Bài viết của Ban Biên tập Cửu Bình
[MINH HUỆ 19-04-2020] [Chú thích của Ban Biên tập Minh Huệ] Đây là loạt bài tái bản bản dịch của cuốn sách “Ma quỷ đang thống trị thế giới của chúng ta” do Ban Biên tập cửu bình biên soạn. Bản dịch được dịch từ tiếng Trung, có tham khảo tiếng Anh.
Mục lục của cuốn sách
Lời nói đầu
Tự luận: Ma quỷ đang thống trị thế giới chúng ta
Chương 1. 36 kế ma quỷ hủy diệt nhân loại
Chương 2. Khởi phát ở châu Âu
Chương 3. Thảm sát ở phương Đông
Chương 4. Xuất khẩu cách mạng
Chương 5. Thâm nhập vào phương Tây
Chương 6. Tín ngưỡng: Ma quỷ dẫn dắt con người phản đối, bài xích Thần
Chương 7. Gia đình: Ma quỷ đang hủy hoại gia đình của chúng ta
Chương 8. Chính trị: Ma quỷ đang họa loạn các quốc gia của chúng ta
Chương 9. Kinh tế: Mồi nhử của ma quỷ
Chương 10. Pháp luật: Dùng luật pháp để phục vụ ma quỷ
Chương 11. Nghệ thuật: Làm suy đồi nghệ thuật
Chương 12. Giáo dục: Phá hoại giáo dục
Chương 13. Truyền thông: Thao túng truyền thông
Chương 14. Văn hóa phổ biến: Hưởng lạc, phóng túng dục vọng
Chương 15. Khủng bố: Chủ nghĩa cộng sản là nguồn gốc của Chủ nghĩa khủng bố
Chương 16. Bảo vệ môi trường: Bàn tay của chủ nghĩa cộng sản đằng sau lý luận bảo vệ môi trường
Chương 17. Toàn cầu hóa: Mục đích căn bản của chủ nghĩa cộng sản
Chương 18. Dã tâm bá chủ toàn cầu của ĐCSTQ dưới sự an bài của ma quỷ
Kết luận
CHƯƠNG 5: THÂM NHẬP VÀO PHƯƠNG TÂY
Mục lục
Giới thiệu
1. Chủ nghĩa cộng sản bạo lực và chủ nghĩa cộng sản phi bạo lực
2. Quốc tế Cộng sản, chiến tranh gián điệp và chiến tranh “tin đồn“
3. Từ Chính sách Mới của Roosevelt đến chủ nghĩa tiến bộ
4. Đại Cách mạng Văn hóa ở phương Tây
5. Phong trào hòa bình phản chiến và phong trào dân quyền
6. Những người theo Chủ nghĩa Marx Mới sùng bái Sa-tăng
7. Cuộc trường chinh xuyên thể chế của cánh tả
8. Phải đạo chính trị – cảnh sát tư tưởng của ma quỷ
9. Chủ nghĩa Xã hội có mặt ở khắp châu Âu
10. Vì sao chúng ta bị ma quỷ lừa
Tài liệu tham khảo
––
Giới thiệu
Cuộc bầu cử năm 2016 của Mỹ là cuộc bầu cử kịch tính nhất trong nhiều thập kỷ qua, mặc dù tỷ lệ đi bỏ phiếu 58% không cao. Quá trình tranh cử đầy những biến động bất ngờ, ngay cả sau cuộc bầu cử. Với chiến thắng của ứng viên Đảng Cộng hòa Donald Trump, cuộc bầu cử ồn ào náo nhiệt đã tạm thời chấm dứt, nhưng một cuộc chiến khác đã lập tức bắt đầu. Ngoài việc rầm rộ công kích tổng thống mới đắc cử trên truyền thông, rất nhiều thành phố đã bùng nổ những cuộc diễu hành phản đối kết quả bầu cử với những khẩu hiệu như “Không phải tổng thống của tôi” v.v., gọi Trump là “kẻ phân biệt chủng tộc”, “kỳ thị giới tính”, “người theo chủ nghĩa bài ngoại”, “người của Đức quốc xã”, yêu cầu kiểm phiếu lại, thậm chí uy hiếp sẽ tố cáo luận tội.
