Văn hóa & Nghệ Thuật - Minh Huệ Nethttps://vn.minghui.org/newsPháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công)Fri, 05 Apr 2024 12:35:27 +0000en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.2Tiết Vũ thủy dương khí thăng, lời tốt lành bạn có biết chănghttps://vn.minghui.org/news/263327-tiet-vu-thuy-duong-khi-thang-loi-tot-lanh-ban-co-biet-chang.htmlFri, 05 Apr 2024 12:35:27 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=263327[MINH HUỆ 18-02-2024] Ký giả của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập) Vũ thủy là tiết khí của mùa xuân. Sau tiết Lập xuân là đến Vũ thủy, đó là tiết khí thứ 2 trong 24 tiết khí trong năm, biểu thị tiết khí có mưa. Tiết Vũ thủy hàng năm khoảng trước […]

The post Tiết Vũ thủy dương khí thăng, lời tốt lành bạn có biết chăng first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 18-02-2024] Ký giả của Cửa sổ Minh Huệ tổng hợp biên tập) Vũ thủy là tiết khí của mùa xuân. Sau tiết Lập xuân là đến Vũ thủy, đó là tiết khí thứ 2 trong 24 tiết khí trong năm, biểu thị tiết khí có mưa. Tiết Vũ thủy hàng năm khoảng trước sau ngày 15 tháng Giêng (tức 18 đến 20 tháng 2 Dương lịch). Mặt trời đạt đến 330 độ đường Hoàng đạo là thời điểm tiết Vũ thủy. Tiết Vũ thủy năm 2024 là ngày 19 tháng 2.

2024-2-17-074421-0.jpg

Nhà lý học triều Nguyên Ngô Trừng đã nói trong “Nguyệt lệnh 72 hậu tập giải” rằng: “Trong tháng Giêng, trời bắt đầu sinh Thủy. Mùa xuân bắt đầu thuộc Mộc, mà sinh Mộc ắt là Thủy. Do đó sau Lập xuân là đến Vũ thủy. Hơn nữa, gió đông vừa giã băng, tan ra phát tán ra tức là mưa”.

Ý nghĩa là nói rằng, trung tuần tháng Giêng có mưa, bởi vì mùa xuân thuộc Mộc, mà sự sinh trưởng của Mộc thì cần có Thủy, do đó sau Lập xuân chính là Vũ thủy. Gió xuân thổi tan băng tuyết, bốc hơi tạo thành mưa. Trong sách “Dật chu thư” có những ghi chép về các loài vật như, sau tiết Vũ thủy là có “Hồng nhạn bay đến”, “Cây cỏ nảy mầm” v.v.

Người xưa cho rằng, tiết Vũ thủy bắt đầu, thì dương khí thăng lên, âm khí giáng xuống, 2 khí tường hòa dưỡng dục nên sinh cơ bừng bừng của mùa xuân.

Tiết Vũ thủy đại biểu cho mùa mưa bắt đầu. Từ thời điểm này trở đi, “Một trận mưa xuân một trận ấm”, trái đất đổi sang mặc tấm áo xanh lục. Một cảnh tượng xuân sớm sẽ hiện ra trước mắt.

'清 邹一桂《盎春生意·轴》。(台北故宫博物院)'
Tranh trục “Ánh xuân sinh ý” của Trâu Nhất Quế đời Thanh. (Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Kế hoạch một năm khởi đầu từ mùa xuân

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong tứ quý, theo thói quen là chỉ thời gian 3 tháng (Tháng Giêng, tháng 2, tháng 3) từ Lập xuân đến Lập hạ. Sao Bắc đẩu chỉ hướng Đông là mùa xuân, do đó có khi lấy mùa xuân để thay cho phương Đông.

Người thời Đường gọi rượu là xuân, dùng ‘xuân trửu’ để chỉ rượu xuân, gọi chén rượu là ‘xuân bôi’, gọi bàn tiệc là ‘xuân đài’. “Nhĩ nhã – Thích thiên” có viết: “Xuân là thanh dương, xuân là phát sinh, xuân thu nhiều sương. Xuân là sự hài hòa của trời. Còn xuân là khí mừng vui, do đó sinh trưởng”. Xuân sắc thường được dùng chỉ thời gian và cảnh sắc tốt đẹp nhất nhân gian.

Cùng với tiết Vũ thủy đến, thời tiết lạnh thấu đất trời, khí lạnh thấu xương cốt, hoa tuyết lả tả dần dần biến mất, thì những ngày gió xuân hây hẩy, băng tuyết tan chảy cũng hướng tới chúng ta tiến bước, một chút lành lạnh còn sót lại tô điểm thời tiết ngày càng nhiều không khí ẩm thấp, ánh nắng chan hòa và mưa xuân phất phới.

Trong bài thơ “Vịnh 24 tiết khí, Vũ thủy tháng Giêng” của Nguyên Chẩn có miêu tả rằng: “Vũ thủy tẩy xuân dung, bình điều dĩ kiến long” (Vũ thủy tắm sắc xuân, ruộng đồng đã thấy rồng”. Lập xuân, mùa xuân trở về với trái đất, trời đất giá băng không thể đột nhiên thức tỉnh, trải qua “Vũ thủy” tắm gội, dung mạo mùa xuân bỗng nhiên tươi sáng lên.

Vũ thủy là nuôi dưỡng sinh mệnh, vạn vật sinh sôi. Bài thơ “Xuân dạ hỉ vũ” của Đỗ Phủ có viết: “Hảo vũ tri thời tiết, đương xuân nãi phát sinh. Tùy phong tiệm nhập dạ, nhuận vật tế vô thanh”.

Tạm dịch: “Mưa tốt biết thời tiết, đến xuân lại nảy sinh. Theo gió dần vào đêm, nuôi dưỡng mà lặng yên”.

Mưa phùn phất phới, giống như mưa biết thời tiết vậy, đã hữu ý cùng với gió xuân chờ đêm xuống lặng lẽ đến, lặng lẽ nuôi dưỡng vạn vật.

Kế hoạch một năm khởi đầu từ mùa xuân, bất kể là đối với ai, mùa xuân đều là mùa chuyên cần cày cấy. Trong “Nhan thị gia huấn – Miễn học” của Nhan Chi Thôi thời Bắc Tề có viết: “Phù học giả, do chủng thụ dã. Xuân ngoại kỳ hoa, thu đăng kỳ thực. Giảng luận văn chương, xuân hoa dã; tu thân lợi hành, thu thực dã”.

Tạm dịch: “Việc học, giống như trồng cây vậy. Mùa xuân chơi hoa, mùa thu hái quả. Giảng luận văn chương, đó là hoa mùa xuân, tu thân có lợi ích cho hành sự, đó là quả mùa thu”.

Về việc nhà nông thì Vũ thủy chính là thời kỳ then chốt cho việc quản lý và chuẩn bị cày cấy vụ xuân. Ngạn ngữ nhà nông có câu rằng: “Vũ thủy tiết, giai cam quýt” (Tiết Vũ thủy đều là cam là quýt). Và cũng có câu “Vũ thủy cam giá tiết tiết trường” (Vũ thủy mía ngọt đốt đốt dài), đã miêu tả rất sinh động rằng, thời tiết này chính là cảnh tượng vạn vật sinh sôi nảy nở tưng bừng, cây cỏ bừng bừng sức sống.

Thời tiết tốt để điều dưỡng tì vị

Thời tiết Vũ thủy, chính là thời cơ tốt để dưỡng sinh, đương nhiên việc điều dưỡng tì vị là cần làm trước tiên. Đông y cho rằng, tì vị là Mộc hậu thiên, là nguồn khí huyết sinh hóa. Chức năng tì vị khỏe mạnh, thì thân thể con người mới tận dụng đầy đủ nguồn dinh dưỡng, trái lại, thiếu dinh dưỡng, thể chất sẽ suy giảm.

Thầy thuốc nổi tiếng cổ đại là Lý Đông Viên đã đề ra rằng: “Tì vị tổn thương thì nguyên khí suy giảm, nguyên khí suy giảm thì con người sẽ giảm tuổi thọ”. Căn cứ theo nguyên tắc dưỡng sinh “Xuân hạ dưỡng dương”, Dược vương Tôn Tư Mạc đời Đường nói: “Ngày xuân nên ăn ít vị chua, tăng vị ngọt, để dưỡng khí tì”, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều dưỡng tì vị vào mùa xuân.

Đông đi xuân đến, hàn khí bắt đầu lui, dương khí thăng lên, lúc này, chức năng điều tiết cơ thể của mọi người không theo kịp sự thay đổi của thời tiết, hơi chút không chú ý, thì trúng gió, cảm mạo sẽ thừa cơ lẻn vào. “Mùa xuân mặc ấm” là đạo dưỡng sinh truyền thống.

Kế hoạch một năm bắt đầu từ mùa xuân, chỉ có nắm chắc phương pháp dưỡng sinh mùa xuân, thì mới có nền tảng tốt cho sức khỏe của cả năm.

'明 居节绘《山水册之江南新雨》局部。(公有领域)'
Một phần bức tranh “Sơn thủy sách chi Giang Nam tân vũ” của Cứ Tiết, đời Minh

Tuân theo thiên thời, vạn vật sinh trưởng

Đế vương cổ đại không ai là không tôn kính và tuân theo thiên thời, và chuyên cần hướng dẫn bách tính. Đây là truyền thống đã có hàng nghìn năm.

Mỗi năm, vào tháng đầu tiên của mùa xuân, đế vương cần ban chiếu công bố việc nhà nông, còn cần phái người khảo sát đất đai gò đồi, căn cứ vào tình hình thực tế để quyết định trồng ngũ cốc. Ngoài ra, đế vương còn phải đích thân dốc sức tự mình thực hiện, để hướng dẫn người dân. Vào lúc khởi đầu của một năm, còn phải cúng tế các Thần linh của núi rừng sông hồ, để đem lại lợi ích cho chúng sinh bách tính.

Thuận theo đạo của Thiên – Địa – Nhân thì mới là Đại Đạo thênh thang. Bời vì vào tháng này, là thời gian mà sinh mệnh bắt đầu sinh trưởng, vào tháng Giêng mạnh xuân, không được làm thương tổn các loài chim mẹ, thú mẹ và các sinh vật non, cấm chặt cây, cấm phá tổ chim, không được tập trung đông giẫm đạp thực vật, không được xây dựng lớn, cần phải chôn cất những hài cốt bị bỏ hoang nơi hoang dã. Những điều này xưa kia vào mùa xuân mỗi năm, đều do đế vương ban chiếu thiên hạ.

Mưa xuân quý như dầu, mượn gió nuôi vạn vật

Tiết khí Vũ thủy, “Mưa xuân quý như dầu”, “lặng lẽ nuôi vạn vật”, mưa xuân theo gió đế, dường như là mượn sức gió để tưới cõi nhân gian như nước cam lồ, lặng lẽ nuôi dưỡng vạn vật.

Không chỉ cỏ cây ngũ cốc cần sự tưới tắm nuôi dưỡng của Vũ thủy, nhân loại chúng ta cũng cần Vũ thủy của sinh mệnh, cần Vũ thủy nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, hóa giải cừu hận trong tâm, phóng thích lương tri bị gông cùm và méo mó đã lâu. Và Vũ thủy của sinh mệnh đó, đã đến từ lâu rồi, lời tốt lành bạn có biết chăng?

Cuối cùng, xin chia sẻ cùng với các bạn một bài thơ ca nguyên tác, chúng ta cùng nhau bước vào hành trình mùa xuân mới.

Thôn cư

(Lời: Tình Canh)

Ngoài thôn núi biếc mây nước quanh
Tiếng gà tiếng chó
Đồng nội phong cảnh đẹp
Hương lúa ngoài đồng lên cành táo
Nhà ai văng vẳng tiếng cười reo
Bên rào thưa láng giềng chào hỏi
Nói với nhau rằng:
Pháp Luân Đại Pháp hảo!
Thiện niệm thiện hành được thiện báo
Lời tốt lành bạn có biết chăng?

'清 董诰《平安春喜?梅竹双鹊》。(公有领域)'
Tranh “Bình an xuân hỉ – Mai trúc song thước” của Đổng Cáo đời Thanh

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/2/18/473347.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/2/23/215975.html

Đăng ngày 05-04-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Tiết Vũ thủy dương khí thăng, lời tốt lành bạn có biết chăng first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Đại hồng thủy thời tiền sử thực sự đã tồn tạihttps://vn.minghui.org/news/263308-dai-hong-thuy-thoi-tien-su-thuc-su-da-ton-tai.htmlThu, 04 Apr 2024 15:47:25 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=263308[MINH HUỆ 09-02-2021] Lũ lụt thời tiền sử đã được ghi chép ở các dân tộc khác nhau trên thế giới. Mặc dù các chi tiết có thể khác nhau nhưng chúng đều có một điểm chung – trận đại hồng thủy đã kết thúc thời kỳ văn […]

The post Đại hồng thủy thời tiền sử thực sự đã tồn tại first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Thiện Quả, Hạo Hàn

[MINH HUỆ 09-02-2021] Lũ lụt thời tiền sử đã được ghi chép ở các dân tộc khác nhau trên thế giới. Mặc dù các chi tiết có thể khác nhau nhưng chúng đều có một điểm chung – trận đại hồng thủy đã kết thúc thời kỳ văn minh phát triển cao độ của loài người. Hơn nữa, bắt đầu từ Thần thoại Hy Lạp, có ghi chép về việc Thần Zeus kết thúc thời kỳ đó của loài người bằng trận đại hồng thủy; người Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, người Druids nước Anh, người Polynesia, Eskimos, người Greenland, người Châu Phi, người Ấn Độ và người da đỏ châu Mỹ cũng có ghi chép riêng của họ về đại hồng thủy.

1. Những ghi chép về trận Đại hồng thủy

“Atlantis” là một lục địa cổ đại được biết đến có trình độ phát triển văn minh cao. Những mô tả sớm nhất về nó xuất hiện trong tác phẩm “Đối thoại” (Dialogue) của triết gia Hy Lạp cổ đại Platon. Các ghi chép nói rằng, Atlantis đã bị phá hủy bởi một trận đại hồng thủy vào khoảng năm 10.000 trước Công nguyên, và chìm xuống đáy biển.

Ấn Độ có sử thi cổ đại nổi tiếng thế giới “Mahabharata”, theo cuốn sách này, người Ấn Độ đã tìm thấy Dwarka, thành phố được cho là bị nhấn chìm bởi một trận đại hồng thủy. “Dwarka” trong tiếng Phạn có nghĩa là “cánh cổng có Thiên đường”. Thành phố thời tiền sử cổ đại này có nền văn minh nhân loại rất phát triển, nhưng đã bị phá hủy bởi một trận đại hồng thủy khoảng chín nghìn năm trước.

“Bầu trời tiếp cận mặt đất, tất cả mọi người đều tuyệt chủng trong một ngày, những ngọn núi biến mất trong nước”; “Hồng thủy theo những cơn bão, và hầu như chỉ trong một đêm đã nhấn chìm tất cả các đồng bằng và đồi núi trên lục địa. Chỉ những người sống trên núi cao, và những người trốn lên núi mới sống sót”; “Tình hình kinh hoàng đến mức không thể chịu đựng được, gió gào thét khủng khiếp trong không trung, mọi người đều cố gắng chạy thục mạng trốn, không quan tâm đến bất cứ điều gì nữa, chỉ chạy lên núi“.

Đây là những điều được miêu tả trong các văn bản cổ đại theo thứ tự là “Sử thi Gilgamesh” của người Babylon, “Sách tranh Chimal Popoca” của Mexico, là và “Sáng thế ký Eridu” của người Sumer, tất cả đều mô tả một trận hồng thủy trên thế giới thời tiền sử.

Những ghi chép trong Kinh Thánh về trận Đại hồng thủy và Con tàu Nô-ê được lưu truyền rộng rãi nhất. Đức Chúa Trời bảo Nô-ê đóng một chiếc tàu ba tầng, dài khoảng 300 cubit (một cubit, còn gọi là 1 cẳng tay, dài khoảng 0,45 mét), và rộng 50 cubit. Nô-ê mất khoảng 80 đến 120 năm để đóng chiếc tàu khổng lồ này. Vào ngày 17 tháng 2, khi Nô-ê được 600 tuổi, trời mưa rất to, Nô-ê, gia đình ông, và các loài động thực vật khác nhau đã tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời, đã lên tàu an toàn. Cơn mưa lớn như thác đổ xuống suốt 40 ngày đêm, loài người và muôn loài đều tuyệt chủng, ngoại trừ Nô-ê và gia đình ông. Con tàu lênh đênh trên biển tổng cộng 365 ngày trước khi nước lũ trên mặt đất rút đi, Nô-ê và gia đình lại lên bờ. Việc đầu tiên họ làm khi cập bến là tế bái Đức Chúa Trời.

2. Bằng chứng về sự tồn tại của trận hồng thủy

Trong những năm gần đây, các nhà khoa học tiếp tục tìm ra bằng chứng về sự tồn tại thực sự của trận hồng thủy thời tiền sử. Năm 1997, nghiên cứu của giáo sư William Ryan và Ort Pittman của Đại học Columbia đã xác nhận rằng, trận đại hồng thủy được mô tả trong kinh Cựu Ước kéo dài ít nhất 300 ngày, với lượng nước hàng ngày là 40 km khối, và nhấn chìm 155.000 km2 đất liền. Nhà khảo cổ học Robert Ballard, người đã phát hiện ra xác tàu Titanic năm 1985, cùng nhóm của ông đã tiến hành chuyến thám hiểm dưới đáy biển ở Biển Đen vào năm 2012, và tìm thấy bằng chứng cho thấy, trận đại hồng thủy đã phá hủy các nền văn minh cổ đại, gần giống với những gì được mô tả trong kinh Cựu Ước. Ngày 28 tháng 4 năm 2010, một đội thám hiểm gồm người Thổ Nhĩ Kỳ và Hồng Kông tuyên bố, đã phát hiện tàn tích của con tàu Nô-ê trên một ngọn núi ở Thổ Nhĩ Kỳ ở độ cao hơn 4.000 mét.

Sách “Thượng thư” của Trung Quốc cổ đại ghi lại câu chuyện Đại Vũ trị thủy, sách “Hoài Nam Tử” cũng ghi lại câu chuyện về việc Nữ Oa ngăn nước, khoảng thời gian gần giống với trận đại hồng thủy trong Kinh Thánh.

Các nhà khảo cổ và học giả nhân văn đã phát hiện ra rằng, có hơn 600 ghi chép về lũ lụt thời tiền sử từ tất cả các châu lục trên thế giới, thời gian từ khoảng 13.000 năm trước Công nguyên đến 3.500 năm trước Công nguyên. Và con người không ngừng khám phá những dấu vết ngoạn mục mà trận đại hồng thủy lưu lại. Các nhà khoa học phải thừa nhận rằng, rõ ràng là không thuyết phục khi mô tả sự kiện “lũ lụt toàn cầu thời tiền sử” này là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay truyền thuyết.

Dựa trên nhiều tài liệu và nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng, xã hội loài người trên Trái đất trước trận lụt đã có lịch sử lâu đời, và đạt đến trình độ văn minh cao, tổng dân số đạt đỉnh điểm khoảng 3,5 tỷ người, có nhiều khiến trúc có trình độ kỹ thuật và nghệ thuật thần bí mà con người không thể hiểu được, như kim tự tháp, tranh bích họa đá trên sa mạc Sahara, v.v., nhưng các nền văn minh tiền sử đã bị hủy diệt không chỉ 1 lần.

3. Về nguyên nhân gây ra trận đại hồng thủy

Về nguyên nhân của trận đại hồng thủy thời tiền sử, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lời giải thích khoa học. Ví dụ, có người cho rằng động đất toàn cầu gây ra sóng thần, sự sụt lún của vỏ trái đất gây ra sự xâm lấn của biển… Tuy nhiên, những giả thuyết khoa học này không thể giải thích được tại sao mực nước trong các trận lũ lớn lại cao ở miền núi và thấp ở đồng bằng. Trong ghi chép về trận đại hồng thủy có rất nhiều hiện tượng đá, khối đá, khối băng, bão cát, và các vật chất khác bốc cháy và từ trên trời rơi xuống, kèm theo lũ lụt, nên các nhà khoa học suy đoán rằng, thảm họa này có lẽ không bắt nguồn từ trái đất.

