều Chu chế định, kế thừa lễ nhà Hạ và nhà Thương. Triều đại tuy khác nhau, nhưng đạo lý này không thay đổi. Chính sự tứ thời, thực hiện đều như nhau. Trên thuận lòng Trời, dưới thuận mệnh vật, để đạt được sự hài hòa với thời tiết. Đây mới là đạo của vương giả.

Hán Hòa Đế nhận thấy Lỗ Cung nói có đạo lý, lệnh cho các châu quận không được thực thi hình phạt hà khắc vào mùa hạ, tuân theo trật tự của “Lễ ký – Nguyệt lệnh”, thuận theo thiên thời, hài hòa bách tính. Trong “Hậu Hán thư”, sử quan bình luận Hán Hòa Đế, nói rằng ông đã tuân theo truyền thống của tổ tiên, trừng phạt đại ác, tuyển chọn người hiền năng, đã làm tròn trách nhiệm của thiên tử.

Đến những năm Hán An Đế, một năm nọ, kinh thành và một số quận quốc liên tiếp mưa, ảnh hưởng đến thu hoạch. Hán An Đế xuống chiếu, “năm nay vốn hoa màu bội thu, sắp đến thu hoạch, nhưng mưa liên miên, e rằng sẽ ngập làm tổn hại ngũ cốc. Trẫm trằn trọc suy nghĩ tại sao lại xảy ra việc này, mưa không ngớt, là do nhân dân oán hận”.

Thời cổ đại, mỗi khi gặp thiên tai bất trắc, đều là triều đình để quần thần trực ngôn nói ra những tệ nạn. Sau khi hiểu rõ tình hình, Hán An Đế nói: “Quan võ lạm dung uy quyền ngược đãi thuộc hạ, quan văn thi hành chính sách hà khắc, quan lại mượn việc công làm điều gian, khiến bách tính hoạn nạn thống khổ. Sẽ trừng phạt công khai với những quan lại bê trễ, khinh mạn này”.

Hán An Đế lại nhấn mạnh một sự việc quan trọng, “hiện nay đã đến mùa thu, chiểu theo những ghi chép trong “Nguyệt lệnh”: ‘Giữa thu nuôi dưỡng bảo hộ người già yếu, tặng ghế và gậy cho người già, tặng cháo cho họ’. Hiện nay là tháng 8, chiểu theo hộ khẩu đăng ký, tặng ghế và gậy và cháo cho người già, nhưng đại bộ phận các quận hiện không thực hiện. Cũng có nơi phát cháo, nhưng trong cháo có lẫn vỏ trấu và lúa lép. Tình trạng như thế này, quan lại địa phương lại không đôn đốc kiểm tra, đích thân xử lý. Đây là trái với truyền thống mùa thu kính dưỡng người già. Tình hình như thế này cần phải lập tức sửa chữa, kính phụng người già, sửa chữa bù đắp lỗi lầm”. Các địa phương lại kiểm tra lại hộ khẩu đối chiếu những người già, phát bổ sung ghế, gậy và cháo.

Trong “24 bộ sử”, các triều đại đều lấy “Nguyệt lệnh” làm lễ, khi thiên tai nhân họa thì phản tỉnh bản thân, đó là cách làm phổ biến. Từ ‘nguyệt lệnh’ xuất hiện trên 260 lần.

Tử Du vấn lễ

Tại sao “Nguyệt lệnh” lại được coi trọng như vậy? Đạo lý của lễ tứ thời là thế nào? Tử Du – học trò của Khổng Tử, từng hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy, cái gọi là lễ, có phải là trị sửa tà ác, bảo toàn mỹ đức tốt lành không?”

Khổng Tử nói: “Là như thế”.

Tử Du hỏi: “Vậy trị sửa tà ác và bảo toàn mỹ đức như thế nào?”

Khổng Tử nói: “Tế lễ ở ngoại ô vào sáng ngày Xuân phân và tối ngày Thu phân, là sự kính úy đối với Thượng Thiên. Tế tự tông miêu là sự tưởng nhớ đối với tổ tiên. Lễ tặng cúng tế, là biểu thị hiếu hạnh đối với người đã chết. Lễ hương xạ (bắn cung) và hương ẩm (uống rượu), là biểu thị nhân ái đối với dân chúng xóm làng. Lễ thết đãi là biểu thị sự tôn kính đối với tân khách”.