Mặc dù những người biểu tình nhiều lần tuyên bố cuộc diễu hành thị uy của họ là tự phát nhưng giới nhà báo điều tra vẫn tìm thấy những chứng cứ then chốt cho thấy đằng sau hoạt động thị uy này là những nhóm lợi ích nhất định. Theo bộ phim tài liệu “Nước Mỹ bị vây hãm: Cuộc nội chiến 2017” (America Under Siege: Civil War 2017) do nhà nghiên cứu tại Florida Trevor Loudon đạo diễn, một bộ phận chủ chốt người biểu tình là “nhà cách mạng chuyên nghiệp” có mối liên hệ mật thiết với các nước cộng sản và những quốc gia độc tài khác như Triều Tiên, Iran, Venezuela, Cuba. Tác phẩm của Loudon còn nêu rõ vai trò của hai tổ chức xã hội chủ nghĩa Mỹ đáng chú ý là Đảng Thế giới Công nhân Chủ nghĩa Stalin (Stalinist Workers World Party) và Tổ chức Xã hội Chủ nghĩa Con đường Tự do (Maoist Freedom Road Socialist Organization). [1]
Loudon đã bắt đầu nghiên cứu các phong trào cộng sản từ đầu những năm 1980, và quả quyết rằng các tổ chức cánh tả đã lấy Mỹ làm mục tiêu chủ yếu để thâm nhập và lật đổ. Dưới tác động của những cá nhân giữ vị trí then chốt trong các lĩnh vực chính trị, giáo dục và truyền thông, và kinh doanh của Mỹ, hình thái ý thức của xã hội Mỹ mười mấy năm qua không ngừng dịch chuyển về phía cánh tả. Chính vào lúc khắp thế giới đang ăn mừng vì thế giới tự do đã đánh bại được phe cộng sản sau Chiến tranh Lạnh thì chủ nghĩa cộng sản lại âm thầm tiếp quản các tổ chức công của xã hội phương Tây để chuẩn bị đòn chí mạng cuối cùng.
Mỹ là ngọn hải đăng của thế giới tự do, gánh vác sứ mệnh thiên phú “cảnh sát thế giới”. Trong hai lần đại chiến thế giới, Mỹ tham gia thay đổi cục diện cuối cùng của cuộc chiến. Trong Chiến tranh Lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ, đứng trước nguy cơ hủy diệt của chiến tranh hạt nhân, Mỹ đã kìm hãm thành công khối Xô-viết cho đến khi giải thể chế độ cộng sản Liên Xô và Đông Âu.
Hơn 200 năm trước, những nhà lập quốc của Mỹ đã có tầm nhìn xa trông rộng, dựa trên nghiên cứu về truyền thống tín ngưỡng và triết học của Phương Tây, sau khi phân tích và thảo luận kỹ lưỡng, đã viết nên những tài liệu kinh điển, bất hủ trong chính trị học, đó là Tuyên ngôn Độc lập, và Hiến pháp Hoa Kỳ. Hai văn kiện nền tảng này lấy quyền mà trời ban cho con người làm chân lý hiển nhiên, xác lập nguyên tắc của tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, đồng thời cũng thiết lập một chế độ cộng hòa phân quyền và cân bằng kiểm soát lẫn nhau. Hai văn kiện này đã đồng hành cùng nhiều chính trị gia sáng suốt và những người Mỹ cung kính tin Thần, đã đảm bảo hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho xã hội Mỹ suốt 200 năm qua.
tà linh cộng sản đương nhiên sẽ không an tâm khi toàn bộ Tây bán cầu nằm ngoài tầm khống chế của nó, nó muốn sắp đặt cục diện ở cả phương Đông và phương Tây. Để tiêu diệt nhân loại, tà linh thao túng những đại diện nơi thế gian con người, trước tiên là vẽ ra một viễn cảnh tốt đẹp về một xã hội đại đồng, sau đó lựa chọn những đại diện khác nhau nơi thế gian con người, dùng các phương thức khác nhau để phát tán oai lý tà thuyết, thực thi kế hoạch hủy diệt nhân loại cực kỳ xảo trá.
Nếu như nói rằng tại các quốc gia phương Đông như Liên Xô và Trung Quốc, v.v., cách thức mà tà linh cộng sản áp dụng là đoạt quyền, thảm sát, phá hoại văn hóa truyền thống, làm bại hoại đạo đức con người để cuối cùng đạt được mục đích hủy diệt nhân loại, thì ở cái gọi là “thế giới tự do” phương Tây, cách thức mà tà linh cộng sản áp dụng lại là thẩm thấu, dùng thủ đoạn lừa gạt thiên biến vạn hóa, biến dị tôn giáo, văn hóa, khống chế các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, cuối cùng cũng nhằm đạt được mục đích làm bại hoại con người và hủy diệt nhân loại.