Nguyên nhân dẫn đến sự hủy diệt của con người trong các nền văn minh tiền sử, gần như nhất quán trong ghi chép bằng văn bản của các dân tộc khác nhau trên thế giới: khi đại đa số loài người không còn kính Trời kính Thần, đạo đức của họ cực kỳ bại hoại, thì Thiên Thần tức giận, và giáng xuống sự hủy diệt, chỉ một số ít người tốt không nằm trong số bị hủy diệt. Ví dụ như cha của anh em Phục Hi đã không vâng lời Thần Lôi Công, Thiên Thần đã gây ra trận hồng thủy nhấn chìm trái đất, chỉ còn lại anh em Phục Hi – những người đã giúp đỡ Lôi Công. Vị Thần Pariacaca của người da đỏ Peru hóa thân thành kẻ ăn xin, gây bão và hồng thủy tàn phá hết làng mạc, chỉ để lại cô gái tốt bụng từng mời người ăn xin ăn đồ ăn. Thần Bel của người Babylon nổi giận trước sự sa đọa của loài người, và đã căn dặn một ông già tốt bụng chọn một chiếc thuyền và chuẩn bị đồ dùng sinh tồn, sau đó bỗng nhiên mưa lớn kéo dài suốt bảy ngày.

Nguyên nhân trận Đại hồng thủy được ghi lại trong Thần thoại Hy Lạp: “Vào cuối thời đại đồ đồng, thế giới loài người trở nên độc ác, tham lam, thô lỗ và bất kính. Họ không còn tôn trọng công lý và luật pháp nữa. Thần Zeus cải trang thành người phàm và đến thăm Arcadia và Thessaly. Ông không thích những tội lỗi cực độ của người phàm, quyết tâm diệt trừ họ khỏi trái đất, nên đã không ngần ngại giải phóng Thần Gió Nam mang theo mưa, đồng thời triệu tập Thần Poseidon tàn nhẫn để hỗ trợ. Thế là chẳng bao lâu, toàn bộ thế giới nhân loại đã bị nuốt chửng bởi một trận hồng thủy chưa từng có, và chỉ có hai người Thessaly cung kính ngoan ngoãn sống sót”.

Nguyên nhân Đức Chúa Trời hủy diệt loài người được nêu rõ hơn trong kinh Cựu Ước. Một ngày nọ, Chúa nói với Nô-ê tốt bụng: “Thế giới đã sa vào tội ác, vi phạm ý định ban đầu của ta. Ta sẽ khiến hồng thủy tràn ngập trái đất và hủy diệt thế giới. Mọi sinh vật bằng xương bằng thịt có hơi thở trên trái đất sẽ chết. Nhưng ta sẽ lập giao ước với ngươi, rằng ngươi, vợ con ngươi sẽ vào tàu, để ngươi được bảo toàn mạng sống”.

Nhân loại đã trải qua thêm năm nghìn năm nữa kể từ trận lũ lụt tàn khốc vừa qua. Đáng tiếc là chủ nghĩa cộng sản ra đời cách đây hơn trăm năm đã mang lại tai họa chết người cho nhân loại, nó hiệu triệu nhân loại chống lại Thần, tôn sùng cách mạng bạo lực, đề cao triết lý đấu tranh. Ở phương Tây, nó mượn chủ nghĩa toàn cầu và chính phủ lớn để mê hoặc lòng người, khống chế nhân loại. Hầu như tất cả các thảm họa trên thế giới hiện nay đều có nguyên nhân sâu xa liên quan đến tà linh chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự hoạch định và cám dỗ của tà linh chủ nghĩa cộng sản, không chỉ ở Trung Quốc, mà đạo đức của cả nhân loại đều đang tụt dốc hàng ngày, đã vượt qua ranh giới mà Thần có thể dung thứ. Nếu nhân loại cứ tiếp tục như thế này thì nó có thể đi được bao xa? Đã nguy hiểm trong sớm tối rồi. Mặc dù virus viêm phổi Vũ Hán hiện nay không phải là một trận đại hồng thủy, nhưng chắc chắn đó không phải là lời cảnh báo cuối cùng của Thượng Thiên.

Ở thời tiền sử, Nô-ê đã nghe theo lời cảnh báo của Đức Chúa Trời, và dành hơn 100 năm để đóng chiếc tàu, tuy nhiên, mọi người lúc đó do tâm đã bị ma biến, họ cho rằng Nô-ê là một người điên, cuối cùng họ đã bỏ lỡ cơ hội được cứu. Bất kể nguyên nhân và biểu hiện nào, nền văn minh nhân loại đã nhiều lần phát triển cao độ và bị hủy diệt, đây là một sự thật mà khoa học không thể phủ nhận. Ngày nay, các học viên Pháp Luân Công, với tư cách là sứ giả của Thần, truyền tải câu chân ngôn cứu mạng “Pháp Luân Đại Pháp hảo, Chân-Thiện-Nhẫn hảo” cho mọi người trước đại họa. Những người có thể cung kính lắng nghe lời khuyến thiện, tránh xa tà linh cộng sản, thì mới có thể tránh được việc bị một “trận đại hồng thủy” khác nuốt chửng.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2021/2/19/421047.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/12/20/213406.html

Đăng ngày 04-04-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Đại hồng thủy thời tiền sử thực sự đã tồn tại first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Ở cửa quan dễ tu thiện”https://vn.minghui.org/news/263269-o-cua-quan-de-tu-thien.htmlWed, 03 Apr 2024 09:23:18 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=263269[MINH HUỆ 06-06-2023] Người xưa nói “Ở cửa quan dễ tu thiện”, tức là người làm việc ở trong các cơ quan chính quyền, do nắm quyền lực công, nếu tâm có thiện niệm, vận dụng quyền lực thích hợp, lấy việc thiện hóa xã hội, tạo phúc nhân dân […]

The post “Ở cửa quan dễ tu thiện” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Khởi Huệ

[MINH HUỆ 06-06-2023] Người xưa nói “Ở cửa quan dễ tu thiện”, tức là người làm việc ở trong các cơ quan chính quyền, do nắm quyền lực công, nếu tâm có thiện niệm, vận dụng quyền lực thích hợp, lấy việc thiện hóa xã hội, tạo phúc nhân dân làm gốc, thì càng dễ hành thiện tích đức hơn bất kỳ một nghề nghiệp nào khác. Đồng thời, người nắm quyền lực phải đối diện với các loại vấn đề và cám dỗ, nếu có thể kiên trì rèn giũa phẩm đức, giữ thiện niệm, thì cũng do ngôn truyền thân giáo, vô tâm cắm liễu liễu mọc xanh, trở thành tấm gương hành thiện tích đức cho quần chúng xã hội.

Trong các vị trí công tác ở cửa quan, thì nhân viên chấp pháp lại có cơ hội tích phúc đức nhiều hơn. “Viêm thị thế phạm” có viết: “Người xưa nói rằng, cai quản ngục tù nhiều âm đức, con cháu sẽ có người hưng thịnh, đó là làm lợi cho người mà người không biết mà tự đắc phúc”. Tức là, nhân viên chấp pháp do có nhiều cơ hội để bảo vệ quyền lợi của người dân lương thiện, làm lợi cho người ta trong tình huống người ta không hay biết, nhờ đó tích đức, khiến cháu con hưng thịnh. Quách Cung thời Đông Hán chính là một trường hợp điển hình.

Hiểu rõ pháp luật nghị luận pháp luật, không dùng quyền lực thay cho pháp luật

“Hậu Hán thư” có ghi chép, Quách Cung thời Đông Hán kế thừa nghề nghiệp của cha, học tập và giảng dạy pháp luật. Sau này ông làm quan trong triều. Những năm Vĩnh Bình thời Minh Đế, Xa Đô úy Đậu Cố chinh phạt Hung Nô, Kỵ Đô úy Tần Bành làm phó tướng. Tần Bành dùng quân pháp xử tử tội phạm ở địa bàn ông ta đóng quân, Đậu Cố bèn hạch tội Tần Bành độc đoán chuyên quyền, và dâng tấu lên triều đình giết Tần Bành. Minh Đế và các công khanh trong triều đình nghị luận. Những người tham gia nghị luận đều nhất trí đồng ý với bản tấu của Đậu Cố, chỉ có Quách Cung là giữ ý kiến phản đối. Ông nói rằng: “Chiểu theo pháp luật, Tần Bành có quyền thi hành xử tử”. Minh Đế hỏi: “Đại quân xuất chinh, thống nhất do Đốc soái chỉ huy, Tần Bành không có quyền xử tử, sao có thể chuyên quyền giết người được?”. Quách Cung trả lời rằng: “Thống nhất do Đốc soái chỉ huy, đó là về mặt quân sự, hơn nữa địa phương Tần Bành đóng quân không cùng địa phương với Đốc soái, quân pháp quy định, chiểu theo nhu cầu tình hình thực tế, phó tướng có thể linh hoạt xử lý, không cần phải mỗi một việc đều xin chỉ thị từ chủ soái. Do đó, không nên trị tội Tần Bành”. Cuối cùng, Minh Đế tiếp nhận ý kiến của Quách Cung. Quách Cung hiểu rõ pháp luật, nghị luận pháp luật, trách việc người có quyền lực dùng quyền lực thay pháp luật, và đã bảo vệ được tính mạng của Tần Bành.

Thiên Đạo chính trực, không định tội theo nghi ngờ

“Hậu Hán thư” còn có ghi chép một câu chuyện Quách Cung tuân theo pháp luật cứu người. Khi đó xảy ra một vụ án mạng, có 2 anh em cùng nhau giết người, nhưng ai là chủ phạm thì nhất thời khó mà phân định được. Minh Đế cho rằng, người anh không dạy bảo tốt em trai, nên phải chịu trách nhiệm chính, vì vậy phê chuẩn xử tội người anh nghiêm khắc, và miễn tội chết cho người em. Sau đó, Trung thường thị Tôn Chương đọc chiếu thư, nói thành 2 người đều bị phán xử tử hình. Thượng thư biết chuyện đã hạch tội Tôn Chương tội danh “Giả tạo chiếu mệnh Hoàng đế, dâng tấu xin xử tử. Tôn Chương cho rằng mình nhất thời sai lầm, chứ không phải là cố ý. Minh Đế triệu kiến Quách Cung hỏi ý kiến. Quách Cung nói: “Chỉ nên xử phạt tiền Tôn Chương”. Minh Đế hỏi: “Tôn Chương giả mạo Hoàng mệnh, tại sao lại chỉ phạt tiền?”. Quách Cung trả lời rằng: “Pháp luật có phân biệt cố ý và sai lầm, Tôn Chương truyền đạt chiếu mệnh sai, chỉ là sai lầm, phạm tội sai lầm thì xử tội nhẹ”. Minh Đế nói: “Tôn Chương và phạm nhân là người cùng huyện, trẫm nghi ngờ ông ta cố ý làm như thế, không thể tha được”. Quách Cung trả lời rằng: “Thiên Đạo chính trực, quân tử không nên trong khi không có chứng cứ mà nghi ngờ người ta lừa dối, quân vương cần tuân theo Thiên Đạo, không nên định tội theo nghi ngờ”. Minh Đế đồng ý cách nhìn nhận của Quách Cung. Quách Cung đã tỏ rõ tinh thần pháp luật “nghi có tội thì xử không có tội”, đã cứu được tính mạng của Tôn Chương.

Cai quản ngục tù khoan dung, công bằng, nhân nghĩa, tạo phúc ấm cho cháu con

Năm Chương Hòa thứ nhất, đại xá thiên hạ, đối với những phạm nhân tử tù đang giam trong ngục từ ngày Bính Tý tháng 4 về trước đều giảm 1 bậc, và không bị hình phạt đánh roi, đi đày đến Kim thành để trấn thủ biên cương, nhưng lệnh đại xá không đề cập đến những tội phạm đang trốn chạy. Quách Cung dâng tấu lên Hoàng đế rằng: “Hoàng thượng ban ân, giảm hình phạt cho tử tội, để họ đi trấn thủ biên cương, nguyên nhân là coi trọng sinh mạng con người. Hiện nay, tổng số người phạm tử tội trốn chạy không dưới vạn người, từ khi đại xá thiên hạ đến nay, những tội phạm bị bắt về quy án rất nhiều, nhưng chiếu thư xá tội không đề cập đến những người này, họ đều bị phán xử tội nặng. Ngày nay, những người bị xử tội tử hình đều đã được cuộc đời mới, chỉ những tội phạm bị bắt sau đó là vẫn chưa nhận được ân trạch của Hoàng thượng. Thần cho rằng, đối với những người phạm tử tội trước khi có lệnh đại xá, mà sau khi ban lệnh đại xá mới bắt được về quy án, đều nên như vậy, không dùng hình phạt đánh roi, đưa đi đày ở Kim thành để trấn thủ biên cương, như thế vừa bảo toàn được nhân mạng, lại vừa có lợi cho phòng thủ biên cương”. Túc Tông đồng ý với ý kiến của Quách Cung, đã bảo toàn được tính mệnh cho rất nhiều người, cũng khiến họ bảo vệ biên cương cho quốc gia.

Quách Cung cai quản việc pháp luật và xét xử, coi trọng sự khoan dung, công bằng, hình phạt dựa trên nguyên tắc nhân từ khoan dung. Ông đã từng dâng tấu xin thay đổi 41 loại hình phạt nặng thành xử lý nhẹ, đều được Hoàng đế đồng ý. Sách “Vi chính thiện báo sự loại” có ghi chép rằng, Quách Cung làm quan đến chức Đình úy chính, ông đã tạo phúc ấm cho cháu con. Con cháu đời sau của ông có 1 người làm quan đến tước Công, 7 người đến chức Đình úy, 3 người được phong hầu, mười mấy người làm đến chức Thứ sử, Thị trung, còn những người làm đến chức Thị ngự sử, Chính giám bình thì rất nhiều.

Lời kết

“Ở cửa quan dễ tu thiện”, nhất là những người làm công an, kiểm sát, tòa án. Ví như, từ khi Trung Cộng bức hại hàng chục triệu học viên Pháp Luân Công đến nay, ngày càng nhiều những công chức xuất phát từ lương tri, thiện niệm, sau khi minh bạch chân tướng, trợ giúp chính nghĩa, giúp các học viên Pháp Luân Công vô tội tránh bị hại, họ cai quản ngục tù, tích âm đức, nhất định có dương báo.

Trái lại, nếu người trong cửa quan có ác niệm, lạm dụng quyền lực mưu lợi cá nhân, thì cũng sẽ dễ hành ác tạo nghiệp hơn những nghề nghiệp khác. Ví như, đến nay vẫn có những nhân viên công an, kiểm soát, tòa án do không hiểu rõ pháp lý, hoặc che lấp lương tri, theo kẻ cầm quyền chà đạp pháp luật, tạo ra các án oan án sai, bức hại các học viên Pháp Luân Công lương thiện, chính là đang ở cửa quan làm ác tạo nghiệp.

Lịch sử luôn tuân theo Thiên Đạo, vẫn luôn lặp lại, những người ở cửa quan, nhất là những nhân viên chấp pháp, cần phải quán chiếu khởi tâm động niệm của bản thân, tâm có thiện niệm thì phúc ắt sẽ theo đó mà đến.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/6/6/461659.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/7/28/210520.html

 

 

Đăng ngày 03-04-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Ở cửa quan dễ tu thiện” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Sáng trong như cảnh vật sau cơn mưa, nhân phẩm như hoa senhttps://vn.minghui.org/news/262270-sang-trong-nhu-canh-vat-sau-con-mua-nhan-pham-nhu-hoa-sen.htmlThu, 29 Feb 2024 11:48:33 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=262270[MINH HUỆ 21-04-2016] Chu Đôn Di, tự Mậu Thúc, hiệu Liêm Khê, là người Doanh Đạo, Đạo Châu triều Tống (huyện Đạo, Hồ Nam ngày nay), thế nhân gọi ông là “Liêm Khê tiên sinh”. Ông từ nhỏ thích đọc sách, “lấy các tấm gương tiết tháo để khích lệ […]

The post Sáng trong như cảnh vật sau cơn mưa, nhân phẩm như hoa sen first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Vũ Tường

[MINH HUỆ 21-04-2016] Chu Đôn Di, tự Mậu Thúc, hiệu Liêm Khê, là người Doanh Đạo, Đạo Châu triều Tống (huyện Đạo, Hồ Nam ngày nay), thế nhân gọi ông là “Liêm Khê tiên sinh”. Ông từ nhỏ thích đọc sách, “lấy các tấm gương tiết tháo để khích lệ bản thân, coi sự hiển quý kiệu xe mũ mão, sự giàu có vàng bạc châu báu nhỏ bé như hạt bụi, cho rằng “người quân tử coi việc trau dồi Đạo là cao quý, coi việc thân an lành là giàu có”. Ông làm quan thanh liêm chính trực, nổi tiếng là viên quan thanh liêm, phán xử sáng suốt, nhiều lần minh oan cho người tù tội, dám lên tiếng vì người dân. Ông coi trọng giáo hóa, “Dùng việc học Đạo để dẫn dắt trí thức, trí thức đều theo sự giáo hóa của ông”. Sử sách ca ngợi ông là “Chí hướng cao xa, học rộng thực hành mạnh mẽ, có phong thái của người xưa”.

Năm 24 tuổi, Chu Đôn Di được triều đình bổ nhiệm làm Chủ bạ huyện Phân Ninh, Hồng Châu. Khi đó nhà tù của huyện đang giam giữ rất nhiều phạm nhân, hồ sơ các vụ án bị kéo dài rất lâu không phán xử. Sau khi nhậm chức, ông lập tức thẩm lý, xử lý theo pháp luật, đối với một số người dân vô tội bị giam giữ, ông phóng thích cho về nhà, được người dân ca ngợi. Có một vụ án lâu năm, do tình trạng vụ án phức tạp, đã kéo dài chưa xét xử được, Chu Đôn Di tiếp nhận liền “lập tức thẩm vấn xét xử”, chỉ thẩm vấn 1 lần liền ngay lập tức làm rõ sự tình, và đã có phán quyết. Trước sự việc này, người trong huyện không ai là không thán phục, nói rằng: “cho dù là vị quan già giàu kinh nghiệm cũng không thể làm được”.

Do thành tích nổi bật, Chu Đôn Di rất nhanh chóng được tiến cử làm Tham quân lo liệu việc của quân Nam An, và vẫn phụ trách việc xử án. Khi đó có một phạm nhân, căn cứ theo pháp luật thì không đáng bị phán xử tử hình, nhưng viên Chuyển vận sứ của quân Nam An (tức viên quan hành chính đứng đầu Nam An) là Vương Quỳ muốn xử nặng, khăng khăng xử tử anh ta. Vương Quỳ khi đó là viên quan nổi tiếng hung hãn tàn ác, các quan tuy đều nhận thấy vụ án này phán xử sai, nhưng sợ quyền thế của Vương Quỳ, nên không ai dám đứng ra nói. Duy chỉ có Chu Đôn Hi bước ra, đối chiếu với các quy định pháp luật, dùng lý lẽ dốc sức tranh biện. Nhưng Vương Quỳ hoàn toàn không nghe, Chu Đôn Di lập tức từ quan ra đi, và nói: “Như thế này mà vẫn có thể làm quan sao? Dùng phương pháp coi thường mạng người để lấy lòng thượng cấp, việc như thế ta tuyệt đối không làm”. Câu nói này khiến Vương Quỳ tỉnh ngộ, từ bỏ ý đồ ban đầu, tù phạm được may mắn thoát chết. Sau việc này, Vương Quỳ không khen ngợi sự hiền năng của Chu Đôn Di với các đồng nghiệp, mà còn dốc hết sức tiến cử ông với triều đình.

Không lâu sau, Chu Đôn Di được điều làm Tri huyện Nam Xương. Người Nam Xương vui mừng nói: “Đây chính là người năm xưa ở Phân Ninh đã phán xử chỉ sau một lần thẩm vấn đó, chúng ta có cơ hội khiếu tố rồi”. Những tên tiểu lại xảo quyệt của nha môn và những kẻ xấu ác đều sợ hãi bất an, không chỉ lo lắng đắc tội huyện lệnh, mà còn cảm thấy xấu hổ nếu làm xấu chính sách thiện lương. Khi Chu Đôn Di đảm nhiệm chức Thông phán Hợp Châu, những sự việc không qua tay ông xử lý thì những người bên dưới không dám quyết định, cho dù là giao cho làm thì người dân cũng không nguyện ý.