Tại sao có thứ tự trước sau như thế này? Khổng Tử nói tiếp: “Nếu hiểu rõ ý nghĩa lễ tế trời đất ở ngoại ô, hiểu tế lễ tông miếu mùa xuân và mùa thu, thế thì đối với việc trị sửa quốc gia, thì đã nắm rõ như lòng bàn tay rồi. Do đó, sinh hoạt hàng ngày có lễ, từ đó có sự phân biệt rõ lớn nhỏ già trẻ. Vì vậy, nội bộ gia đình có lễ, thì một gia đình 3 thế hệ hòa thuận. Triều đình có lễ, thì quan chức và tước vị có trật tự. Việc săn bắn có lễ, thì việc diễn tập quân sự thành thục. Do đó, có lễ thì cung đình có thước đo, dụng cụ đong đo và tế lễ có tiêu chuẩn, ngũ vị điều hòa cũng có sự phối hợp tứ thời, âm nhạc có tiết chế, xe cộ có quy luật phù hợp, quỷ thần ai nấy đều được hưởng cúng tế. Việc tang có thể biểu đạt được sự bi ai phù hợp. Biện luận trò chuyện cũng có trình tự thứ bậc. Bá quan ai giữ chức phận người ấy, chính sự được thi hành thuận lợi. Đem lễ vận dụng vào hành động của bản thân và hết thảy việc trước mắt, như thế thì tất cả đều có thể làm được tốt”.

Khổng Tử đã nói ra đạo lý “đại lễ và trời đất cùng tiết tấu”: “Lễ là trật tự của trời đất. Hài hòa cho nên trăm vật đều biến hóa, trật tự nên mọi vật đều khác biệt”. Vạn vật mỗi cái đều khác nhau, nhưng lại vận hành chiểu theo trật tự. Lễ là thước đo và nhịp điệu vận hành của vạn vật.

Hơn 2000 năm qua, “tế trời đất vào buổi sáng Xuân phân và buổi tối Thu phân” là đại lễ tế ngoại ô quan trọng nhất của các triều đại, truyền đạt cho thiên hạ tinh thần kính Trời, kính Thần, tạ ơn Trời, tạ ơn Thần. Tế lễ trời đất, mặt trời, mặt trăng, đã trở thành nội dung quan trọng “Kính trời, và làm theo tổ tiên”, và dần dần diễn biến thành những ngày lễ dân gian. Bằng các loại hình thức khác nhau, biểu đạt sự kính phụng đối với Thần và sự cảm ân đối với Thượng Thiên, đồng thời dùng đó làm quy phạm đạo đức luân lý nhân gian.

Ngày lễ tết truyền thống là tài sản quý báu trong văn hóa dân tộc Trung Hoa, thể hiện mạch Thần truyền của văn hóa Trung Hoa. Thời xưa, trên từ thiên tử, dưới đế bách tính, không ai là không tôn kính “Trời”, và lấy đó làm cơ điểm để quan sát và hành sự. Thế là mới có sự xuất hiện lý luận hoàn chỉnh “Thiên – nhân hợp nhất”, có một loạt nghi lễ kính Trời lễ Thần. Còn Trung Cộng thực hiện đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, trong Cách mạng Văn hóa đã nhổ tận gốc văn hóa truyền thống. Năm 1999, Trung Cộng còn bức hại những học viên Pháp Luân Công tín ngưỡng Chân Thiện Nhẫn, khiến cho đạo đức xã hội biến mất, lòng người lãnh đạm. Chúng ta chỉ có vứt bỏ Trung Cộng, thoái xuất khỏi các tổ chức đảng đoàn đội của Trung Cộng, thì mới thuận ứng với đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, thì mới xây dựng lại được trật tự xã hội bình thường, thì mối quan hệ giữa người với người mới hài hòa, gia đình mới có thể hạnh phúc mỹ mãn.

Bản quyền © 2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/31/481399.html

Đăng ngày 07-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Trung Thu nói về “Lễ” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>