Bởi vì ở các quốc gia phương Tây, Đảng Cộng sản tạm thời chưa giành được chính quyền nên tà linh cộng sản và tay sai cộng sản không thể không mang theo các bộ mặt giả dối khác nhau mà thâm nhập vào các cơ cấu và tổ chức khác nhau. Trong quá trình phát triển chủ nghĩa cộng sản ở phương Tây, có ít nhất bốn lực lượng lấy cách thức khác nhau để phát huy tác dụng.
Trước hết là sự thẩm thấu của Liên Xô. Khi bắt đầu thành lập, Liên Xô đã lập nên Quốc tế Cộng sản (lịch sử gọi là Quốc tế Thứ ba) làm phương tiện để xuất khẩu cách mạng ra toàn thế giới. Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thực hiện cải cách kinh tế và mở cửa từ những năm 1980 thì bắt đầu giao lưu chính trị, kinh tế và văn hóa nhiều hơn với phương Tây, cũng bắt đầu dùng các cách thức khác nhau để thâm nhập vào phương Tây.
Thứ hai, Đảng Cộng sản các nước, theo lệnh của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX) và Quốc tế Thứ ba, đã tích cực chuẩn bị hoạt động thẩm thấu.
Thứ ba, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và biến động xã hội, nhiều chính phủ các nước phương Tây có bệnh loạn vái tứ phương, đã tiếp nhận các chính sách xã hội chủ nghĩa biến hình, khiến xã hội phương Tây trong vài chục năm qua liên tục chuyển dịch về phía cánh tả.
Thứ tư, mỗi quốc gia đều có người đồng hành và đồng tình với Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Rất nhiều “kẻ ngốc hữu dụng” bị Đảng Cộng sản lợi dụng, trở thành công cụ sai khiến như ý của tà linh cộng sản. Bọn họ và Đảng Cộng sản cùng nhau trở thành “đội quân thứ năm” trong nội bộ các quốc gia phương Tây, một cách khách quan khởi tác dụng phá hoại văn hóa truyền thống, làm bại hoại đạo đức xã hội, trợ giúp chính quyền cộng sản lật đổ chính phủ hợp pháp của nước sở tại.
Chương này sẽ trình bày quá trình và thủ đoạn của chủ nghĩa cộng sản để thâm nhập vào phương Tây từ các góc độ khác nhau. Do tình huống hết sức phức tạp, đa dạng nên ở đây khó tránh khỏi những thiếu sót, bỏ qua nhiều chi tiết. Tuy nhiên, sau khi nắm được những manh mối cơ bản, chúng tôi tin rằng độc giả có thể đọc một mà hiểu ba, thấy rõ móng vuốt của tà linh cộng sản vốn đeo các loại mặt nạ khác nhau. Do hạn chế về độ dài nên chúng tôi chủ yếu sử dụng các ví dụ của Mỹ, nhưng độc giả nên hiểu rằng thủ đoạn của ma qủy không chỉ giới hạn tại Mỹ thôi, mà ở các quốc gia khác, thủ đoạn của nó cũng hết sức tương tự. Chương này cũng sẽ tóm lược tác động của chủ nghĩa cộng sản đối với châu Âu.
1. Chủ nghĩa cộng sản bạo lực và chủ nghĩa cộng sản phi bạo lực
Trong suy nghĩ của rất nhiều người, Đảng Cộng sản và bạo lực là không tách rời nhau; việc này xuất hiện cũng là có nguyên nhân. Từ xưa đến nay, Đảng Cộng sản không hề tránh né việc nói đến bạo lực. Trên thực tế, trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Marx và Engels đã hô lớn: “Người Cộng sản không thèm che giấu quan điểm và ý đồ của mình. Họ công khai tuyên bố: mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ chế độ xã hội hiện đang tồn tại.” [2] Sau hơn 100 năm tuyên ngôn này ra đời, cách mạng cộng sản của Nga và Trung Quốc đều lấy bạo lực làm thủ đoạn chủ yếu, khiến con người thế gian không ngờ đến một loại hình thức biểu hiện khó nhận biết hơn của chủ nghĩa cộng sản, chính là chủ nghĩa cộng sản phi bạo lực.