Khi đảm nhiệm Phán quan vận chuyển Quảng Đông, ông điểm lại những người bị tội tù, coi việc minh oan cho người vô tội là trách nhiệm bản thân, không quản gian khổ đi tuần tra những khu vực mà ông cai quản, cho dù là nơi chướng khí và xa xôi hiểm trở, ông cũng đi tuần tra xem xét. Khi ông đến Đoan Châu, người dân địa phương đem chuyện Tri châu Đỗ Tư lũng đoạn mặt hàng quý Đoan nghiễn (nghiên mực Đoan Châu) tố cáo với Chu Đôn Hi, yêu cầu tra xét, trả lại sự công bằng và con đường sống cho người dân. Nguyên là Đoan Châu nổi tiếng về sản xuất nghiên mực đá cao cấp, Đoan nghiễn đứng đầu 4 loại nghiên mực cao cấp nổi tiếng của Trung Quốc. Tri châu Đỗ Tư, mọi người gọi là Đỗ Vạn Thạch, lợi dụng chức quyền, lũng đoạn toàn bộ việc khai thác đá làm nghiên mực, cho đến việc chế tạo và tiêu thụ nghiên mực, không cho phép người dân khai thác. Sau khi điều tra rõ ràng, Chu Đôn Di đã nói rõ chi tiết những tri châu các nhiệm kỳ trước và cả tri châu tại nhiệm là Đỗ Tư, không ai là không kiếm chác và cưỡng chiếm khai thác đá làm nghiên mực, khiến những người dân làm nghiên mực kêu khổ rợp trời. Để trừ tận gốc tệ nạn này, ông xin triều đình hạ lệnh: Quan địa phương không chỉ không được tham gia khai thác đá Đoan nghiễn, mà còn bản thân không được lấy quá 2 nghiên mực Đoan nghiễn. Tấu sớ của ông được triều đình phê chuẩn. Thế là ông đã trả lại quyền khai thác đá làm nghiên mực lại cho người dân.

Ông coi trọng việc giáo hóa, mỗi khi đến một địa phương làm quan, ông đều đề xướng xây dựng trường học, phát triển giáo dục, đồng thời tận dụng thời gian ngoài giờ làm việc lên lớp giảng dạy. Nhân phẩm và học thức của ông từng cảm động rất nhiều người đến theo ông học tập. Năm Chu Đôn Di 30 tuổi, quan Đại Lý Tự là Trình Hướng vốn từ lâu đã nghe danh tiếng Chu Đôn Hi là người cương trực, giỏi xử án, “thấy ông khí mạo phi thường, nên dùng luận đàm, biết ông là người học đạo, nên đã kết bằng hữu với ông”, đồng thời để hai người con trai của mình là Trình Hạo và Trình Di bái ông làm thầy. Sau này, Trình Hạo, Trình Di đều trở thành những nhà tư tưởng, nhà giáo dục nổi tiếng, được mọi người xưng là Nhị Trình. Sau này, Nhị Trình nói, thời niên thiếu do được nghe Chu tiên sinh giảng đạo, nên “vui thích và có chí cầu đạo”.

Khi nhậm chức Thông phán Cán Châu, Chu Đôn Hi và thượng cấp là Tri phủ Cán Châu Triệu đã gây dựng tình bạn sâu sắc. Triệu Biện khâm phục Chu Đôn Di có phong thái “tấm lòng phóng khoáng lỗi lạc, sáng trong như cảnh vật sau cơn mưa”. Chu Đôn Di thì kính trọng Triệu Biện có bẩm tính “cương trực không a dua, thiết diện vô tư”. Triệu Biện cũng là người vô cùng coi trọng việc giáo hóa, hai người phân tích, muốn quản lý tốt Kiền Châu, còn muốn thông qua việc dạy học để giúp đỡ những người đọc sách tăng cường tu dưỡng tự thân, gây dựng phong trào tập quán học tập trong xã hội, từ đó nâng cao tố chất của người dân. Hai người cùng nhau lập ra trường học “Thanh Khê thư viện”, đồng thời giảng dạy trong trường. Triệu Biện giảng “Cẩn thận ngay cả khi ở một mình, đó là cánh cửa bước vào đạo đức”. Chu Đôn Di giảng nội dung “Người quân tử không có lỗi lầm lặp lại”, ý nghĩa đều là đạo làm người nghiêm khắc yêu cầu bản thân, được mọi người yêu thích đón nhận. Mỗi khi họ đến giảng dạy, “những trí thức đến theo học rất đông”, toàn bộ trường học không còn chỗ trống. Dưới sự khởi xướng của hai người, các cấp đều nổi lên phong trào dạy và học, Kiền Châu hiển hiện cảnh tượng phồn vinh, nền chính trị trong sáng, trăm nghề hưng thịnh, phong thái người dân thuần khiết chất phác, văn hóa lên đến đỉnh cao.

Chu Đôn Hi coi nhẹ danh lợi, không bao giờ dùng quyền để mưu đồ cá nhân. Ông đã viết “Nhậm sở ký hương quan cố cựu” cho người trong dòng tộc ở quê hương, trong bài thơ có câu “quan thanh liêm được mộng hồn yên”, đã nói ra tôn chỉ làm quan của ông. Ông nói như thế, cũng làm như thế, và từng tự thuật rằng: “Khoai rau đủ qua năm, ăn mặc là áo vải. Ấm no là phú quý, khỏe yên là vô giá. Ta vui dễ hài lòng, liêm khiết sớm tối răn”.

Qua đó có thể thấy sự kiên trì tiết tháo và tôn chỉ của ông. Tuy làm quan các nơi, nhưng bổng lộc của ông rất ít. Cho dù như thế, ông vẫn dùng phần lớn lương bổng của mình để tài trợ cho người khác, bản thân ông thanh bần nhưng chưa bao giờ ông coi đó là cái khổ, trái lại, ông sống rất yên vui. Một lần ông bị bệnh, người bạn là Phan Hưng Tự đến thăm ông, cảm thán rằng: “Nhìn vào nhà ông ấy, ăn mặc trang phục như của người hầu, cũng chỉ có 1 chiếc rương cũ, tiền không nổi 100 tiền, không ai là không phục ông ấy. Đây là những điều chính mắt tôi trông thấy”. Thân làm quan châu, cuộc sống đơn giản chất phác như thế này, sao có thể không khiến người ta kính phục được!

Trong bài thơ “Ký Chu Mậu Thúc” của mình, Triệu Biện có viết: “Thơ bút không nhàn quan đích thực, tụng đình vô sự dân hân hoan”, ca ngợi Chu Đôn Di khi nhậm chức Tri châu Sâm Châu, việc kiện tụng, xử án hầu như không còn, dân chúng hân hoan. Tô Thức cũng đã từng cảm khái nói rằng: “Tiên sinh vốn toàn đức, thanh liêm lui một góc”. Trong bài tự của tập thơ “Liêm Khê thi”, Hoàng Đình Kiên cũng ca ngợi ông rằng: “Nhân phẩm rất cao, tấm lòng phóng khoáng lỗi lạc, trong sạch như cảnh vật sau cơn mưa”. “Trong sạch như cảnh vật sau cơn mưa” cũng đã trở thành thành ngữ lưu truyền lại đời sau, ý nghĩa gốc là cảnh tượng trong sáng tinh khiết của vạn vật sau khi mưa tạnh, cũng thường dùng để ví tấm lòng, cái tâm rộng mở của con người. Mọi người khâm phục cách ông làm người, làm quan, tu học, mỗi khi ông đến nơi nào thì đều được người dân nơi đó kính yêu.

Khi ông đảm nhiệm chức Tri quân của quân Nam Khang, ông từng xây dựng thư đường ở chân núi Lư Sơn. Do trước thư đường có một con suối, nên ông đặt tên là Liêm Khê, để nói nên chí hướng thanh bạch, và xây dựng trường học Thanh Khê thư viện ở đó, những năm cuối đời, ông về quy ẩn nơi này. Có lúc ông đọc kinh tham ngộ Đạo, giao du với cao tăng, Đạo sĩ, có lúc ông giảng dạy, giáo dục người. Cả cuộc đời, ông rất yêu hoa sen, ông đào một cái hồ trước thư đường, đặt tên là Liên Trì, trồng hoa sen, dùng sự thanh cao tinh khiết của hoa sen để gửi gắm tâm chí cả đời mình.

Trong tác phẩm “Ái liên thuyết” nổi tiếng của mình, ông viết: “Tôi chỉ yêu hoa sen, mọc ra từ bùn lầy mà không nhiễm bẩn, giỡn với sóng xanh mà không lơi lả, bên trong trống rỗng thông đạt mà bên ngoài thẳng tắp, không dây leo không cành nhánh, hương càng xa càng thơm dịu… hoa sen, loài hoa của người quân tử”. Có thể nói, hoa sen cũng giống như ông vậy, ông cũng giống hoa sen vậy. Phong thái quân tử thanh cao thanh khiết như hoa sen, chẳng phải chính là tấm gương chân thực ở bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng làm được kiên trì chí hướng tiết tháo không lay chuyển đó sao? Đọc “Ái liên thuyết” khiến người ta sản sinh sức mạnh tinh thần gạn đục khơi trong, quét sạch cáu bẩn bụi trần, khích lệ thế nhân, bất kể trong hoàn cảnh nào cũng kiên trì chân lý và đạo nghĩa, không chung đường chung lối với thế lực hắc ám của xã hội, trước sau bảo trì bản sắc chân ngã của mình, mỹ đức như hương thơm hoa sen, càng xa hương càng dịu dàng thanh khiết.

(Tham khảo “Tống sử”; “Chu Liêm Khê tập”)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2016/4/21/326924.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/1/25/214439.html

Đăng ngày 29-02-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Sáng trong như cảnh vật sau cơn mưa, nhân phẩm như hoa sen first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 2)https://vn.minghui.org/news/262248-trinh-quan-chinh-yeu-va-khang-hy-chinh-yeu-2.htmlWed, 28 Feb 2024 11:18:48 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=262248[MINH HUỆ 12-11-2016] Tiếp theo Phần 1 2. “Khang Hy chính yếu” Khang Hy Đại đế họ Ái Tân Giác La, tên là Huyền Diệp, là vị hoàng đế thứ 4 triều Thanh, và là vị hoàng đế thứ 2 sau khi nhà Thanh định đô ở Bắc Kinh, niên hiệu […]

The post “Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Tần Sơn

[MINH HUỆ 12-11-2016]

Tiếp theo Phần 1

2. “Khang Hy chính yếu”

Khang Hy Đại đế họ Ái Tân Giác La, tên là Huyền Diệp, là vị hoàng đế thứ 4 triều Thanh, và là vị hoàng đế thứ 2 sau khi nhà Thanh định đô ở Bắc Kinh, niên hiệu là Khang Hy, với ý nghĩa là ‘Vạn dân khang ninh, thiên hạ hy thịnh’ (Vạn dân yên vui, thiên hạ hưng thịnh). Khang Hy Đại đế đã đặt định nền móng cho sự hưng thịnh của triều Thanh, khai sáng ra cục diện Khang Càn thịnh thế, được người đời sau tôn xưng là “Thiên cổ nhất đế”, miếu hiệu Thánh Tổ, thụy hiệu Hợp Thiên Hoằng Vận Văn Vũ Duệ Triết Cung Kiệm Khoan Dụ Hiếu Kinh Thành Tín Công Đức Đại Thành Nhân Hoàng Đế, thông thường gọi là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.

“Khang Hy chính yếu” chủ yếu ghi chép những lời giáo huấn, lời nói của Khang Hy Đại đế khi xử lý chính sự, và đối thoại của ông với các đại thần, trong đó bao gồm rất nhiều phương diện như đạo làm vua, bổ nhiệm hiền tài, khoan dung nhân đức, tiết kiệm, thành tín v.v.

Người biên soạn “Khang Hy chính yếu” là Chương Xâm (1861-1949), tên là Chính Diệu, tự Lập Quang, hiệu Nhất Sơn, là người trấn Hải Du huyện Tam Môn tỉnh Chiết Giang. Ông là một học giả, nhà giáo dục và nhà thư pháp nổi tiếng. Chương Xâm sinh ra trong gia đình học giả, 6 tuổi ông vào trường tư thục, 18 tuổi ông dự thi và đỗ tú tài, sau đó ông đến Tinh xá Hỗ Kinh ở Hàng Châu để nghiên cứu sâu, theo học danh sư nổi tiếng Giang Nam là Du Khúc Viên, được thầy Du đích thân truyền thụ. Ông nghiên cứu kinh sử, và học thuật số, thiên văn, địa lý, học vấn tiến bộ từng ngày. Ông từng đến các tỉnh Tứ Xuyên, Giang Tây, Hồ Nam mưu sự, khảo sát dân tình, phong tục, và mở rộng kiến thức. Năm Quang Tự thứ 30 (năm 1904), Chương Xâm đến kinh thành thi đỗ tiến sĩ, sau khi thi đình được ban chức Hàn lâm viện Kiểm thảo. Sau này qua nhiều lần bổ nhiệm, ông làm các chức Kinh sư Đại học đường Dịch học quán Đề điều, Giám đốc, Hàn lâm viện Quốc sử quán Hiệp tu, Toản tu, Công thần quán Tổng toản, Đức tông Thực lục quán Toản tu, Bưu truyền bộ Thừa tham thượng Hành tẩu. Ông còn kiêm Kinh sư Đại học đường Kinh khoa, Văn khoa Đề điều, Bưu truyền bộ, Giao thông bộ Truyền tập sở Giám đốc, Hiệu trưởng trường Sư phạm nữ Bắc Kinh.

Chương Xâm trên cơ sở “Xem xét nguyên nhân hưng suy của các triều đại, khảo sát nguyên nhân thay đổi của các triều đại”, cho rằng sự quản trị của Khang Hy đứng đầu “sự quản trị của trăm vua”. Trong “Đề thức” của “Khang Hy chính yếu”, Chương Xâm đã có những đánh giá cực cao dành cho Khang Hy Đại đế: “Thiết nghĩ sự quản trị của trăm vua, không ai vượt qua được Thánh Tổ triều ta. Thánh Tổ nhân như Nghiêu, kiệm như Vũ, văn như Thuấn, võ như Thang, hiếu học như Ân Tông, cung kính như Chu Khảo, mà sự quản trị của ngài như có vẻ học theo đời trước nhưng thực tế là sáng tạo ra, thực ra trông như an nhàn mà thực tế là nguy nan, vận dụng như Thần, khiến thiên hạ yên định, hưởng lộc nước lâu dài, kéo dài cho các đời sau”.

Do sự hùng vĩ của thời thịnh thế Khang Hy, và do sự khâm phục và kính ngưỡng đối với Khang Hy Đại đế, Chương Xâm nảy sinh ý tưởng mô phỏng theo “Trinh Quán chính yếu” của Ngô Căng đời Đường để soạn ra “Khang Hy chính yếu”. Để thực hiện nguyện vọng lớn lao này, Chương Xâm tận dụng điều kiện nhậm chức của mình, sưu tập lượng lớn tài liệu chính sử, thận trọng đánh giá ghi chép các văn tập liên quan. Đối với dã sử và các tài liệu không chính thức khác, ông giữ thái độ thận trọng nghiêm cẩn “không dám hỗn tạp”. Đồng thời, ông còn chủ động thảo luận ngày đêm với các quan đồng liêu ở Đồng giảng Tập quán. Sau khi trải qua nhiều năm nỗ lực, cuối cùng ông đã biên soạn ra cuốn “Khang Hy chính yếu” gồm 24 quyển, tổng 42 chương. Chương Xâm cho rằng, Khang Hy Đại đế “Thánh đế có học vấn rộng lớn, đức lớn bao la, quy mô sâu xa, thực sự là mở ra con đường quản trị có đạo vạn năm”.

Sách “Khang Hy chính yếu” dường như chiểu theo thể lệ của “Trinh Quán chính yếu” của Ngô Căng triều Đường, phân loại, lựa chọn các loại tư liệu về sự tích liên quan đến Khang Hy. So với “Trinh Quán chính yếu” thì nó thêm các chương “Tuân pháp tổ chế”, “Ưu lễ đại thần”, “Cần học”, Tuất huân cựu”, “Thượng liêm”, “Lý học”, “Dư địa”, “Lịch toán” v.v. Theo “Đề thức” của tác giả, “Khang Hy chính yếu” hoàn thành vào năm Tuyên Thống thứ 2 (năm 1910), và được khắc in phát hành cùng năm. Sau đây, tuyển chọn 4 đoạn để độc giả cùng thưởng thức.

Quyển 2 – Luận chính thể đệ 2: Năm Khang Hy thứ 5 (năm 1686), Thánh tổ Hoàng đế căn dặn các quan đại học sĩ rằng: “Ta cho rằng từ xưa đến nay, đế vương vỗ yên cai quản bách tính, chính trị trong sáng, giáo hóa thông suốt, thay vì trừng phạt dân bằng hình phạt khiến họ sợ pháp luật, tránh được việc phạm tội, thì tốt hơn là nên dùng đức giáo hóa, để khiến dân trong sạch, luôn hướng thiện, không nhẫn tâm làm điều ác. Sách “Thượng thư” có viết rằng: ‘Thiên hạ vạn bang điều hòa dung hợp, thì bách tính lên dân trở nên thiện lương và hòa mục’. Sách Thượng Thư cũng viết rằng: ‘Hoàng đế đối với bề tôi cần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, đối với dân chúng cần khoan hồng đại lượng’. Thời đại Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, trị sửa chiểu theo nguyện vọng của mọi người, giống như gió cổ động nhân dân bốn phương, kết quả đã nghiệm chứng điều này. Trẫm từng cung kính theo sự hưng thịnh thời thượng cổ, nỗ lực tiến hành giáo hóa, hy vọng dùng nó để cảm hóa cái thiện lương của mọi người, cùng họ bước tới con đường chính đạo”.

Quyển 11 – Luận khoan nhân đệ 14: Năm Khang Hy thứ 35 (năm 1696), Thánh tổ Hoàng đế căn dặn các nghị chính đại thần rằng: “Thiên hạ nên lấy nhân đức cảm hóa, không được chỉ dùng uy thế để khiến họ quy phục. Ngày nay trẫm đích thân chinh phạt Cát Nhĩ Đan, đều do tội lỗi Cát Nhĩ Đan mà chuốc lấy. Hơn nữa Cát Nhĩ Đan hung ác tàn bạo, thì trẫm dùng khoan dung nhân từ đối đãi với ông ta; Cát Nhĩ Đan gian trá quỷ quyệt, thì trẫm dùng thành tín đối đãi với ông ta. Trẫm đã từng thấy văn hiến trong kinh sử viết rằng, chỉ có người nhân đức thì mới không có kẻ địch. Giờ đây, Cát Nhĩ Đan đã vào đường cùng, sai sứ giả Cách Lỗi Cô Anh đến xin hòa, ý trẫm vẫn là vỗ về”.

Các đại thần dâng tấu rằng: “Hoàng thượng thực sự là có cái tâm hiếu sinh của trời đất, thực sự là từ xưa đến nay không có”.

Thánh tổ Hoàng đế nói: “Tướng soái thời cổ đại, cho dùng giỏi dụng binh, nhưng nhiều người đã tàn sát những kẻ địch đã đầu hàng. Có người bản thân không được chết yên lành, có người thì cháu con suy bại, đây đều là lời cảnh tỉnh rõ ràng về việc hiếu sát. Quân chủ cổ đại, có người dốc hết sức lực vào chinh chiến, thích công lao lớn, ý kiến của trẫm không cho rằng như thế là đúng. Trẫm chỉ hy vọng thiên hạ hòa thuận yên vui, bốn biển thanh bình, người người no đủ, nhân dân ai nấy sống yên ổn mà thôi. Sứ giả của Cát Nhĩ Đan là Cách Lỗi Cô Anh có thể để ông ta trở về”.

Quyển 18 – Luận lý học đệ 28: Thánh tổ Hoàng đế đích thân soạn “Tính lý đại toàn tự”, viết rằng: “Thánh vương thời thượng cổ, sở dĩ có thể kế thừa ngôi vị thiên tử, làm quân chủ và thầy của vạn dân thiên hạ, không chỉ có phương pháp quản trị quốc gia nghiêm minh, đầy đủ, mà còn có sự tinh thâm của tâm pháp, và đạo pháp. Sự giáo huấn của đạo chấp trung, bắt đầu từ Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, học vấn của đế vương, không điều gì là không từ đó mà sinh ra, phát triển ra. Đàm luận về nhân tâm, ngài nói: ‘Nhân tâm tự tư thì nguy hiểm, đạo tâm sâu sắc nhẹ sáng’. Đàm luận về nhân tính, ngài nói: ‘Thuận theo thiên tính tự nhiên của con người, tìm được biện pháp an định họ, thì đó chính là quân vương’. Chiểu theo đạo lý thiên tính tương đồng, lương trí cố hữu trong nhân tâm, đó chính là cội nguồn của các loại thiện niệm. Lấy điều này làm gốc để xây dựng nguyên tắc quản trị chí cao vô thượng, thì sẽ trở thành thiên đức vương đạo thuần chính, thì sẽ thành tựu nhất đạo đồng phong của việc quản trị. Muốn tu dưỡng thân tâm, đạt được thời thịnh trị lý tưởng, nếu rời xa đại đạo này thì làm sao có con đường để tiến bước được? Trẫm kế thừa điển chế hoàn mỹ mà Thái tổ, Thái tông tích lũy, kế thừa đại nghiệp lớn lao của Thế tổ Chương Hoàng Đế, ngày đêm cung kính e sợ, tạo ân huệ cho mọi người, mong đạt được sự thịnh trị thái bình. Mỗi khi nghĩ đến sự quản trị của Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn Vương, dùng đạo nghĩa làm gốc, mà đạo nghĩa của họ lại lấy tâm tính làm gốc. Nghiêm túc xem xét rõ cái lý của nhân tính, để phụ giúp giải thích lục kinh, phát huy đạo của thánh vương, thì không thời nào rõ ràng tường tận bằng các vị đại Nho đời Tống”.

Quyển 17 – Luận kinh sử văn học đệ 29: Sách “Tứ thư giải nghĩa” khắc in xong, Thánh tổ Hoàng đế đích thân viết lời tựa rằng: “Trẫm suy nghĩ Trời sinh Thánh hiền, làm quân chủ và thầy của nhân dân, truyền thừa đạo thống thiên thu vạn đại, đó cũng chính là mấu chốt của việc quản trị. Từ sau thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, thì có Khổng Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử. Mà ngoài “Dịch kinh”, “Thư kinh”, “Thi kinh”, “Lễ ký”, “Xuân thu” ra, còn có 4 bộ sách “Luận ngữ”, “Đại học”, “Trung dung”, “Mạnh Tử”. Điều này giống như ánh sáng mặt trăng mặt trời đi qua bầu trời, như non nước Ngũ nhạc Tứ độc chảy và đứng trên trái đất. Quan trọng biết bao. Có bốn bậc thầy Khổng Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, mà sau này đạo của Văn Nhị Đế Tam Vương là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương mới được truyền thừa lại. Có sách của bốn bậc thầy mà sau này thể hệ lý luận của Ngũ kinh mới được hoàn chỉnh. Sách của bốn bậc thầy, đầu tiên là đắc được nghĩa tinh vi của Ngũ kinh, sau đó thêm phát triển luận thuật. Khổng Tử đã lấy sự Thánh minh chưa từng có từ khi sinh ra nhân loại, và sự thảo luận chính sự và học vấn của quân chủ, đại phu và đệ tử của ông thời Xuân Thu liệt quốc, toàn bộ thiên đức vương đạo cũng như mấu chốt tu kỷ trị nhân, đều đưa vào trong sách “Luận ngữ” này. “Đại học”, “Trung dung” đều là sự truyền thừa của tư tưởng Khổng Tử, mà Tăng Tử, Tử Tư đắc được sự chính thống của Khổng Tử. Minh đức, tân dân, chí ư chí thiện, đây là nguyên nhân khiến quốc gia, thiên hạ được trị sửa và yên định. Trời ban cho gọi là nhân tính, tuân theo nhân tính gọi là đạo, tu theo đạo gọi là giáo hóa, cho đến đạt được trung hòa. Đây chính là cội nguồn của sự sinh trưởng sáng tạo của trời đất vạn vật, là sự thông hành trong thiên hạ của cửu kinh ngũ đạt đạo. Đến Mạnh Tử, kế thừa đạo thống của các bậc Thánh xưa, khai sáng Nho học sau này, phá trừ dị đoan tà thuyết, để quy chính nhân tâm, khiến tôn chỉ nhân tính bản thiện, nhân chính nhân nghĩa có thể hiển hiện sáng khắp thiên hạ. Những lời dạy bảo ngôn luận của các bậc Thánh hiền này, đều là làm ra vì nhân dân thiên thu vạn đại. Đạo thống của Nho học là ở đây, sự quản trị thiên hạ cũng là ở đây”.

Thực lục quán Tổng tài, Quân cơ Đại thần, Thể nhân các Đại học sĩ Từ Thế Xương đã ca ngợi trong bài tựa của “Khang Hy chính yếu” rằng: “Xem xét Chương Xâm, học rộng nghĩ sâu, nắm rõ điển cố, nên phỏng theo thể thức của “Trinh Quán chính yếu” của Ngô Căng đời Đường, đã soạn “Khang Hy chính yếu” gồm 24 quyển, với 42 mục, lựa chọn ngôn ngữ tinh vi tường tận, khiến cho người đọc 200 năm sau như thấy được khí thế các đại thần Vương Thị Hy, Phùng Thị Phổ, Lý Thị Quang cùng trong điện đường vậy”. Đồng thời ông đánh giá cao thời thịnh thế Khang Hy là “Giá trị kéo dài qua năm tháng, sự hưng thịnh của đạo làm người, sự an lành tạo phúc cho người dân, thì từ thời Hán đến nay chưa từng có”. Một vị khác viết lời tựa cho “Khang Hy chính yếu” là Hiệp biện Đại học sĩ, Ngoại vụ bộ Thượng thư Cù Hồng Tập, ca ngợi Khang Hy Đại đế rằng: “Thánh tổ viết trong “Đình huấn” rằng: ‘Tâm pháp là cội nguồn của phép quản trị’. Đây chính là nối tiếp đạo trị quốc tâm truyền của Nghiêu Thuấn, mà còn hơn cả Nghiêu Thuấn”.

Lời kết

Ngô Căng và Chương Xâm với thái độ nghiêm cẩn của nhà sử học, đã lưu lại tín sử cho hậu thế, đọc hai bộ điển tịch cổ này, có thể thấy được trục chính, đó chính là tu tâm hướng thiện, nhân tâm nhân nghĩa, thuận theo lẽ Trời, trừ bỏ ác, hồng dương thiện.

Tài liệu tham khảo và xuất xứ:

“Trinh Quán chính yếu” của Ngô Căng đời Đường.

“Đế phạm” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân đời Đường.

“Lãm ‘Trinh Quán chính yếu’” của Khang Hy Đại đế Ái Tân Giác La Huyền Diệp đời Thanh.

“Khang Hy chính yếu” của Chương Xâm đời Thanh.

(Hết)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2016/11/12/《贞观政要》与《康熙政要》-下–337370.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/1/4/214167.html

Đăng ngày 28-02-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 1)https://vn.minghui.org/news/262215-trinh-quan-chinh-yeu-va-khang-hy-chinh-yeu.htmlTue, 27 Feb 2024 12:40:01 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=262215[MINH HUỆ 11-11-2016] “Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” đã ghi lại hai thời kỳ hoàng kim rực rỡ trong lịch sử Trung Quốc – thời kỳ “Trinh Quán chi trị” và “Khang Hy thịnh thế”, ghi chép lại những lời nói và hành động của Hoàng […]

The post “Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Tần Sơn

[MINH HUỆ 11-11-2016]

“Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” đã ghi lại hai thời kỳ hoàng kim rực rỡ trong lịch sử Trung Quốc – thời kỳ “Trinh Quán chi trị” và “Khang Hy thịnh thế”, ghi chép lại những lời nói và hành động của Hoàng đế Đường Thái Tông và Hoàng đế Khang Hy, những người đã tạo dựng nên những thời kỳ thịnh vượng này, cũng như tương tác của họ với các đại thần.

1. “Trinh Quán chính yếu”

“Trinh Quán chính yếu” là một tác phẩm lịch sử với tính chất chính luận, được biên soạn bởi nhà sử học thời Đường, Ngô Căng. Tác phẩm chủ yếu ghi chép lại lời nói, gồm 10 quyển với 40 bài, phân loại và biên tập các cuộc đối thoại về vấn đề chính trị giữa Đường Thái Tông và các đại thần trong thời kỳ Trinh Quán như Ngụy Trưng, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối… cũng như một số lời khuyên, thỉnh cầu và báo cáo của các đại thần. Ngoài ra, còn ghi chép về một số biện pháp lớn về chính trị và kinh tế. So với các tác phẩm lịch sử khác như “Cựu Đường thư”, “Tân Đường thư”, “Tư trị thông giám” ghi chép về thời kỳ Trinh Quán, thì “Trinh Quán chính yếu” cung cấp thông tin chi tiết hơn.

Ngô Căng (670–749), người Tuấn Nghi, Biện Châu (nay là Khai Phong, Hà Nam), sinh vào năm Tổng Chương thứ ba đời Đường Cao Tông, và qua đời vào năm Thiên Bảo thứ tám đời Đường Huyền Tông. Lịch sử ghi nhận rằng Ngô Căng “chăm chỉ học tập, am hiểu sâu rộng về kinh sử”. Là một quan sử, ông không chỉ viết sử chân thực, mà còn dám thẳng thắn trình bày vấn đề chính trị mà không quan tâm đến sự an nguy của bản thân. Ngô Căng khi mới vào Sử quán đã từng phẫn nộ trước hành động “lời nói dối tô vẽ, không viết chính trực” của Vũ Tam Tư và những người khác. Ông cho rằng “viết sử của quốc gia phải ghi chép rõ ràng về điều tốt và xấu”. Ông tự viết sử của triều đại mình để bảo tồn sự thật lịch sử. Khi giải thích cho Huyền Tông về đặc điểm của bản sử do mình viết, ông nói rằng “tuy văn phong không tinh xảo, nhưng mọi sự kiện đều dựa trên sự thật”. Điểm nổi bật trong phong cách sử học của Ngô Căng là “viết thẳng thắn”. Trong thời gian làm quan sử, ông đã dành thời gian rảnh để viết “Trinh Quán chính yếu”, mong muốn để lại cho hậu thế một sử sách đáng tin cậy.

Trong cả “Lời tựa Trinh Quán chính yếu” và “Dâng biểu Trinh Quán chính yếu”, Ngô Căng đều giải thích về bối cảnh viết cuốn sách này. Trong lời tựa, ông giới thiệu rằng: Thị trung An Dương công, Trung thư lệnh Hà Đông công, là lương tướng của Đại Đường từ khi thành lập quốc gia, “luôn khắc chế bản thân, gắng sức tinh tấn, nhớ lại quá khứ”, rất ngưỡng mộ thời kỳ Trinh Quán, cảm thấy rằng “chính trị giáo hóa thời Đường Thái Tông để lại dấu vết đáng để quan sát, từ xưa đến nay chưa từng có”. Do đó, ông đã chỉ đạo Ngô Căng biên soạn cuốn sách này.

Đầu thời kỳ Trinh Quán, Đường Thái Tông muốn hiểu rõ được điểm mạnh và yếu của các đời hoàng đế trước đó, ông đã ra lệnh cho Ngụy Trưng, Ngu Thế Nam và các đại thần khác biên soạn “Quần thư trị yếu”. Người biên soạn đã chọn lọc tư liệu từ các tác phẩm kinh sử tử tập của các thời đại trước, tổng kết được điểm mạnh và yếu của các hoàng đế từ thời cổ đại đến thời nhà Tấn.

Chính Đường Thái Tông cũng tự mình viết những tác phẩm như thế. Ông hoàn thành 12 chương “Đế phạm”, và vào năm Trinh Quán thứ 22 (năm 648) chính thức trao cho Hoàng thái tử Lý Trị, nhấn mạnh rằng đây là di huấn: “Đạo sửa mình cai quản chính sự đều có trong đó, khi trẫm không còn, thì không còn gì để nói nữa.” Hành động của Đường Thái Tông chắc chắn đã truyền cảm hứng cho người sau. Có nhiều tên chương giống nhau hoặc tương tự giữa “Đế phạm” và “Trinh Quán chính yếu”. Khi so sánh hai cuốn sách (“Đế phạm” phía trước “Trinh Quán chính yếu” phía sau), ta thấy như sau:

“Quân thể” – “Quân đạo”, “Chính thể”;

“Kiện thân” – “Phong kiến”;

“Cầu hiền” – “Nhiệm hiền”;

“Thẩm quan” – “Trạch quan”;

“Nạp gián” – “Nạp gián”;

“Khứ sàm” – “Đỗ sàm tà”;

“Giới doanh” – “Khiêm nhượng”;

“Sùng kiệm” – “Kiệm ước”;

“Thưởng phạt” – “Hình pháp”;

“Vụ nông” – “Vụ nông”;

“Duyệt vũ” – “Chinh phạt”;

“Sùng văn” – “Sùng Nho học”, “Văn sử”.

Rõ ràng, 12 chương của “Đế phạm” đều được Ngô Căng tham chiếu hấp thụ.

“Trinh Quán chính yếu” gồm 10 quyển, được chia thành 40 bài, mỗi bài có tên phản ánh nội dung cơ bản của bài đó, nội dung tương tự của một số bài được gộp lại thành một quyển, mỗi quyển phản ánh một loại vấn đề. Do nội dung của cuốn sách được sắp xếp theo chủ đề riêng biệt, nên rất thuận tiện cho việc tra cứu và sử dụng.

Nội dung của cuốn sách này rất phong phú, bao gồm các cuộc đối thoại giữa Đường Thái Tông và các đại thần (giống như sách ghi chép lời nói); có bản gốc hoặc trích đoạn của các chiếu thư và tấu biểu (giống như tập hợp văn chương); có diễn biến của một số sự kiện lịch sử (giống như thể loại ghi chép đầu đuôi sự việc); có truyện ký của các nhân vật (giống như thể loại ghi chép truyện ký); nội dung trong cùng một phần thường được sắp xếp theo trình tự thời gian xảy ra (giống như thể loại biên niên sử). Mặc dù nội dung ghi chép phong phú, các vấn đề rất đa dạng, thể loại sử dụng cũng khá linh hoạt, nhưng mục đích chỉ có một, đó là tuyên truyền về nền chính trị nhân đức và thuật cai trị của Đường Thái Tông, tổng kết kinh nghiệm và bài học giúp quốc gia thịnh trị yên ổn lâu dài.

“Trinh Quán chính yếu” đối với triều Đường là một cuốn sách rất kịp thời, được sử dụng làm tài liệu học tập cho các hoàng tử. Đường Tuyên Tông Lý Thầm là một vị vua có một số thành tựu trong thời Vãn Đường, ông rất chú trọng nghiên cứu “Trinh Quán chính yếu”, rút ra kinh nghiệm trong việc cai trị. Đường Tuyên Tông từng “chép ‘Trinh Quán chính yếu’ lên bình phong, mỗi lần đọc đều nghiêm trang và cung kính”.

Các hoàng đế triều Nguyên đã nhiều lần nhắc đến cuốn sách “Chính yếu”, và yêu cầu Nho thần đương thời giảng giải nội dung sách. Triều Minh quy định, ngoài các ngày 3, 6, 9 hàng tháng hoàng đế thiết triều ra, buổi trưa mỗi ngày đều yêu cầu các thị thần giảng dạy “Chính yếu”. Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm đặc biệt chú ý đến việc xuất bản “Chính yếu”, tự mình làm lời tựa, thể hiện sự ngưỡng mộ. Các hoàng đế triều Thanh như Khang Hy, Càn Long đều rất quen thuộc với nội dung “Chính yếu” và rất ngưỡng mộ “Trinh Quán chi trị”. Hoàng đế Càn Long từng nói: “Trẫm thường đọc sách này, nghĩ về thời kỳ đó, chưa bao giờ không ngưỡng mộ mà tán thán lên: ‘Trinh Quán chi trị thật là rực rỡ!’”

“Trinh Quán chính yếu” cũng có ảnh hưởng lớn ở nước ngoài. Khoảng thế kỷ thứ chín, cuốn sách này đã được truyền đến Nhật Bản. Trong thời kỳ Kamakura, vào năm 1205, học giả Sugawara no Tamenaga được chỉ định làm giảng viên, giảng dạy “Chính yếu” cho Mạc phủ, có ảnh hưởng lớn đến chính trường Nhật Bản thời đó. Trong thời kỳ Edo, Mạc phủ Tokugawa ban hành 17 điều “Luật cấm cung và quốc gia” năm 1615, điều đầu tiên quy định Thiên tử phải đọc “Trinh Quán chính yếu”, để “hiểu rõ Đạo xưa”. Sau đó, “Chính yếu” được phổ biến rộng rãi ở Nhật Bản.

Đường Thái Tông đã tạo dựng thời kỳ thịnh vượng của Đại Đường, “Trinh Quán chính yếu” đã luận thuật toàn diện về lòng nhân ái, chính sách nhân từ, trị quốc bằng đức, coi dân là gốc, khởi đầu thiện và kết thúc cẩn thận, giới cấm xa hoa và tham lam, bổ nhiệm người tài đức, v.v., với nhiều câu ngạn ngữ và câu danh ngôn. Dưới đây chỉ là một vài đoạn được chọn lọc để chia sẻ với độc giả.

Cuốn Sáu – Luận Khiêm Nhường: Vào năm Trinh Quán thứ nhất, Đường Thái Tông nói với các đại thần thị tòng rằng: “Người ta nói rằng, vì là Thiên tử nên có thể tự cho mình là quý phái và cao quý, không sợ hãi điều gì, nhưng trẫm cho rằng, điều này hoàn toàn ngược lại. Thiên tử càng phải khiêm tốn và cẩn trọng, luôn phải có lòng kính sợ. Trước đây, vua Thuấn đã khuyên vua Vũ rằng: ‘Chỉ cần khanh không kiêu ngạo, thì không ai trên thế giới này sẽ tranh cãi với khanh về khả năng, chỉ cần khanh không tự phụ, thì không ai trên thế giới này sẽ tranh cãi với khanh về công lao.’ Kinh Dịch nói: ‘Phép tắc của quân tử là ghét sự tự mãn và coi trọng sự khiêm tốn.’ Khi đã trở thành Thiên tử, nếu chỉ cho rằng mình cao quý, không giữ thái độ khiêm tốn và cẩn trọng, thì nếu mình có lỗi lầm, ai sẽ dám xúc phạm đến uy nghiêm để đưa ra ý kiến? Trẫm thường nghĩ rằng, mỗi lời nói, mỗi việc làm của đế vương, đều phải sợ Trời cao, sợ quần thần. Trời tuy cao nhưng có thể nghe được lời bàn tán dưới đất, làm sao không sợ Trời? Công khanh bá quan ở dưới đều theo dõi trẫm, làm sao không khiến người ta sợ hãi? Do đó, ngay cả khi đế vương luôn giữ lòng khiêm tốn và kính úy, e rằng vẫn không thể đáp ứng được ý Trời và ý nguyện của bách tính”.

Cuốn Năm – Luận Nhân Nghĩa: Vào năm Trinh Quán thứ nhất, Thái Tông nói: “Trẫm thấy các đế vương thời cổ đại, những người dùng nhân nghĩa để trị quốc, đều có quốc vận lâu dài. Những người sử dụng luật lệ nghiêm khắc để thống lãnh nhân dân, mặc dù có thể giải quyết được những vấn đề trong thời điểm đó, nhưng quốc gia sẽ sớm bị diệt vong. Khi chúng ta đã thấy được phương pháp thành công của các đế vương trước đây, chúng ta có thể sử dụng chúng như một điển phạm để trị quốc. Bây giờ, chúng ta cần sử dụng sự thành tín và nhân nghĩa làm phương châm trị quốc, hy vọng điều này sẽ giúp loại bỏ những điều giả tạo của thời gần đây.”