Chủ nghĩa Marx phái bạo lực cách mạng lấy Lenin làm đại biểu. Lenin đã “phát triển” chủ nghĩa Marx từ hai phương diện. Theo Marx, cách mạng cộng sản chủ nghĩa trước tiên sẽ bùng nổ ở những quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển, nhưng Lenin lại cho rằng, ở những nước lạc hậu như Nga lại có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một “Cống hiến” khác của Lenin là học thuyết “Xây dựng Đảng”. Lenin cho rằng, giai cấp công nhân không thể tự phát sản sinh ý thức giai cấp và yêu cầu làm cách mạng, nhất thiết phải từ bên ngoài mà đưa yêu cầu làm cách mạng vào giai cấp công nhân. Vì thế, phải tổ chức một đảng chính trị với đảng viên là các nhà cách mạng chuyên nghiệp, có kỷ luật nghiêm khắc. Đảng chính trị này chính là “đội tiên phong của giai cấp vô sản”- Đảng Cộng sản. Bản chất thật của “Học thuyết Xây dựng Đảng” của Lenin là lấy các tổ chức băng đảng và chủ nghĩa khủng bố gắn vào học thuyết chính trị kinh tế của Marx, thiết kế ra một con đường lừa dối: thực hiện chủ nghĩa cộng sản dựa vào bạo lực và che đậy sự thật.
Vào năm thứ hai sau khi Marx chết, năm 1884, “Hội Fabian” của Anh ra đời, lấy phương thức tiệm tiến để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Tên của Hội Fabian bắt nguồn từ tên của vị tướng La Mã cổ đại Quintus Fabius Maximus Verrucosus nổi tiếng nhờ chiến thuật “chạy trốn, trì hoãn”. Biểu tượng của Hội Fabian là một con chó sói đội lốt cừu. Trong Tiểu luận về Fabian, tập san đầu tiên do hội này xuất bản, ngay trang bìa có câu: “Hiện giờ phải chờ đợi, giống như Fabius chiến đấu với Hannibal năm xưa, mặc dù nhiều người chỉ trích ông ta trì hoãn thời gian, ông ta vẫn cực kỳ nhẫn nại; một khi thời cơ đến thì phải giống như Fabius, dốc toàn lực xuất kích, nếu không thì chờ đợi cũng bằng không, phí công vô ích.” [3]
Hội Fabian chủ trương thực hiện chủ nghĩa xã hội một cách từ từ, vì thế đã phát minh ra chiến lược “thẩm thấu” bằng cách “dùi lỗ mọi nơi”. Hội Fabian không những không hạn chế hoạt động của thành viên của mình, mà còn cổ vũ họ đi làm tùy tùng của những nhân vật quan trọng như bộ trưởng trong nội các, quan chức chính trị cao cấp, nhà công nghiệp lớn, hiệu trưởng trường đại học, giáo chủ, v.v. hoặc trực tiếp gia nhập những đoàn thể khác đồng ý tiếp nhận họ, để tiện bề thông qua những con đường này, đưa những tư tưởng này tới những nhân vật ra quyết sách quan trọng. Chủ tịch Hội Fabian, Sidney Webb đã viết: “Chúng ta tin tưởng kiên định vào cái gọi là “chính sách thâm nhập” của chúng tôi – có nghĩa là, không những phải tiêm tư tưởng chủ nghĩa xã hội và kế hoạch chủ nghĩa xã hội vào tư tưởng của những người hoàn toàn tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội, mà đồng thời cũng phải tiêm vào trong tư tưởng của những người có kiến giải khác với chúng ta – chúng ta không tốn công sức mà tiến hành loại tuyên truyền này với những người Đảng Tự do hoặc những người trong chủ nghĩa cấp tiến; không chỉ tiến hành tuyên truyền trong những người vận động công hội và những người theo chủ nghĩa hợp tác, mà còn tiến hành tuyên truyền trong những chủ lao động cho tới chuyên gia tài chính. Chỉ cần có cơ hội, chúng ta sẽ tấn công vào họ bằng những quan niệm và kế hoạch phù hợp với phương hướng của chúng ta.” [4]
Trong những thành viên của Hội Fabian có rất nhiều phần tử thanh niên trí thức, họ đi khắp nơi diễn thuyết, xuất bản sách, tạp chí, sổ tay, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trong thế kỷ 20, Hội Fabian bắt đầu tiến vào chính trường. Một trong bốn ông lớn của Hội Fabian là Webb trở thành đại biểu của phái Fabian trong Ủy ban Đại biểu Lao động vừa mới thành lập của Công Đảng. Ông ta soạn thảo điều lệ đảng, phác thảo cương lĩnh đảng, chỉ đạo các chính sách cho Công đảng, nỗ lực đưa chủ nghĩa xã hội Fabian trở thành tư tưởng chỉ đạo của đảng này. Ảnh hưởng của Hội Fabian ở Mỹ cũng rất lớn, có không chỉ một đoàn thể chủ nghĩa Fabian, mà ảnh hưởng của tư tưởng Fabian ở các khoa, viện khoa học xã hội của các trường đại học nổi tiếng cũng rất lớn.