Cuốn Sáu – Luận Thận Trọng trong Lời Nói: Vào năm Trinh Quán thứ hai, Đường Thái Tông nói với các đại thần thị tòng rằng: “Mỗi ngày trẫm ngồi triều xử lý chính sự, mỗi lời nói, đều phải suy nghĩ xem lời nói đó có ích lợi gì cho nhân dân, vì vậy trẫm không dám nói nhiều.”…

Vào năm Trinh Quán thứ 8, Đường Thái Tông nói với các đại thần thị tòng rằng: “Lời nói là chìa khóa thể hiện đức hạnh của quân tử, vì vậy, làm sao có thể nói lời vô tâm và bất cẩn? Người dân thường, một lời nói không tốt, sẽ bị người khác nhớ mãi và trở thành trò cười, làm hại danh dự, huống chi là vị vua của hàng vạn chiến xa? Vua không bao giờ nên nói ra những lời không phù hợp. Hậu quả của việc làm này rất lớn, làm sao vua có thể so sánh với người thường? Trẫm luôn nhắc nhở mình về điều này.”

Khang Hy Đại Đế đánh giá cao “Trinh Quán chính yếu” và thời kỳ Trinh Quán thịnh trị của Đường Thái Tông: “Sau ba thời cổ đại, ghi chép vẫn rực rỡ. Nhìn lại hơn ngàn năm, Trinh Quán thời thịnh trị. Tu đức dừng can qua, nhà tù đều trống rỗng. Hải ngoại dâng xe sách, dân chúng hát vui sướng. Chuyện xưa còn lưu dấu, truyền lại trong sử sách. ‘Chính yếu’ bốn mươi thiên, dùng một từ xuyên suốt. Nhân nghĩa hiệu quả rõ, nếu không sẽ gián đoạn”.

Ý nghĩa chung của đoạn này là: Dù trải qua lịch sử lâu dài, thời kỳ Trinh Quán vẫn tỏa sáng rực rỡ trong các sách sử. Nhìn lại hơn một ngàn năm lịch sử, Trinh Quán chi trị chính là thời kỳ thịnh trị xứng đáng nhất. Đường Thái Tông tu dưỡng đức hạnh, thống nhất bốn biển, chấm dứt loạn lạc, thế giới an bình và hòa thuận, nhà tù trống rỗng không còn tù nhân. Trong thời kỳ Trinh Quán, thiên hạ đại thống, khắp nơi yên bình và thịnh vượng, dân chúng vui mừng và hát ca. Những sự kiện của thời kỳ Trinh Quán vẫn còn tồn tại, được truyền lại qua các thế hệ trong các sử sách. “Trinh Quán chính yếu” gồm bốn mươi chương, rộng lớn và đầy đủ. Từ sử sách có thể thấy, việc quản lý thiên hạ bằng nhân nghĩa sẽ mang lại hiệu quả rõ ràng, nếu không theo đạo nhân nghĩa, mọi việc thường bị gián đoạn và không thể thành công.

(Còn tiếp)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2016/11/11/337371.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/1/3/214150.html

Đăng ngày 27-02-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Trinh Quán chính yếu” và “Khang Hy chính yếu” (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Hưng thịnh nhờ tích đức, thất bại vì thất đức: Câu chuyện của Tuyên Chiêu Đế Phù Kiên triều Tiền Tầnhttps://vn.minghui.org/news/262193-hung-thinh-nho-tich-duc-that-bai-vi-that-duc-cau-chuyen-cua-tuyen-chieu-de-phu-kien-trieu-tien-tan.htmlMon, 26 Feb 2024 12:25:47 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=262193[MINH HUỆ 17-04-2023] Phù Kiên, tự Vĩnh Cố, là người dân tộc Đê, là vị vua thứ ba của nhà Tiền Tần thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều. “Tư trị thông giám” đánh giá Phù Kiên “rất hiếu thuận, từ nhỏ đã hiếu học và có chí lớn, bác […]

The post Hưng thịnh nhờ tích đức, thất bại vì thất đức: Câu chuyện của Tuyên Chiêu Đế Phù Kiên triều Tiền Tần first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Khởi Huệ

[MINH HUỆ 17-04-2023]

Phù Kiên, tự Vĩnh Cố, là người dân tộc Đê, là vị vua thứ ba của nhà Tiền Tần thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều. “Tư trị thông giám” đánh giá Phù Kiên “rất hiếu thuận, từ nhỏ đã hiếu học và có chí lớn, bác học đa tài”. Phù Kiên tin tưởng vững chắc vào Phật giáo và đức của bậc quân vương của Nho gia, trong thời gian trị vì của mình, ông đã thống nhất miền Bắc, khiến những người dân phải chịu đựng nỗi khổ chiến tranh đã nhiều năm được an cư lạc nghiệp trong khoảng hai mươi năm.

Giới thiệu sơ lược về thời Tiền Tần

Tiền Tần (350-394) là một trong Thập lục quốc. Vào cuối thời Tây Tấn, bộ tộc Đê ở Lược Dương đã phong cho quý tộc Phù Hồng làm thủ lĩnh của họ. Năm 350, Phù Hồng chiếm Quan Trung và tự xưng là Đại tướng quân, Đại Thiền Vu, Tam Tần Vương. Chẳng bao lâu sau, Phù Hồng bị đầu độc chết, con trai thứ ba là Phù Kiện thay mặt ông lên thống lĩnh.

Năm 351, Phù Kiện lập kinh đô ở Trường An, và tự xưng là Đại Tần Đại Vương và Đại Thiền Vu. Năm 352, ông đổi danh xưng là Hoàng đế, kinh đô là Trường An, và đặt tên nước là Tần.

Phù Kiện mất năm 355, con trai ông là Phù Sinh kế vị. Sau khi Phù Sinh lên ngôi, ông ta bạo ngược vô đạo, thường xuyên giết chết những bề tôi can gián bằng những cách tàn nhẫn. Năm 357, Phù Kiên, con trai của Phù Hùng – em trai của Phù Kiện, đã chấp nhận lời khuyên của các quan đại thần là “theo gương vua Thang của nhà Thương và vua Vũ Vương của nhà Chu, thuận theo lòng dân, thảo phạt Hạ Kiệt Vương và Thương Trụ Vương”, đã nổi dậy lật đổ Phù Sinh.

Sau khi thành công, Phù Kiên muốn nhường ngôi cho anh trai là Phù Pháp, nhưng Phù Pháp cho rằng, mình xuất thân thứ dân, không phù hợp. Phù Kiên sau khi được các quan đại thần thuyết phục đã lên ngôi. Bắt đầu từ năm 370, Tiền Tần đã tiêu diệt Tiền Yên, Tiền Lương và nước Đại, thống nhất phương Bắc.

Thuật ngữ “Tiền Tần” lần đầu tiên được nhìn thấy trong “Thập lục quốc Xuân thu”. Vì họ của hoàng gia là Phù nên còn được gọi là “Phù Tần”.

Chấn chỉnh xã hội và vỗ về bách tính

Lúc bấy giờ do chiến tranh, xã hội lâu ngày không có pháp trị, quý tộc và người giàu có áp bức nhân dân, nhiều quan tham tham nhũng, lợi dụng quyền lực để trục lợi, khiến sinh kế của người dân khốn cùng. Để khắc phục tình trạng hỗn loạn xã hội và vỗ về người dân, Phù Kiên một mặt đã yêu cầu 2 người là Kinh Triệu Doãn Vương Mãnh và Trung Thừa Đặng Khương điều tra và trừng phạt những quý tộc và phú hào, thậm chí ông còn trừng phạt một thành viên trong gia tộc của mình – kẻ muốn hãm hại Vương Mãnh, trước mặt tất cả các quan đại thần. Từ đó trở đi, các quý tộc hoàng thân và thế lực cường hào – những kẻ dùng quyền lực để ức hiếp dân chúng, không dám làm điều ác nữa.

Mặt khác, Phù Kiên sai quan khâm sai đi tuần tra khắp bốn phương đất nước, giúp đỡ người góa bụa, cô đơn, côi cút và người già, trừng phạt những quan lại dùng hình phạt bất công, khiến người dân chịu khổ, khen ngợi những người có đức hạnh tốt và căm ghét kẻ ác, người thúc đẩy việc trồng trọt, người có tài năng xuất chúng, người có lòng hiếu thảo và trung nghĩa. Phù Kiên còn thành lập Thính Tụng Quán, và xuống chiếu thông báo với mọi người dân rằng, nếu có oan sai, họ có thể đốt khói ở phía bắc kinh thành. Sau khi Phù Kiên trông thấy, ông sẽ đích thân đến Thính Tụng Quán để lắng nghe xử án, nhằm khuyến khích các quan chức tuân theo pháp luật, giảm thiểu việc xảy ra các vụ án oan.

Phù Kiên đã có thể đồng cảm nỗi đau khổ của người dân, và thúc đẩy nông nghiệp để nuôi dưỡng bách tính. Một năm nọ, có một đợt hạn hán nghiêm trọng, đời sống nhân dân điêu đứng, Phù Kiên đã làm gương bằng cách giảm bữa ăn, bãi bỏ ca hát, tặng hết vàng ngọc, gấm, đồ thêu cho tướng sĩ, đồng thời ra lệnh cho các phi tần hậu cung không được mặc tơ lụa đắt tiền, và độ dài của quần áo không được kéo lê trên mặt đất. Phù Kiên cũng tự mình làm ruộng, trong khi vợ ông là Cẩu Thị nuôi tằm ở ngoại ô. Đồng thời, triều đình mở cửa núi rừng, hồ nước để chia sẻ tài nguyên với người dân, ngừng chiến tranh để bách tính được nghỉ dưỡng. Ông đã phát triển thủy lợi, dẫn nước tưới cho đất nông nghiệp, nhờ đó mùa thu năm sau bội thu, rất nhiều người dân được hưởng lợi.

Tiếp nhận lời can gián sửa chữa lỗi lầm, đạo đức hưng thịnh

Phù Kiên đã có thể tiếp nhận lời can gián, tự kiểm điểm bản thân. “Tấn thư” có ghi lại, Phù Kiên từng đi săn ở dãy núi Tây Sơn ở Nghiệp Thành hơn mười ngày, vui thích không nghĩ tới quay về. Vương Lạc khuyên rằng: “Bệ hạ là cha mẹ của bách tính, là chỗ dựa của muôn dân. Nếu trong lúc đi săn xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn thì đất nước và Thái hậu sẽ ra sao?” Phù Kiên thừa nhận sai lầm của mình, từ đó không đi săn bắn nữa.

Ngoài ra, sau khi nhà Tiền Tần thống nhất phương Bắc, ngân khố quốc gia đầy ắp, Phù Kiên bất tri bất giác sống một cuộc sống xa hoa, cung điện, xe ngựa và đồ dùng của ông đều được trang trí bằng những báu vật quý hiếm. Thượng thư lang Bùi Nguyên Lược nói với Phù Kiên rằng: “Các triều đại Nghiêu, Thuấn và Chu đều tôn sùng tiết kiệm, thế nên ba triều đại đã được hưởng hòa bình và ổn định lâu dài. Thần hy vọng bệ hạ có thể coi thường vàng ngọc và từ bỏ báu vật, như thế mới có thể khiến dân chúng thuần hậu và không xa hoa.” Phù Kiên đã loại bỏ những thứ xa hoa, và Bùi Nguyên Lược còn được thăng chức vì việc này.

Sau khi thực hiện các chính sách nhân đức của Phù Kiên, người dân được an cư lạc nghiệp, đạo đức được đề cao, ngoài đường không nhặt đồ rơi, bách tính dùng ca dao truyền nhau hát rằng: “Trên đường phố lớn Trường An, hai bên trồng đầy cây dương và cây hòe, có xe ngựa quý tộc đi lại phía dưới, có kẻ sĩ hiền minh ở trên xe vào triều đình. Rất nhiều người trí trác việt tụ tập về đây để giáo hóa bách tính lê dân”.

Dùng đức quan tâm đến các vùng xa, các dân tộc hòa hợp

Phù Kiên cũng là một trong những người tiên phong hòa hợp các dân tộc trong lịch sử. Vào thời điểm đó, các dân tộc đang báo thù tàn sát lẫn nhau, Phù Kiên đã cố gắng hết sức dùng đức quan tâm đến các vùng xa xôi, để thúc đẩy sự hội nhập của các dân tộc. Khi đáp lại lời đề nghị của Phù Dung rằng nên loại bỏ gia tộc Mộ Dung Vĩ, hậu duệ của nước Tiền Yên, Phù Kiên nói:

“Việc tu dưỡng đạo đức của khanh vẫn còn chưa đủ, nên phán đoán thị phi không sáng suốt.”

“Kinh Thi nói: ‘Đức hạnh nhẹ như lông chim, nhưng ít ai nhấc nổi được’.”

“Khi đã ở địa vị cao thì phải cẩn thận không bị lật đổ. Ngày nay, chính sự quốc gia và bách tính đã yên định, nhưng vẫn cần phải nỗ lực. Người dân cần an dưỡng, các dân tộc cần hòa thuận, thì mới có thể hòa hợp tất cả các dân tộc thành một đại gia đình. Thuận theo Thiên Đạo thì sẽ thuận lợi, tu dưỡng đức hạnh thì có thể tiêu trừ được tai họa. Nếu chúng ta có thể tìm ra lỗi lầm từ chính mình, thì còn sợ gì họa hoạn bên ngoài?”

Phù Kiên thực hành đạo nhân nghĩa mà ông chủ trương. Một năm nọ, ông ra lệnh cho Lã Quang tiến hành một cuộc viễn chinh, xuất phát từ Trường An, khi tiễn Lã Quan đến cung Kiến Chương, ông nói với Lã Quang rằng: “Tây Nhung không phải là một đất nước có lễ nghĩa. Cách thu phục họ là hàng phục và xá tội cho họ, để thể hiện sự uy nghiêm và nhân từ của Trung Quốc; Cần dùng Vương pháp đễ dẫn dắt họ, nhất định không được dùng hết sức mạnh vũ lực, không được tàn hại cướp đoạt”. Năm đó, người Di ở tây nam Ích Châu, và các nước chư hầu ở Hải Nam đều chủ động sai sứ thần đến triều cống.

Ngoài ra, khi Phù Kiên chinh phục nước Đại của dân tộc Tiên Ti, con trai của Vua nước Đại Thác Bạt Thác Nhất Kiền là Dực Khuê đã trói cha mình và xin đầu hàng, sau đó Phù Kiên không hề làm hại gì đến gia tộc Thác Bạt. Ông cho rằng hành vi của Dực Khuê là bất hiếu nên đày anh ta đến đất Thục. Ông cho rằng Thác Nhất Kiền không biết lễ nghi và nhân nghĩa, nên đã yêu cầu ông ta học lễ nghi ở Thái học.

Một lần khác, Tả Hiền Vương Vệ Thần của Hung Nô cử sứ giả đến Phù Kiên quy hàng, yêu cầu được sống và làm trang trại trong nội địa, Phù Kiên đã đồng ý. Nhưng sau đó, Vân Trung Hộ Quân là Giả Ung phái kỵ binh đến tấn công và cướp bóc họ. Phù Kiên tức giận nói: “Ta đang muốn thi hành chính sách Ngụy Hàng hòa Nhung, không thể vì lợi nhỏ mà quên đại tín. Oán hận không kể lớn, sự tình không kể nhỏ, việc huy động quân đội và dân chúng không phải là phúc lành cho đất nước. Tất cả tài sản cướp được phải được trả lại.” Thế là Giả Ung đã bị cách chức quan, và được phép làm Hộ Quân với tư cách là một thường dân. Ông cũng cử sứ giả đi tìm kiếm hòa bình với người Hung Nô, để chứng tỏ sự tín nghĩa của triều đình. Sau đó, Vệ Thần dẫn bộ tộc của mình đến Trung Nguyên sinh sống và tiếp tục triều cống.

Trái nghịch Trời, trái đạo đức, thất bại ở Phì Thủy

Sau khi Phù Kiên thống nhất phương Bắc, ông luôn mong muốn thống nhất thiên hạ. Tuy nhiên, vào thời Đông Tấn lúc bấy giờ, triều Đông Tấn có những nhân tài như Hoàn Xung, Tạ An, quân vương cùng các quan lại hòa thuận, dân chúng không chống đối nhà Tấn, nên không có chính danh xuất quân chinh phạt.

Vương Mãnh, thừa tướng người Hán mà Phù Kiên tin tưởng nhất, trước khi qua đời đã nói với Phù Kiên rằng: “Mặc dù triều đại Đông Tấn được thành lập ở vùng Ngô – Việt xa xôi, nhưng nó đã kế thừa tính chính thống. Điều đất nước cần nhất bây giờ là gần gũi với những người nhân đức, và thân thiện với các nước láng giềng. Sau khi thần chết, thần hy vọng bệ hạ sẽ không có mưu đồ với nhà Đông Tấn.” Phù Dung, người em tài năng nhất của Phù Kiên, cũng cho rằng đất nước đã trải qua nhiều trận chiến, quân tướng mệt mỏi, nên việc dẫn quân chính phạt là không thích hợp.

Tuy nhiên, vào năm 383, Đại Vương Phù Kiên của triều Tiền Tần đã đích thân dẫn 270.000 kỵ binh và 600.000 bộ binh tiến về phía nam, mở cuộc tổng tấn công vào nhà Đông Tấn. Tháng 11 cùng năm, quân Tần bị 5000 binh mã của Đông Tấn đột kích và bị đánh bại. Quân Tấn lợi dụng thắng lợi tiến về phía tây, quân Tấn và quân Tần đối đầu nhau tại Phì Thủy. Trận chiến này kết thúc với sự sụp đổ của quân Tần.

Sau trận Phì Thủy, các dân tộc khác vốn quy phục nhà Tiền Tần, đã tận dụng cơ hội để giành độc lập. Bộ Tướng của Phù Kiên là Diêu Trường của nước Khương cổ đại đã thành lập triều Hậu Tần trong thời kỳ hỗn loạn. Năm 385, Phù Kiên bị một tướng phản loạn bắt giữ. Ông bác bỏ việc Diêu Trường du thuyết nhường ngôi, lên án gay gắt sự phản bội của Diêu Trường. Trước khi bị Diêu Trường treo cổ, ông đã chỉnh sửa trang phục và lễ Phật trong ngôi chùa Phật giáo nơi ông bị giam giữ, rồi yên lành đón nhận cái chết.

Lời kết

Phù Kiên nổi lên nhờ thuận Thiên tích đức, lật đổ Phù Sinh bạo ngược vô đạo, đồng thời nỗ lực thực hiện nền chính trị đạo đức nhân nghĩa. Tuy nhiên, ông làm việc tốt không kiên trì đến cuối cùng, không có chính danh nhưng ông vẫn nhất quyết dốc toàn bộ sức lực của đất nước để chinh phục Đông Tấn, cuối cùng, ông thất bại và chết vì trái nghịch Trời, trái đạo đức.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/4/17/458848.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/5/29/209615.html

Đăng ngày 26-02-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Hưng thịnh nhờ tích đức, thất bại vì thất đức: Câu chuyện của Tuyên Chiêu Đế Phù Kiên triều Tiền Tần first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Tứ đức của phụ nữ triển hiện trong Kinh Thihttps://vn.minghui.org/news/258605-tu-duc-cua-phu-nu-trien-hien-trong-kinh-thi.htmlWed, 10 Jan 2024 12:01:37 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=258605[MINH HUỆ 28-11-2023] Kinh Thi là một bộ tuyển tập thơ ca đầu tiên của Trung Quốc, tên ban đầu là Thi, hoặc Thi Tam Bách (300 bài thơ), sau này trở thành một trong những kinh điển của Nho gia, được gọi là Kinh Thi. Nó thu thập […]

The post Tứ đức của phụ nữ triển hiện trong Kinh Thi first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Lý Nhu Di

[MINH HUỆ 28-11-2023]

Kinh Thi là một bộ tuyển tập thơ ca đầu tiên của Trung Quốc, tên ban đầu là Thi, hoặc Thi Tam Bách (300 bài thơ), sau này trở thành một trong những kinh điển của Nho gia, được gọi là Kinh Thi. Nó thu thập hơn 300 bài thơ từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, phản ánh cuộc sống của mọi người từ 3.000 năm đến 2.500 năm trước đây. Nó bao gồm thiên văn địa lý, chính trị kinh tế, tế tự điển lễ, cầu nguyện chúc nguyện, kết bạn chọn bạn đời, hôn nhân cưới xin, thuận thời dưỡng sinh v.v.

Bài thơ Đào Yêu trong Kinh Thi là một trong những bài thơ ca ngợi cô gái xuất giá. Bài thơ gồm 3 phần, 48 chữ đã bao gồm rất nhiều thứ như Tứ đức của phụ nữ (phụ ngôn, phụ đức, phụ dung, phụ công…)

Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia (1)
Đào chi yêu yêu, hữu phần kỳ thực. Chi tử vu quy, nghi kỳ gia thất.
Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn. Chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân.

Tạm dịch:

Đào tơ xinh tươi, rực rỡ đầy hoa. Nàng đi lấy chồng, cửa nhà hòa hợp.
Đào tơ xinh tươi, trái đào xum xuê. Nàng đi lấy chồng, gia đình hòa hợp.
Đào tơ xinh tươi, lá đào xanh um. Nàng đi lấy chồng, người nhà hòa hợp.

“Đào tơ xinh tươi, rực rỡ đầy hoa. Nàng đi lấy chồng, cửa nhà hòa hợp”. Thi nhân dùng hoa đào để ví cô gái dung mạo xinh tươi, cưới cô gái như thế này về, quả là hợp với gia đình anh ấy biết nhường nào!

Ngươi xưa lựa chọn mùa xuân để cưới hỏi, là căn cứ vào ngũ hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, trong đó hành Mộc đối ứng với mùa xuân, can khí (khí gan) trong thân thể con người bắt đầu thăng lên, ứng với Nhân trong Ngũ đức. Mùa xuân vạn vật bắt đầu manh nha sinh trưởng, nông dân mùa xuân cày bừa gieo giống, nhân loại sinh sôi đời sau, hợp với trời đất vạn vật.

“Đào tơ xinh tươi, trái đào xum xuê. Nàng đi lấy chồng, gia đình hòa hợp”. Cây đào xanh tốt, quả xum xuê. Cưới cô gái có đạo đức cao thượng về nhà, quả là hợp với gia đình anh ấy biết nhường nào! Nhà thơ dùng trái đào để ca ngợi phụ đức của cô gái.

Mùa hạ chia thành hạ và trường hạ, ngũ hành thuộc Hỏa và Thổ, dương khí của trời đất cường thịnh, thực vật nở hoa kết trái, vạn vật sinh trưởng tốt tươi, khí thế thịnh vượng. Mùa hạ, tâm khí trong cơ thể con người hưng thịnh, vô tư, ứng với Lễ trong Ngũ đức. Trường hạ, vị khí trong cơ thể con người cường thịnh, ứng với Tín trong Ngũ đức.

“Hậu Hán thư – Liệt nữ truyện – Tào thế thúc thê” có viết rằng: “Thanh nhàn trinh tĩnh, thủ tiết chỉnh tề, hành kỷ hữu sỉ, động tĩnh hữu pháp, thị vị phụ đức”, nghĩa là: “Trang nhã thanh khiết, trung trinh yên tĩnh, tiết tháo gọn gàng, hành vi có quy củ, biết liêm sỉ, hành động hay lặng yên đều có phép tắc, đó gọi là phụ đức”.

Cô gái này hành xử theo lễ, coi trọng tín nghĩa, có lòng nhân ái, hiếu kính với người già, giúp chồng giáo dục con, con cháu tương lai giống như những trái đào xum xuê.

“Đào tơ xinh tươi, lá đào xanh um. Nàng đi lấy chồng, người nhà hòa hợp”. Cây đào xanh tươi tốt đẹp nhường nào, cành lá um tùm. Cô gái như thế này xuất giá, quả là hợp với gia đình anh ấy biết nhường nào!

Thi nhân dùng “lá đào xanh um” để hình dung đức của cô gái lớn đến mức có thể chở che cho người nhà của cô cho đến cả quốc gia.

Triều Chu 800 năm, vợ của Thái Vương là Thái Khương, vợ của Quý Lịch là Thái Nhâm, vợ của Văn Vương là Thái Tự, 3 thế hệ bà cháu dâu này đều dùng đức giáo hóa thiên hạ, đều được phụ nữ trong thiên hạ noi theo.

Thái Khương là phu nhân của Thái Vương – Thái Tổ triều Chu, là mẫu thân của Quý Lịch, là con gái của Đài thị đất Hữu. Thái Khương đoan trang xinh đẹp, tính tình trung trinh, yên tĩnh, nhu mì hòa thuận, dùng đức giáo hóa rộng khắp. Thái Vương mưu sự di chuyển, ắt đều bàn bạc với bà. Thái Khương sinh ra 3 con trai là Thái Bá, Trọng Ung và Vương Quý. Thái Vương dự định truyền ngôi cho con trai của Vương Quý là Cơ Xương, tức Chu Văn Vương. Hai anh em Thái Bá và Trọng Ung cùng nhau bỏ trốn vào vùng đất người man di là Kinh Man, cắt tóc xăm mình, cả đời không trở về, để nhường ngôi vị cho Quý Lịch, Quý Lịch truyền ngôi cho Cơ Xương, tức Chu Văn Vương.

Thái Nhâm là con dâu của Thái Khương, là vợ của Quý Lịch, là con gái thứ 2 của Nhâm thị đất Chí, là mẫu thân của Chu Văn Vương. Thái Nhâm tính tình đoan trang nghiêm cẩn, trang trọng thành kính, hành sự tuân theo đạo đức. Khi mang thai, Thái Nhâm thực hiện thai giáo, mắt không nhìn thứ xấu, tai không nghe âm thanh thái quá, miệng không nói lời cao ngạo. Sau khi chào đời, Văn Vương thông tuệ thánh minh, dạy một biết trăm, và sau này đã kiến lập nên triều Chu.

“Hoàng Đế nội kinh” giảng rằng, can, tâm, tỳ, phế, thận trong thân thể con người đối ứng với Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy trong Ngũ hành. Ngũ hành đối ứng với Ngũ đức theo thứ tự là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Phụ nữ trong thời gian mang thai thường cảm nhận Ngũ đức, thế thì em bé tương lai sẽ trở thành người đại thiện đại trí.

Trong tình huống bình thường, phụ nữ có thai, không được nằm nghiêng, không được ngồi mép chiếu (ghế), không được đứng chắn lối đi, không ăn những thức ăn lạ. Thức ăn cắt thái không ngay ngắn không ăn, chiếu trải không ngay ngắn không ngồi, mắt không nhìn những vật tà, tai không nghe âm thái quá. Buổi tối, để các nhạc quan ngâm đọc thơ, kể chuyện ngay chính. Có đủ những phụ đức này, thì đứa trẻ phẩm mạo đoan trang, tài đức hơn người mới giáng sinh ở vị phụ nữ này.

Thái Tự là vợ của Văn Vương. Bài thơ Quan Thư trong Kinh Thi có câu rằng: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu…”

Bản dịch của Tản Đà:

Quan quan cái con thư cưu,
Con sống con mái cùng nhau bãi ngoài.
Dịu dàng thục nữ như ai,
Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng.

Bài thơ này kể chuyện xưa Văn Vương bên bờ sông Vị vô tình gặp Thái Tự, sinh lòng ái mộ, làm thuyền bắc cầu, đích thân nghênh đón Thái Tự. Thái Tự là họ Tân đất Hữu, hậu duệ của vua Đại Vũ. Thái Tự đôn hậu ôn nhu, ngưỡng mộ phụ đức của bà nội Thái Khương và mẹ chồng Thái Nhâm, dùng đức để giáo hóa thiên hạ, được mọi người tôn xưng là Văn Mẫu. Văn Vương quản lý bên ngoài (triều chính), Văn Mẫu quản lý bên trong (hậu cung, gia đình). 10 người con trai do Thái Tự sinh ra, dưới sự dạy bảo của Thái Tự, từ con út đến con trưởng, từ nhỏ đến lớn, chưa từng thấy có chuyện sai trái tà vạy.

Tương truyền, từ “Thái thái” (bà, quý bà, sau chỉ vợ) có nguồn gốc từ “Tam Thái” của triều Chu là Thái Khương, Thái Nhâm và Thái Tự. Người đời sau tôn xưng vợ mình là Thái thái, ý nghĩa ban đầu là hy vọng thê tử của mình có hiền đức của Tam Thái.

Chú giải:

(1). Thất gia, “Tập truyện” có ghi chép rằng: “Thất là nơi cư trú của vợ chồng, Gia là trong một cổng (một nhà)”.

Chính nghĩa: “Tả truyện – Hoàng 18 niên” có viết: “Nữ có Nhà, nam có Thất”. Thất gia là nói về vợ chồng vậy. Ở đây là chỉ nhà người mà cô gái được gả đến, có ý nghĩa gần nhưng có chút khác với những từ bên dưới là Gia Thất, Gia Nhân.

Tư liệu tham khảo:

  • “Thi kinh – Chu nam – Đào yêu”
  • “Hoàng Đế nội kinh – Tố vấn – Tứ khí điều thần đại luận thiên đệ nhị”.
  • “Liệt nữ truyện – Chu thất tam mẫu”.

Bản quyền ©2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/11/28/468574.html

Đăng ngày 10-01-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Tứ đức của phụ nữ triển hiện trong Kinh Thi first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Dùng trí tuệ của người tu luyện đối xử với những nhân vật lịch sửhttps://vn.minghui.org/news/258580-dung-tri-tue-cua-nguoi-tu-luyen-doi-xu-voi-nhung-nhan-vat-lich-su.htmlTue, 09 Jan 2024 09:44:01 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=258580[MINH HUỆ 30-11-2023] Trong “Chuyển Pháp Luân”, Sư phụ giảng: “Hôm rồi tôi đã giảng một câu, rằng những gì phát sinh, phát minh và phát hiện nơi nhân loại chúng ta hôm nay đã đủ để cải biến sách giáo khoa hiện nay của chúng ta rồi. Nhưng do ảnh hưởng của quan niệm […]

The post Dùng trí tuệ của người tu luyện đối xử với những nhân vật lịch sử first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 30-11-2023]

Trong “Chuyển Pháp Luân”, Sư phụ giảng:

“Hôm rồi tôi đã giảng một câu, rằng những gì phát sinh, phát minh và phát hiện nơi nhân loại chúng ta hôm nay đã đủ để cải biến sách giáo khoa hiện nay của chúng ta rồi. Nhưng do ảnh hưởng của quan niệm truyền thống, người ta không muốn thừa nhận nó, và cũng chưa có ai chỉnh lý một cách có hệ thống những điều ấy.” (Bài giảng thứ tám, Chuyển Pháp Luân)

Từ đoạn giảng Pháp này của Sư phụ, tôi thể hội rằng, tôi bước trên con đường tu luyện cho đến ngày nay, tất cả những quan niệm đều là những quan niệm truyền thống sau khi con người đã đi lệch lạc, hoặc bị dẫn dắt lệch lạc, tức là những quan niệm cản trở con người nhận thức những pháp lý của vũ trụ mới.

Cách đây vài năm tôi có một giấc mơ, trong giấc mơ chỉ có một cảnh tượng là Cầu Mười Bảy Vòm.

Chúng ta biết rằng, sự tình là không có ngẫu nhiên. Sau đó, tôi tra cứu trên Internet và biết rằng Cầu Mười Bảy Vòm nằm trong vườn Thanh Y. Vườn Thanh Y do Hoàng đế Càn Long quyết định xây dựng.

Sau này, trong quá trình tu luyện và làm ba việc, tôi dần dần có được những nhận thức khác so với trước đây về cuộc đời của Hoàng đế Càn Long, có thể nói cách hiểu này đã phá bỏ quan niệm trước đó – quan niệm truyền thống có nhiều hạn chế lớn. Đối với đoạn Pháp của Sư phụ: “Nhưng do ảnh hưởng của quan niệm truyền thống, người ta không muốn thừa nhận nó, và cũng chưa có ai chỉnh lý một cách có hệ thống những điều ấy” (Bài giảng thứ tám, Chuyển Pháp Luân), tôi cũng có lý giải khác với trước đây. Bây giờ tôi muốn viết ra và chia sẻ với mọi người.

Trong cuộc đời, Hoàng đế Càn Long đã làm rất nhiều việc, từ những việc nổi bật nhất trong đó, tôi nhận ra rằng, Hoàng đế Càn Long là một vị quân vương hiền minh xuất sắc, hơn nữa còn có trí tuệ rất cao. Gần đây, qua những việc lớn lao mà ông ấy đã làm, tôi nhận thấy rằng, cuộc đời của ông ấy là một cuộc đời tu luyện, và những việc ông ấy làm chính là thực hiện sứ mệnh của mình.

Từ mấy sự kiện dưới đây, chúng ta xem xem có phải là như thế hay không.

Năm 1793, sứ thần Anh đến thăm Trung Quốc và đưa ra nhiều đề xuất, trong đó có việc mở cửa các cảng thông thương, truyền đạo, v.v. Hoàng đế Càn Long đều bác bỏ tất cả. Tại sao lại thế? Đó là để bảo vệ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, và bảo vệ đạo đức của người dân Trung Quốc.

Muốn làm rõ vấn đề này, thì không thể nói từ một khía cạnh, mà cần phải từ nhiều khía cạnh. Và chúng ta không thể chỉ nhìn vào hiện tượng vật chất của vấn đề này, mà còn nhìn vào nguyên nhân và nhân quả. Nếu nhìn từ cấp độ yếu tố, đặc tính, cơ chế, thì câu trả lời chúng ta nhận được sẽ phù hợp với chân lý của vũ trụ. Hiện nay tôi không có khả năng này, vì tôi chưa có đạo hạnh này.

Dù chưa có tư cách đạo hạnh này nhưng tôi thấy người Anh lúc đó hoàn toàn suy xét từ góc độ coi trọng lợi ích kinh tế của mình, là vị tư, muốn xuất khẩu nền văn hóa của mình sang Trung Quốc. Hoàng đế Càn Long đã đi theo con đường do Thần chỉ dẫn. Sứ mệnh và trách nhiệm của ông rất lớn: Bảo vệ đạo đức nhân loại, kết duyên với các đại biểu từ mọi phương ở trên Thiên thượng tới, để lại tinh hoa của nền văn minh 5 nghìn năm (Tứ khố toàn thư) cho ngày nay – thời kỳ lịch sử này, và để lại “Vườn Thanh Y”, “Vạn Phật lâu”… – những ví dụ tham chiếu cho nhân loại trên con đường phản bổn quy chân.

“Vườn Thanh Y” là khu vườn hoàng gia tuyệt đẹp được Hoàng đế Càn Long xây dựng hoàn toàn theo ý tưởng của chính ông. Toàn bộ cấu trúc và cách bố trí của khu vườn (tất cả đều do đích thân ông thiết kế, chứa đựng những bí ẩn sâu sắc trong đó) là sự thể hiện trí tuệ của ông.

Cách giải Kinh và Thi của Hoàng đế Càn Long khi ông mới 12 tuổi đã khiến Hoàng đế Khang Hy vô cùng kinh ngạc và vui mừng, điều này cho thấy nền tảng sâu sắc của ông trong văn hóa Nho gia. Càn Long lên ngôi hoàng đế ở tuổi 25, và có những biện pháp đúng đắn xử lý công việc quốc gia. Ông không chỉ có nền tảng văn hóa Nho gia tốt, mà còn có một nguyên nhân quan trọng khác, đó là Hoàng đế Càn Long rất thành tâm tín Phật, ông có một vị thầy rất cao cấp, vị Phật sống Chương Gia (Changkya) đời thứ 3 của Hoàng giáo (Mật Tông).

Có thể thấy sự sùng kính của Hoàng đế Càn Long đối với Phật qua một ví dụ. Vào năm Càn Long thứ chín, Phật sống Chương Gia đề nghị Hoàng đế Càn Long sửa Cung điện Ung Hòa thành một ngôi chùa. Hoàng đế Càn Long chấp nhận lời đề nghị này, và cho dựng một bức tượng Đại Phật tạc từ gỗ đàn hương trắng ở trong Ung Hòa Cung. Sự uy nghi và Pháp lực của Phật Pháp thể hiện qua bức tượng Đại Phật trong thời ‘Phá Tứ Cựu’ khiến người ta sau đó không còn có ác niệm dám động đến tượng Đại Phật nữa.

Vào năm Càn Long thứ sáu (khi Càn Long ba mươi mốt tuổi), ông đã đề xuất sưu tầm sách cho “Tứ khố toàn thư”, điều này cho thấy Hoàng đế Càn Long không chỉ hiểu lễ nghi, mà còn có trí tuệ uyên bác, chỉ là cảnh giới tư tưởng và quan niệm của các đại thần không theo kịp, không để tâm, nên sự việc đã kéo dài hai mươi năm rồi.

Khi Hoàng đế Càn Long bốn mươi tuổi, ông quyết định xây dựng vườn Thanh Y để chúc thọ mẫu thân và tổ chức lễ kỷ niệm. Bởi vì sáu năm trước ông đã nói rằng ông sẽ không xây vườn nữa, nên một số người cố thủ quan niệm truyền thống, cho rằng Càn Long lấy việc tổ chức sinh nhật của mẫu thân làm vỏ bọc cho việc xây dựng vườn Thanh Y. Bởi vì trong quan niệm của một số người, vườn thượng uyển được coi là ly cung của hoàng gia, cho rằng việc xây dựng vườn thượng uyển là một điều xa xỉ, và là việc thích hoành tráng, thích công tích.

Thực ra đó không phải là việc như thế. Hoàng đế Càn Long đã xây dựng Vườn Thanh Y để đặt nền tảng lịch sử và văn hóa cho sự cứu rỗi nhân loại ngày nay, và để lại tham chiếu cho các đệ tử Đại Pháp chân chính ngày nay. Nhiều người đã nói “Càn Long” có nghĩa là “Thiên Đạo xương long”.

Mẫu thân của Hoàng đế Càn Long cũng là một người thành kính tín Phật, bà tận hưởng mọi vinh hoa phú quý trong cuộc đời, điều này liên quan rất nhiều đến niềm tin chân thành và sự tôn kính của bà đối với Phật. Nhìn vào tư liệu lịch sử, hoạt động chính trong lễ mừng thọ 60 tuổi của bà là kính Phật. Cùng với Hoàng đế Càn Long, bà đã dẫn dắt toàn thể hoàng thất và thần dân đến lễ bái Phật trong buổi lễ hoành tráng và trang trọng nhất.

Xin nói thêm ở đây rằng, Vườn Thanh Y do Hoàng đế Càn Long xây dựng không phải là ly cung của hoàng gia, cũng không phải là nơi hoàng đế ở hay làm việc. Bề ngoài, vườn Thanh Y được xây dựng để thể hiện lòng hiếu thảo, nhưng ý nghĩa thực sự của nó là giáo dục thế hệ tương lai, làm người con hiếu thảo phải học “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”; cũng phải kính Trời kính Thần, vì con người là do Thần tạo ra, nếu không con người sẽ phải chịu đau khổ. Đây là kho báu ông để lại cho thế hệ tương lai thanh lọc tâm hồn, vì công trình chính của Vườn Thanh Y là chùa Đại Báo Ân Diên Thọ, nên ý nghĩa to lớn của Vườn Thanh Y nằm ở đây.

Về quan tham Hòa Thân là do nguyên lý tương sinh tương khắc trong quy luật thành trụ hoại diệt, giống như có quan thanh liêm Tôn Gia Can, thì cũng phải có quan tham Hòa Thân. Nếu suy nghĩ một cách nghiêm túc, nếu không có “Tứ khố toàn thư”, ngày nay có bao nhiêu người thực sự hiểu được lòng nhân từ của quân vương, lòng trung thành của bề tôi, lòng nhân từ của người cha, và lòng hiếu thảo của người con?