Cho dù là chủ nghĩa cộng sản bạo lực của Lenin hay chủ nghĩa cộng sản phi bạo lực của Hội Fabian thì đằng sau đều là tà linh cộng sản thao túng và khống chế, mục đích cuối cùng của chúng không có gì khác biệt. Vì thế, chủ nghĩa cộng sản bạo lực của Lenin không bài xích thủ đoạn phi bạo lực. Trong cuốn sách “Bệnh ấu trĩ của ‘phe cánh tả’ trong phong trào chủ nghĩa cộng sản” (Left-Wing” Communism: An Infantile Disorder), Lenin đã phê bình nghiêm khắc Đảng Cộng sản Tây Âu vì từ chối hợp tác với công đoàn “phản động”, hay từ chối gia nhập hoạt động của nghị viện các quốc gia “tư bản”. Lenin viết: “Nghệ thuật của chính trị gia (cho tới lý giải chính xác của người cộng sản đối với nhiệm vụ bản thân) là phán đoán chính xác dưới những điều kiện nào, dưới thời cơ nào thì đội tiên phong giai cấp vô sản có thể giành được chính quyền, có thể nhận được sự ủng hộ hết mình của giai cấp công nhân và giai tầng rộng khắp gồm tầng lớp lao động và quần chúng lao động không thuộc giai cấp vô sản trong quá trình giành chính quyền và sau khi giành chính quyền thành công, có thể thông qua giáo dục, huấn luyện và thu hút quần chúng lao động càng ngày càng nhiều mà duy trì, củng cố và khuếch đại sự thống trị của mình.” [5]
Lenin nhấn mạnh hết lần này đến lần khác rằng, người cộng sản nhất thiết phải che giấu ý đồ thực sự của mình. Vì để thâu tóm quyền lực chính trị mà có thể hứa hẹn và thỏa hiệp bất kỳ điều gì. Nói cách khác là để đạt được mục đích thì không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Trong quá trình thâu tóm quyền lực, Bolshevik của Nga và ĐCSTQ thực sự đã phát huy hai thủ đoạn là bạo lực và lừa dối hết mức có thể.
Điều mà khá ít người chú ý là, trường phái chủ nghĩa cộng sản phi bạo lực kỳ thực cũng không bài xích bạo lực. Một trong những nhân vật đại biểu của Hội Fabian của Anh, nhà viết kịch Bernard Shaw, từng viết: “Tôi cũng nói rõ rằng: không có thu nhập đồng đều thì không có chủ nghĩa xã hội, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không có chỗ cho sự nghèo khó. Bất kể nguyện ý hay không, bạn đều sẽ bị cưỡng chế ăn no, mặc ấm, có nhà ở, được học hành, được bố trí việc làm. Nếu như phát hiện hạnh kiểm và sự chuyên cần của bạn không xứng với đãi ngộ thì bạn sẽ bị giết chết một cách nhẹ nhàng.” [6]
Hội Fabian giỏi ngụy trang, đã tuyển chọn được Bernard Shaw giỏi ăn nói, che đậy mục đích thực sự của chủ nghĩa xã hội phi bạo lực một cách thân thiện, dễ nghe, chỉ đến sau cùng mới lộ ra bộ mặt hung tàn. Trong thời kỳ chủ nghĩa cộng sản ở các quốc gia phương Tây vận động mạnh mẽ, phần tử Đảng Cộng sản và các loại tổ chức công khai, vì để áp chế những ngôn luận bất đồng, mà kích động, mê hoặc thanh niên tạo nên một bầu không khí khủng bố, khiến ai cũng cảm thấy bất an. Họ không tiếc tay sử dụng thủ đoạn bạo lực, đánh đập, cướp bóc, phóng hỏa, nổ bom, ám sát, nhằm quấy rối và đe dọa kẻ thù. Mô thức hành vi này so với Đảng Cộng sản là giống nhau như đúc.