Người ta chỉ trích những điều Hoàng đế Càn Long làm trong những năm cuối đời, vì lý của con người là phản lý, những quan niệm mà họ hình thành cũng là phản lý khi đo lường bằng chân lý của vũ trụ, tất nhiên họ không thể hiểu được những điều mà Hoàng đế Càn Long đã làm vào nửa sau cuộc đời ông.

Vì vậy, chỉ có tự mình tu xuất lòng từ bi mới có thể hiểu được những biểu hiện chân thực của các nhân vật lịch sử.

Bài viết này là nhận thức ở tầng thứ hiện tại của tôi, nếu có gì sai sót, rất mong được phê bình và chỉ bảo.

[Ghi chú của biên tập viên: Bài viết này thể hiện nhận thức cá nhân tác giả trong trạng tu luyện hiện tại, muốn cùng các đồng tu thảo luận và “tỷ học tỷ tu”]

Bản quyền ©2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/11/29/468741.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/12/25/213477.html

Đăng ngày 09-01-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Dùng trí tuệ của người tu luyện đối xử với những nhân vật lịch sử first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Khảo cứu cổ kim về “Bạch nhật phi thăng” (Phần 4)https://vn.minghui.org/news/257196-khao-cuu-co-kim-ve-bach-nhat-phi-thang-4.htmlTue, 26 Dec 2023 09:40:35 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=257196[MINH HUỆ 22-09-2023] Có rất nhiều ghi chép trong các tư liệu phương Đông và phương Tây về “bạch nhật phi thăng”, lơ lửng, bay lên. Ví dụ, trong các thầy Yoga, ẩn sĩ và người tu hành ở Ấn Độ, có nhiều người có thể bay lơ lửng […]

The post Khảo cứu cổ kim về “Bạch nhật phi thăng” (Phần 4) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Văn Tư Duệ

[MINH HUỆ 22-09-2023] Có rất nhiều ghi chép trong các tư liệu phương Đông và phương Tây về “bạch nhật phi thăng”, lơ lửng, bay lên. Ví dụ, trong các thầy Yoga, ẩn sĩ và người tu hành ở Ấn Độ, có nhiều người có thể bay lơ lửng trên không; Trong lịch sử phương Tây cũng có ghi chép về những “tu sĩ bay”. Các dân tộc và khu vực phổ biến kính Phật, tu Phật, đều không bài xích loại hiện tượng huyền bí này. Có rất nhiều ghi chép của những nhân chứng cổ kim Đông Tây về hiện tượng này, sau đây là một số ví dụ:

(Tiếp theo Phần 3)

3. Hiện tượng bay lên trong lúc tu luyện của các học viên Pháp Luân Công

Vào những năm 1980, cơn sốt khí công nổi lên ở Trung Quốc, có rất nhiều khí công sư đã tiến hành các thí nghiệm như “ban vận công”. Trên thực tế, trong một số trường hợp chưa được công bố, một số khí công sư đã từng biểu diễn các công năng phi thường như: đứng trên mặt đất, và trong nháy mắt lên tới ngọn cây cao ở bên cạnh.

Từ những năm 1980 đến những năm 1990, khi cơn sốt khí công qua đi, Pháp Luân Công nổi bật và chính thức được truyền bá vào năm 1992. Pháp Luân Công dựa trên nguyên tắc cơ bản “Chân, Thiện, Nhẫn”, và có năm bộ động tác nhẹ nhàng chậm rãi, có tác dụng thần kỳ trong việc chữa bệnh khỏe người, lan rộng khắp Trung Quốc chỉ trong vài năm. Đến năm 1998, theo báo cáo của các phương tiện truyền thông chính thức, số lượng người tu luyện đã lên tới gần 100 triệu người.

Minghui.org là trang web thông tin trực tiếp ghi lại quá trình tu luyện của các học viên Pháp Luân Công, ghi chép lại những khổ nạn và những tâm đắc tu luyện mà các học viên Pháp Luân Công đã trải qua trong hơn 20 năm qua. Trong số các học viên Pháp Luân Công, vô số người xuất hiện hiện tượng “bay lên”. Sử dụng từ khóa “Tu luyện Pháp Luân Công bay lên”, tìm kiếm trên trang web Minh Huệ cho thấy 241 kết quả, đây là một vài ví dụ:

3.1 “Những điều kỳ diệu đã xảy ra với người thân của chúng tôi”

Ngày 12 tháng 6 năm 2023.

Tôi bắt đầu luyện công, trong lúc đả tọa, Sư phụ đã tịnh hóa thân thể cho tôi, quán đỉnh cho tôi, quán từ đầu đến chân, toàn thân tôi nóng lên. Khi đó, mọi bệnh tật trong cơ thể tôi gần như biến mất. Khi đả tọa, cơ thể tôi bắt đầu nâng lên, chính là bay lên, tôi cảm thấy như mình đang bay lên, giống như được đề cập trong “Chuyển Pháp Luân” nói về thông chu thiên vậy.

3.2 “Con đường tu luyện trong mưa gió, Phật chiếu sáng gia đình tôi”

Ngày 15 tháng 2 năm 2023

Tôi chỉ ngồi song bàn được nửa tiếng, và điều kỳ diệu đã xảy ra khi tôi về đến nhà. Buổi tối, tôi vừa đắp chăn muốn nằm, nhưng cả chăn cũng bị nhấc lên, từ trên giường lên trần nhà, nhiều lần lặp lại lên xuống như vậy. Bởi vì tôi vừa mới đắc Pháp nên tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, tôi sợ đến toát mồ hôi. Sau này, khi tôi hỏi các đồng tu đã đắc Pháp sớm, họ nói rằng đó là điều tốt, bạn có căn cơ tốt, đại chu thiên đã thông rồi, và Sư phụ đang khuyến khích bạn tinh tấn tiến về phía trước.

3.3 “Trân quý cơ duyên, làm tốt ba việc”

Ngày 23 tháng 1 năm 2023

Một đêm nọ, khi đi ngủ, tôi cảm thấy như cơ thể mình như nối thông với nguồn điện, năng lượng mạnh mẽ đang chảy trong cơ thể, toàn bộ thân thể đều đang chấn động, rồi sau đó liền bay lên, có cảm giác cao hơn một thước. Tôi có chút phấn khích nhưng cũng có chút sợ hãi, hễ sợ hãi là rơi xuống. Quả thực là không thể tin được! Tôi mới tu luyện được một năm hai tháng, không thể tin được mình lại có thể bay lên nhanh đến vậy.

Họ đều là những học viên Pháp Luân Công bình thường, bao gồm nông dân, giáo viên, công nhân, giáo sư, quan chức, người già, thanh niên và trẻ em. Khi họ bước vào Pháp Luân Đại Pháp Chân-Thiện-Nhẫn, một số lượng đáng kể người đã xuất hiện các kỳ tích dưới nhiều hình thức khác nhau. Có người bay lên, có người khai thiên mục, túc mệnh thông. Trong thời mạt thế mà thói đời sa sút hàng ngày, thuyết vô Thần, thuyết tiến hóa đang thịnh hành, đạo đức đang suy thoái nhanh chóng, Chân-Thiện-Nhẫn mang đến một dòng suối mát lành và niềm hy vọng bất diệt cho thế giới.

Lời kết

Về bí ẩn của cơ thể con người bay lên, trong “Chuyển Pháp Luân”, tác phẩm chính của Pháp Luân Công, đã có luận thuật rõ ràng. Tất nhiên, không phải ai cũng có thể bay lên, điều này liên quan đến nhiều bí mật tu luyện hơn nữa. Vì nó nằm ngoài phạm vi của bài viết này nên chúng tôi không luận thuật sâu thêm.

Từ năm 1992 đến nay, “Chuyển Pháp Luân” đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được người dân thuộc mọi dân tộc yêu thích. Nhiều sự thật chứng minh rằng không có cường quyền hay sự tàn ác nào có thể ngăn cản mọi người tin tưởng và thực hành Chân-Thiện-Nhẫn.

(Hết)

Bản quyền © 2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/9/22/465108.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/11/20/212998.html

Đăng ngày 26-12-2023; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Khảo cứu cổ kim về “Bạch nhật phi thăng” (Phần 4) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Rối lượng tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 2)https://vn.minghui.org/news/257189-roi-luong-tu-y-thuc-bien-doi-vat-chat-2.htmlTue, 26 Dec 2023 09:38:35 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=257189[MINH HUỆ 15-10-2023] Hai “Thái cực đồ” Ngày 14 tháng 8 năm 2023, các nhà khoa học đã xuất bản bài viết có tiêu đề “Hình ảnh giao thoa của biên độ và pha của trạng thái photon đôi trong không gian” (Interferometric imaging of amplitude and […]

The post Rối lượng tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Văn Tư Duệ

Tiếp theo Phần 1

[MINH HUỆ 15-10-2023]

Hai “Thái cực đồ”

Ngày 14 tháng 8 năm 2023, các nhà khoa học đã xuất bản bài viết có tiêu đề “Hình ảnh giao thoa của biên độ và pha của trạng thái photon đôi trong không gian” (Interferometric imaging of amplitude and phase of spatial biphoton states) trên Tạp chí “Nature Photonics”. Hai hạt photon sau khi được chụp bằng máy ảnh có độ chính xác ở mức nano giây, họ đã vẽ ra hình 3D, phát hiện khi hai hạt photon rối lượng tử trông như đồ hình thái cực khiến người ta phải thán phục. [4]

2023-10-11-073946-0.jpg

Hình ảnh giả lập của hai photon rối lượng tử (Nguồn ảnh: Nature Photonics、Zia)

Đây không phải là hiện tượng độc nhất vô nhị. Chúng ta hãy quay về trước những thập niên 80. Bohr vẫn luôn dành sự quan tâm lớn đến văn hóa phương Đông. Sau khi nêu ra “Nguyên lý bổ sung” của vật lý lượng tử, năm 1937, ông đã sang thăm Trung Quốc, khái niệm lưỡng cực đối lập của Trung Quốc cổ đại đã khiến ông ấn tượng sâu sắc. Mười năm sau, ông đã được Vua Đan Mạch, Frederick IX phong tước Hiệp sỹ vì những cống hiến kiệt xuất cho văn hóa Đan Mạch; vinh diệu này thường chỉ được trao cho hoàng gia và nguyên thủ quốc gia. Khi phải chọn một biểu tượng thích hợp làm huy hiệu trên lễ phục của mình, ông đã chọn đồ hình “Thái cực” của Trung Quốc, tượng trưng cho quan hệ đối lập mà bổ sung của hai cực âm dương, đồng thời đề chữ cho đồ hình này là “Các mặt đối lập là bổ sung cho nhau” (Contraia sunt complementsa). Điều này cho thấy ông cũng tán đồng rằng giữa trí huệ cổ xưa của phương Đông và vật lý học của Tây phương có sự tương đồng sâu sắc. [5]

2023-10-11-073946-1--ss.jpg

Đồ hình thái cực trên lễ phục của Bohr

Theo phát hiện khảo cổ học, đồ hình thái cực đã xuất hiện từ ít nhất 7.000 năm trước, là văn hóa tiền sử di lưu lại. “Âm Dương” trên đồ hình thái cực vừa đối lập mà lại thống nhất, hình thành một chỉnh thể, Trung Quốc cổ đại xưa nay vốn có cách nói “Một âm một dương gọi là đạo”, trong học thuyết âm dương ngũ hành của Đạo gia, cũng có lý “tương sinh tương khắc”.

Vật lý lượng tử cho rằng, lạp tử vi quan và vũ trụ hồng quan là một chỉnh thể không thể phân ly, tách rời. “Nguyên lý bổ sung” mà Bohr đề xuất cho rằng, hạt lạp tử hoàn toàn không phải là hạt vật chất tồn tại độc lập, mà trực thuộc trong chỉnh thể mạng lưới vũ trụ. Cấu trúc hạt và sóng là hai loại miêu tả thực tế về tính chất bổ sung đồng nhất. Mà loại tư tưởng này cũng từng xuất hiện trong văn hóa Hy Lạp cổ. Nhà hiền triết Heraclitus của Hy Lạp cổ đại từng nói: “Vạn vật đều chảy”, vạn vật đều đang biến hóa, mà hết thảy biến hóa đều có tính chu kỳ. Ông phát hiện hết thảy những vật đối lập nhau đều có tính chất tương phản, mà lại thống nhất. Heraclitus cũng từng nói: “Hướng lên trên hay xuống dưới là đồng nhất và tương đồng.” Ông lại nói: “Thượng đế là ngày với đêm, đông với hạ, chiến tranh cùng hòa bình, no đủ cùng cơ hàn.”

Trong giới tu luyện và chính giáo của Đông và Tây phương sớm đã có nhận thức về vũ trụ, về tính thống nhất giữa ý thức và vật chất. Phật học phương Đông cho rằng “Vạn vật đều có Phật tính”, cũng như đều chăm sóc một cách từ bi hết thảy sinh mệnh của vạn vật trên thế gian.

Nếu nhận thức được ý thức là một đặc tính căn bản của vật chất thì sẽ không khó để lý giải các phát hiện mà khoa học thực chứng không cách nào giải thích được, như “nước có cảm tình”, “trị liệu bằng cầu nguyện”, “niệm chú cảm ứng”, “cảm ứng của cặp sinh đôi”, “cảm ứng giữa vợ chồng”, “hiệu ứng Baxter”, “nhân quả luân hồi”… cùng các hiện tượng siêu tự nhiên liên quan.

Những kỳ tích của người tu luyện Pháp Luân Công

Từ ngày 13 tháng 5 năm 1993, Pháp Luân Công được Đại sư Lý Hồng Chí truyền xuất ra ở Trường Xuân, Trung Quốc, lấy Chân-Thiện-nhẫn làm nguyên tắc, có năm bài công pháp ôn hòa, tịnh hóa thân tâm, trừ bệnh khỏe người có hiệu quả thần kỳ. Cùng với việc người học Pháp Luân Công không ngừng tu luyện, thân thể ở vi quan và hồng quan sẽ được đồng hóa với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ, khiến trường năng lượng của thân thể phát sinh cải biến, thậm chí bệnh tật lâu năm cũng không cánh mà bay. Pháp Luân Đại Pháp cải biến sức khỏe của con người như thế nào?

Năm 2005, các nhà nghiên cứu về hệ miễn dịch của Đại học Y Baylor (Baylor College of Medicine), trên Tạp chí Y học Thay thế và Bổ sung (Journal of Alternative and Complementary Medicine) đã công bố bài luận, đây là một bài dùng phương pháp thẩm duyệt đồng ngành (peer review) thay thế cho các tạp chí có tiếng nói trong lĩnh vực y tế (Li QZ, Li P, Garcia GE, Johnson RJ, Feng L. (2005) Genomic profiling of neutrophil transcripts in asian qigong practitioners: a pilot study in gene regulation by mind-body interaction.J Altern Complement Med. 2005 Feb;11(1):29-39.)

2023-10-11-073946-2--ss.jpg

Bài luận được đăng trên Tạp chí Y học Thay thế và Bổ sung của các nhà nghiên cứu về hệ miễn dịch của Đại học Y Baylor (Nguồn ảnh: internet)

Khi tiến hành xét nghiệm các tế bào bạch cầu trong máu của người tu luyện Pháp Luân Công, dùng công nghệ DNA Microarray và RNA bảo vệ để nghiên cứu biểu hiện di truyền của bạch cầu trung tính (một trong những tế bào miễn dịch chính của cơ thể người) để so sánh điểm tương đồng giữa một nhóm người tu luyện Pháp Luân Công trong một năm với những người khỏe mạnh không tu luyện. Trong 13.000 mã gen được kiểm tra, người ta phát hiện ra rằng, “Những thay đổi trong biểu hiện gen ở các học viên Pháp Luân Công trái ngược với những người kiểm soát sức khỏe thông thường ở chỗ khả năng miễn dịch mạnh hơn, điều hòa quá trình trao đổi chất của tế bào và thay đổi các gen apoptotic có lợi cho việc nhanh chóng xử lý tình trạng viêm.”

Một phát hiện quan trọng khác là, tế bào miễn dịch của những người này có một đặc tính là “cơ chế điều tiết hai hướng”. Bạch huyết trung tính của họ trong trạng thái bình thường (không bị viêm), tuổi thọ dài hơn người thông thường, làm tăng khả năng thực bào, từ đó càng có lợi cho việc bảo vệ cơ thể; nhưng khi ở trạng thái viêm, sau khi bạch huyết trung tính tiêu diệt mầm bệnh thì lại nhanh chóng chết đi, vì thế có lợi cho việc tiêu viêm nhanh chóng, tránh phát sinh “hội chứng cơn bão cytokine” (hệ miễn dịch phản ứng quá mức).

“Tạp chí Y học Thay thế và Bổ sung” đã có bình luận về bài luận này rằng, đây là một thí nghiệm đáng mong đợi trên tập san lần này, trong đó xem xét tác dụng tương trợ giữa tâm trí và thân thể (MIND AND BODY) một cách toàn diện hơn. Các học viên Pháp Luân Công không dựa vào phương tiện vật chất nào để thay đổi cơ thể, mà chỉ dùng nguyên tắc Chân-Thiện-Nhẫn, đề cao tầng thứ đạo đức và tinh thần, mà thân tâm đạt được sự tịnh hóa siêu thường.

Năm 2002, cuộc điều tra trên phạm vi toàn quốc ở Mỹ cho thấy 30% người Mỹ trưởng thành dùng các biện pháp trị liệu như y học bổ sung và y học thay thế (CAM). Một nghiên cứu khác cho thấy, ở Mỹ, người có học vị càng cao càng có khuynh hướng lựa chọn biện pháp trị liệu như y học bổ sung và y học thay thế.

Tại các nơi trên thế giới, từ New York đến London, Tokyo, Berlin, Paris, Đài Bắc, ở các điểm du lịch, quảng trường trước tòa thị chính đều có thể thấy biểu ngữ “Pháp Luân Đại Pháp”, học viên Pháp Luân Công hoặc ngồi đả tọa, hoặc luyện công, Pháp Luân Công tại hơn 100 quốc gia và địa khu đều nhận được sự hoan nghênh. Qua biểu hiện của các học viên Pháp Luân Công, có thể thấy đạo đức truyền thống đang hồi quy, dùng tâm linh cao thượng để đối diện với hết thảy, dùng tinh thần chính trực để tẩy tịnh mọi ô trọc.

Nghiên cứu định lượng với bệnh nhân ung thư

Kỳ tích của người tu luyện Pháp Luân Công đã thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và được các cơ quan chứng thực.

Tháng 6 năm 2016, Hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (American Society of Clinical Oncology, ASCO) đã có bài trình bày, sau đó đăng tải trên trang web của mình, một bài luận có đề tài “Một nghiên cứu quan sát nhóm về những người sống sót sau ung thư giai đoạn cuối nhờ tu luyện Pháp Luân Công ở Trung Quốc” (An observational cohort study on terminal cancer survivors practicing Falun Gong in China). ASCO có hội nghị y khoa thường niên lớn nhất về nghiên cứu học thuật về ung thư và khối u, có sức ảnh hưởng nhất trên toàn cầu, mỗi năm đã thu hút hơn 40.000 chuyên gia về khối u trên toàn cầu đến tham dự.

2023-10-11-073946-3--ss.jpg

Bài luận trên trang web chính thức của ASCO với đề tài “Một nghiên cứu quan sát nhóm về những người sống sót sau ung thư giai đoạn cuối nhờ tu luyện Pháp Luân Công ở Trung Quốc”

Nội dung báo cáo gồm các dữ liệu về chẩn đoán, thời gian tu luyện Pháp Luân Công, tỷ lệ sống sót thực tế cho (AS) tính đến ngày báo cáo, sự cải thiện triệu chứng và chất lượng cuộc sống (QoL). Ngoài ra, Tỷ lệ sống sót dự đoán (PS) được đánh giá bằng cách sử dụng dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng (SEER) của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) khi không có sẵn Dự đoán tỷ lệ sống sót lâm sàng (CPS) của bác sỹ điều trị. Toàn bộ các báo cáo đều thông qua sự thẩm tra của hai vị bác sỹ. Tỷ lệ sống sót lâm sàng dự đoán sử dụng dự đoán của bác sỹ điều trị chính (CPS), đối với những báo cáo chưa có dự đoán lâm sàng, sẽ căn cứ theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu Dịch tệ Quốc gia Hoa Kỳ SEER (Surveillance, Epidemiology, and End Results) để dự đoán.

Đối tượng nghiên cứu của bài luận là 152 người bị ung thư giai đoạn cuối (PS≤12 tháng), bộ phận ung thư chính bao gồm phổi (38 trường hợp), gan (28 trường hợp), dạ dày (17 trường hợp), bệnh máu trắng (12 trường hợp), thực quản (10 trường hợp), phụ khoa (9 trường hợp), ống mật tụy (8 trường hợp), đại tràng (7 trường hợp), bệnh khác (22 trường hợp).

Độ tuổi mắc bệnh trung bình là 53.3±15.6 tuổi. Trước khi tu luyện Pháp Luân Công, có 65 trường hợp từng tiếp nhận trị liệu ung thư ở bệnh viện, kết quả thất bại; 74 trường hợp sau khi được bệnh viện chẩn đoán, chưa làm trị liệu ung thư; 13 trường hợp vừa đồng thời tiếp nhận trị liệu y học và tu luyện Pháp Luân Công. Thời gian tu luyện Pháp Luân Công khoảng 53.1±58.9 tháng. Tính đến ngày báo cáo, có 149 người bệnh vẫn còn sống rất khỏe mạnh. So với dự đoán sống sót (5.1±2.7 tháng), thời gian sống thực tế đã được kéo dài thêm 56.0±60.1 tháng (P<0.0001). Thời gian sống theo dự đoán lâm sàng (5.1±2.0 tháng) và căn cứ theo dữ liệu của SEER (5.2±3.2) là khá gần nhau. Điều này cho thấy tính đáng tin của dự đoán lâm sàng cùng báo cáo tình trạng bệnh. Thời gian bắt đầu thấy cải thiện về triệu chứng là 1.3±1.7 tháng. Có 147 trường hợp (96,7%) triệu chứng hoàn toàn biến mất, trong đó có 60 báo cáo đã được bác sỹ điều trị chính xác nhận. Thời gian để các triệu chứng hoàn toàn biến mất là 3.6±3.3 tháng, thời gian sống mà không còn triệu chứng là 52.7±61.1 tháng. Chất lượng sống sau khi tu luyện Pháp Luân Công được cải thiện rõ rệt (các giá trị P<0.0001). Phân tích nhiều nhân tố cho thấy rõ ràng rằng thời gian tu luyện Pháp Luân Công là thời gian sống thực tế và là dự đoán chủ yếu của thời gian sống không triệu chứng.

Báo cáo nghiên cứu kết luận: “Chúng tôi nhận thấy việc tu luyện Pháp Luân Công có thể giúp bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối kéo dài thời gian sống và cải thiện các triệu chứng rõ rệt.”

Trong các bài tâm đắc của người tu luyện đăng trên tập san Minh Huệ, thông qua tu luyện Pháp Luân Công, những ví dụ về sự cải thiện trạng thái tinh thần, tịnh hóa thân thể, mà khiến học viên Pháp Luân Công từ chỗ hết đường sống vì mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư, máu trắng rồi có được cuộc sống mới nhiều không kể xiết.

Trong sách “Chuyển Pháp Luân” của Pháp Luân Công, Sư phụ Lý Hồng Chí, nhà sáng lập pháp môn, đã minh xác chỉ ra rằng: “Vật chất và tinh thần là nhất tinh” “Tốt xấu xuất tự một niệm”. Đồng hóa với đặc tính vũ trụ “Chân-Thiện-Nhẫn”, đề cao tâm tính là con đường căn bản để phản bổn quy chân, đề cao tầng thứ tinh thần của bất kể người nào.

Lời kết

Sự huyền bí của vũ trụ là chủ đề mà con người, từ nội tâm, đều muốn khám phá. Chúng ta từ đâu đến? Đi về đâu? Vũ trụ mênh mang rốt cuộc có những bí mật nào mà con người chưa biết đến? Vật lý lượng tử giống như chiếc chìa khóa mà Đấng tạo hóa để lại cho nhân loại, đã mở ra một phần thế giới vi quan, khiến người ta biết được sự thần kỳ của tạo hóa. Tu luyện Pháp Luân Công lại càng là một kỳ tích mà Đấng Sáng Thế lưu lại cho con người. Hơn 100 triệu người hữu duyên ở các quốc gia khác nhau, dân tộc khác nhau bước vào tu luyện, minh bạch được bí ẩn của vũ trụ, nhân thể, và sinh mệnh. Còn không biết bao nhiêu người thành tâm kính niệm chín chữ chân ngôn “Pháp Luân Đại Pháp Hảo, Chân-Thiện-Nhẫn Hảo” mà được giải thoát khỏi dịch bệnh, hồi phục khỏe mạnh, kiến chứng được sự thần kỳ của Đại Pháp. Vũ trụ đang đứng trước thời khắc canh tân chưa từng có, bừng bừng sinh cơ mới. Đối với mỗi từng sinh mệnh mà nói, nghiêm túc suy nghĩ về ý nghĩa nhân sinh, trân quý những kỳ tích mà đấng tạo hóa ban cho con người, chính là thời khắc mà sinh mệnh của chúng ta đã đợi chờ và khao khát.

Tài liệu tham khảo:

[1] “The Mental Universe” (Vũ trụ tinh thần), R. C. Henry, tạp chí Nature (www.nature.com/articles/436029a)

[2] “Lược sử Vật lý Lượng tử – Chúa có gieo xúc xắc cho bạn?”, Tào Thiên Nguyên

[3] Atomic Physics and the Description of Nature (Vật lý Nguyên tử và Mô tả Tự nhiên), p.57, N.Bohr

[4] Interferometric imaging of amplitude and phase of spatial biphoton states (Hình ảnh giao thoa của biên độ và pha của trạng thái photon đôi trong không gian), tạp chí Nature Photonic, ngày 14/08/2023 (www.nature.com/articles/s41566-023-01272-3).

[5] “The Tao of Physics: An Exploration of the Parallels Between Modern Physics and Eastern Mysticism” (Đạo của Vật lý: Vật lý học cận dại và chủ nghĩa thần bí phương Đông), nhà vật lý học Fritjof Capra của Mỹ.

Bản quyền © 2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/10/15/467020.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/11/29/213129.html

Đăng ngày 26-12-2023; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Rối lượng tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Rối Lượng Tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 1)https://vn.minghui.org/news/257134-roi-luong-tu-y-thuc-bien-doi-vat-chat.htmlSun, 24 Dec 2023 12:23:38 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=257134[MINH HUỆ 12-10-2023] Richard Conn Henry, giáo sư vật lý và thiên văn học tại Đại học Johns Hopkins, đã xuất bản một bài báo “Vũ trụ tinh thần” (The Mental Universe)trên tạp chí Nature vào năm 2005, những thực nghiệm gần đây nhất của vật lý lượng tử […]

The post Rối Lượng Tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Văn Tư Duệ

[MINH HUỆ 12-10-2023] Richard Conn Henry, giáo sư vật lý và thiên văn học tại Đại học Johns Hopkins, đã xuất bản một bài báo “Vũ trụ tinh thần” (The Mental Universe)trên tạp chí Nature vào năm 2005, những thực nghiệm gần đây nhất của vật lý lượng tử cho thấy, sự biến đổi về trạng thái vận động của lượng tử (sự sụp đổ), “Loại bỏ đi toàn bộ lực ảnh hưởng vật lý khác, để thể hiện rõ hiệu quả tác dụng của tinh thần.” [1] Đối với kết quả thực nghiệm này, nhà vật lý thiên văn James Jeans (tước Hiệp sỹ) viết trong cuốn “Vũ trụ bí ẩn” (The Mysterious Universe): “Dòng chảy tri thức hiện nay đang theo hướng hiện thực phi cơ giới; sự tồn tại của vũ trụ hiện xem ra giống như một tư tưởng cự đại chứ không phải là một cỗ máy khổng lồ nữa. Tâm linh dường như không còn là kẻ tình cờ xâm nhập vào thế giới vật chất nữa. Chúng ta hãy chào đón nó như đấng sáng tạo và bậc thống trị thế giới vật chất.”

Vũ trụ là vật chất hay tinh thần? Cho đến thế kỷ 19, các loại học thuyết vẫn tranh luận không ngớt, mà trào lưu tư tưởng theo “chủ nghĩa duy vật” lúc này đã tiến dần từng bước, chủ nghĩa duy vật cho rằng, vật chất quyết định ý thức, ý thức không thể thay đổi vật chất, tức là nói vật chất giữ vai trò then chốt, ý thức giữ vai trò thứ yếu. Khi đề cập đến hình thức tồn tại của vật chất, chủ nghĩa duy vật cho rằng: thế giới là thống nhất với vật chất, mà loại tính vật chất này là không phụ thuộc vào tính thực tại khách quan của ý thức con người.

Một luận chứng mà chủ nghĩa duy vật hay viện dẫn nhất là: “Mặt trăng xuất hiện thì bạn mới có thể nhìn thấy, chứ không phải vì bạn muốn ngắm trăng, nên mặt trăng mới xuất hiện trên bầu trời.” Hiển nhiên, cách nói này xem ra có vẻ rất có sức thuyết phục. Trước đây, trong một thời gian khá dài, quan niệm vật chất quyết định ý thức này đã ảnh hưởng hết sức thâm sâu trên toàn thế giới.

Thế nhưng, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, hiệu ứng quang điện đã mở ra một lĩnh vực hoàn toàn mới, vật lý lượng tử cũng ra đời từ đó. Các nhà khoa học đã phát hiện lạp tử vi quan có một đặc tính kỳ lạ chưa từng biết – “tính chất lưỡng tính sóng-hạt”, lạp tử vi quan vừa là sóng, đồng thời cũng là hạt, đây là một khái niệm không dễ lý giải.

Đến cả nhà vật lý học Niels Bohr được tôn vinh là nhà vật lý hàng đầu của thế kỷ 20 cũng từng nói: “Nếu như có ai không cảm thấy thuyết lượng tử là khó thì người đó chưa hiểu gì về thuyết lượng tử.” [2]

Một thí nghiệm vật lý lượng tử nổi tiếng có tên là “Thí nghiệm khe đôi lượng tử” (the quantum double slit experiment) (còn gọi là thí nghiệm khe Young), khi không có sự quan sát của con người, hạt photon (quang tử) sẽ được truyền dẫn theo đường cong (trạng thái sóng), nhưng một khi có người quan sát, hạt photon (quang tử) sẽ được truyền dẫn theo đường thẳng (trạng thái hạt).

Vì sao hành vi quan sát lại có thể biến đổi lạp tử? Phải chăng ý thức của người quan sát đã biến đổi lạp tử?

Đầu thế kỷ 20, nhà khoa học người Đức đặt nền móng cho lý luận lượng tử Max Planck từng đề xuất một quan điểm về ý thức như thế này: “Tôi coi ý thức là căn bản. Tôi coi vật chất là thể phái sinh của ý thức mà thôi. Chúng ta không đi sau ý thức. Hết thảy những gì chúng ta nói đến, hết thảy những gì chúng ta coi là tồn tại đều bắt nguồn từ ý thức.”

Tháng 9 năm 1927, Bohr lần đầu tiên đưa ra “Nguyên lý bổ sung” để giải thích về hành vi của cơ học lượng tử. Bohr nói: “Lạp tử vật chất cô lập là những khái niệm trừu tượng, chỉ có thông qua tác dụng tương hỗ của chúng với các hệ thống khác, mới có thể định nghĩa và quan sát thuộc tính của chúng.” [3]

Tính toán của Bohr cho thấy lạp tử cũng không phải là một hạt vật chất cô lập, nó có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời khỏi chỉnh thể vũ trụ. Bohr thường liên hệ khái niệm về tính bổ sung này với tư tưởng âm dương trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc: các bậc thánh hiền Trung Quốc dùng hai cực âm, dương để biểu đạt tính bổ sung của các mặt đối lập, hơn nữa còn cho rằng tác dụng tương hỗ về hành vi giữa chúng là tất cả hiện tượng tự nhiên và tất cả bản chất của hoàn cảnh nơi nhân loại.

Đối với khoa học thực chứng mà nói, ý thức là hư vô, không thể đo lường, vì thế học thuyết ý thức làm biến đổi lạp tử của Bohr vẫn luôn là điểm nóng và tuyến đầu trong nghiên cứu vật lý học. Có rất nhiều nhà vật lý học tham gia vào việc quan sát cơ học lượng tử, như “thí nghiệm lựa chọn chậm trễ” của thí nghiệm giao thoa khe đôi đã tiến thêm một bước chứng minh rằng việc quan sát (ý thức) trực tiếp ảnh hưởng đến hình thức vận động của lạp tử.

Nếu như thí nghiệm giao thoa khe đôi có thể chứng minh lạp tử vi quan dưới tác động của sự quan sát, bị ảnh hưởng về ý thức, vậy thì giữa lạp tử với nhau thì sẽ thế nào? Nếu như lạp tử có ý thức thì giữa lạp tử với nhau có tồn tại sự liên hệ ý thức với nhau hay không?

“Rối lượng tử” đã chứng minh ý thức của lượng tử

Năm 1982, nhà vật lý học người Pháp Alain Aspect cùng nhóm của ông đã hoành thành thành công một thí nghiệm, chứng minh rằng giữa các lạp tử vi quan có tồn tại một kiểu quan hệ gọi là “rối lượng tử” (quantum entanglement).

Hai lạp tử vi quan nếu phát sinh một loại quan hệ rối (quan hệ thân duyên), thì cho dù chúng bị tách nhau bao xa, vẫn luôn giữ được quan hệ “rối” đó; khi một lạp tử bị nhiễu loạn thì lạp tử kia (bất kể cách bao xa) cũng lập tức biết được. Điều này cũng giống như việc hai electron nắm giữ thông tin bí mật với tốc độ vượt xa tốc độ ánh sáng (cũng như niệm chú ngữ vậy).

“Rối lượng tử” còn được gọi là “tác dụng siêu cự ly”, Einstein từng gọi là “tác động ma quái từ xa” (“spooky action at a distance”), mãi đến trước khi qua đời, ông vẫn chưa hoàn toàn tiếp nhận thuyết cơ học lượng tử là lý luận chân thực và hoàn chỉnh, mà vẫn luôn thử nghiệm để tìm ra một cách giải thích khác hợp lý hơn. [3]

Rối lượng tử đã được nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới chứng thực, nhiều nhà khoa học cho rằng thí nghiệm rối lượng tử là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong vòng vài chục năm trở lại đây, tuy trước mắt mọi người vẫn chưa rõ ràng về những hàm nghĩa xác thực của nó, nhưng với giới triết học, giới khoa học và giới tôn giáo đã sinh ra những ảnh hưởng rất thâm sâu.

Năm 2012, trạm quan trắc quang học của cục không gian Châu Âu nằm ở quần đảo Canary đã lập kỷ lục thế giới mới khi thực hiện thí nghiệm rối lượng tử cách xa 143km.

Năm 2015, nhân viên nghiên cứu của Viện nghiên cứu Tiêu chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (National Institute of Standards and Technology, NIST) đã chế tạo được các cặp số photon tương đồng, phân tách chúng rồi đưa tới các nơi khác nhau để tiến hành quan sát. Thí nghiệm cho thấy, “tác động ma quái từ xa” xác thực là có tồn tại, cũng từ đó đưa ra những chứng cứ có sức thuyết phục.

Một nhóm nghiên cứu của trường Đại học Công nghệ Delft ở Hà Lan cũng tuyên bố họ đã thiết kế và tiến hành thực nghiệm nghiêm ngặt nhất đến nay và chứng minh được “tác dụng siêu cự ly” của cơ học lượng tử là có thật, họ còn đăng tải luận văn lên trang web arXiv.

Bản thân ý thức đã vượt qua sự tồn tại của thời không bốn chiều, cơ học lượng tử chỉ có thể miêu tả được một mặt của lạp tử vi quan của vật chất, lại không thể nói rõ được hết một mặt của ý thức, còn sự phát hiện ra “tác dụng siêu cự ly” lại có thể trở thành chứng cứ tốt nhất về việc lạp tử vi quan vốn có ý thức.

Vậy thì, “tác dụng siêu cự ly” trong văn hóa phương Đông thể hiện như thế nào? Trong văn hóa Đạo gia có cách nói “Thân thể người là một tiểu vũ trụ”, vũ trụ bên ngoài lớn bao nhiêu, vũ trụ bên trong thân thể cũng lớn bấy nhiêu, vũ trụ chính là một chỉnh thể không thể tách rời.

Lạp tử vi quan có ý thức không? Ý thức có thể xuyên việt thời không không? Điều này trong khoa học thực chứng cơ bản là điều hoang đường, viển vông, song chính rối lượng tử lại cho thấy lạp tử có ý thức là có thật.

Văn hóa truyền thống Trung Quốc xưa nay giảng rằng “Vạn vật có linh”, nghĩa là vạn sự vạn vật trong vũ trụ đồng thời tồn tại mặt vật chất và mặt tinh thần (ý thức), vật chất và ý thức là một.

Kỳ tích thực vật nảy mầm trong 20 phút

Theo Tạp chí Y học Cổ truyền Trung Quốc của Hoa Kỳ (American Journal of Chinese Medicine) thuộc Thư viện Y học Quốc gia Hoa Kỳ (US National Library of Medicine), từng đăng bài báo cáo nghiên cứu miêu tả: “Chulin Sun là một phụ nữ có năng lực đặc biệt, là một thành viên của Hiệp hội Khoa học Nghiên cứu Nhân thể Trung quốc. Bà là khí công sư ngoại khí (Waiqi). Ngoại khí ở đây chỉ một loại khí công, nó dạy khí công sư làm thế nào trong khi thao túng tâm trí để mang đến cái gọi là năng lượng khí trong y học Trung Quốc truyền thống.

“Chulin Sun có thể thông qua việc vận dụng lực lượng của tâm trí để phát ra nguồn năng lượng khí, thúc đẩy hạt giống của cây nảy mầm chỉ trong vòng 20 phút, lại còn phát triển cao thêm vài cm. Thí nghiệm này đã được hiện ở hơn 180 trường đại học khắp các nơi, ngoài ra, các cơ quan khoa học và nghiên cứu của Trung Quốc và các quốc gia khác (như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia) cũng từng làm thí nghiệm này.

Sau quá trình phân tích căn nguyên, các nhà khoa học đã xác nhận trường hợp này. Nghiên cứu này có đoạn tường thuật rằng: “Bước đầu cho rằng, là năng lượng của khí đã làm biến đổi gen liên quan đến kết cấu nảy mầm, từ đó gia tốc biểu hiện của nó và khiến hạt giống nảy mầm trước thời gian đã định.“

Chulin Sun cho rằng, con người sau khi tiến nhập vào trạng thái công năng nào đó thì xác thực có thể câu thông với thực vật, trao đổi thông tin với nó, thực vật là “có ý thức, có cảm tình”, trường ý thức của con người và nguồn tín tức nào đó vốn có thể ảnh hưởng cực lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của thực vật, thay đổi phương hướng, tốc độ và lộ trình sinh trưởng, phát triển của thực vật.

Ảnh hưởng của ý thức của con người đối với sự tồn tại của thế giới vật chất vượt khỏi nhận thức của nhân loại, mà tận sâu trong tâm mỗi người đều có một loại khao khát tiềm ẩn, một sự khao khát, mong mỏi được khám phá sự huyền bí của vũ trụ này.

Các nhà vật lý học trong quá trình lâu dài nghiên cứu về rối lượng tử, đã không ngừng có những thành quả mới. Càng nhìn rõ được các kỳ quan của vũ trụ, lại càng dẫn khởi sự tìm tòi của người ta về vũ trụ này.

Tài liệu tham khảo

[1] “The Mental Universe” (Vũ trụ tinh thần), R. C. Henry, tạp chí Nature (www.nature.com/articles/436029a)

[2] “Lược sử Vật lý Lượng tử – Chúa có gieo xúc xắc cho bạn?”, Tào Thiên Nguyên

[3] Atomic Physics and the Description of Nature (Vật lý Nguyên tử và Mô tả Tự nhiên), p.57, N.Bohr

(Còn nữa)

Bản quyền © 2023 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2023/10/12/467019.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2023/11/28/213121.html

Đăng ngày 24-12-2023; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Rối Lượng Tử: Ý thức biến đổi vật chất (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>