2. Quốc tế Cộng sản – chiến tranh gián điệp và chiến tranh “tin đồn”
Chủ nghĩa cộng sản cho rằng nhà nước là công cụ để áp bức giai cấp và là sản phẩm của xã hội giai cấp. Xã hội chủ nghĩa cộng sản tiêu diệt giai cấp rồi thì tự nhiên cũng không cần nhà nước nữa. Vì vậy, “giai cấp công nhân không có tổ quốc”, trong đoạn cuối của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Marx và Engels kêu gọi: “Những người vô sản trên thế giới hãy đoàn kết lại!“ Sau khi Đảng Bolshevik do Lenin lãnh đạo thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ở Nga, đã nhanh chóng thiết lập “Quốc tế Cộng sản”, nhiệm vụ của nó là xuất khẩu cách mạng, khởi động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, và lật đổ chính quyền hợp pháp ở các quốc gia, thiết lập chế độ độc tài (chuyên chính) của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. ĐCSTQ thành lập năm 1921 thuộc về chi bộ Viễn Đông của Quốc tế thứ ba.
Dưới sự lãnh đạo của Lenin, Bolsheviks đã thành lập nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên tại Nga, liền sau đó thành lập Quốc tế Cộng sản nhằm kích động và truyền bá cách mạng xã hội chủ nghĩa ra khắp thế giới. Mục đích của Liên Xô và Quốc tế Cộng sản là lật đổ chính quyền hợp pháp của mỗi nước trên thế giới rồi thiết lập một chế độ chuyên chính vô sản xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Năm 1921, chi bộ Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản đã thành lập ĐCSTQ mà sau này giành được quyền cai trị ở Trung Quốc vào năm 1949.
Thực tế, không chỉ ĐCSTQ mà Đảng Cộng sản các quốc gia trên thế giới cũng đều nghe theo Quốc tế Cộng sản, nhận tiền trợ cấp và huấn luyện của nó. ĐCSLX cũng dựa vào sự hậu thuẫn của đế quốc khổng lồ đó mà tùy ý chiêu mộ các phần tử tích cực hoạt động từ khắp nơi trên thế giới, và huấn luyện họ trở thành “nhà cách mạng chuyên nghiệp” để thực hiện các hoạt động lật đổ tại quốc gia của họ.
Đảng Cộng sản Mỹ được thành lập vào năm 1919 là một tổ chức tuân theo Quốc tế Cộng sản và ĐCSLX cùng dạng như vậy. Trong gần 100 năm lịch sử, mặc dù Đảng Cộng sản Mỹ chưa bao giờ trở thành một đảng lớn sở hữu nhiều đảng viên, nhưng vẫn đang phát huy sức ảnh hưởng tương đối lớn ở Mỹ. Họ sử dụng các thủ đoạn linh hoạt và đa dạng, cấu kết với các đoàn thể cực đoan và các phần tử cực đoan trong xã hội Mỹ, thâm nhập vào các phong trào công nhân, phong trào học sinh, giáo hội, thậm chí là chính phủ Mỹ.
Tiến sỹ Fred Schwartz, người tiên phong trong phong trào chống cộng ở Mỹ, đã chỉ ra một cách sắc bén rằng: “Cố gắng đánh giá ảnh hưởng của Đảng Cộng sản từ số người của nó cũng giống như xác định thân tàu có an toàn hay không bằng cách so sánh diện tích của lỗ thủng và diện tích của phần bề mặt hoàn hảo. Một lỗ thủng này cũng đủ để làm cho toàn bộ con tàu chìm đắm. Lý luận của chủ nghĩa cộng sản là số ít người có kỷ luật khống chế và chỉ huy lý luận người khác. Một người nắm giữ vị trí nhạy cảm có thể khống chế và thao túng hàng nghìn người.” [7]
Trong nội bộ chính phủ Mỹ thời Chiến tranh Thế giới Thứ hai có rất nhiều điệp viên Liên Xô từ lâu đã không còn là bí mật. Tuy nhiên, bởi vì nỗ lực chống cộng sản của Thượng nghị sỹ Joseph McCarthy vào năm 1954 bị dập tắt, truyền thông, giới chính trị, giới học thuật cánh tả hợp lực che giấu nên các chứng cứ có liên quan vẫn không lọt được vào tầm nhìn của công chúng.
Trong những năm 1990, chính phủ Mỹ công bố “Hồ sơ Venona” mà Cục Tình báo Mỹ đã phá giải được mã điện báo tuyệt mật trong những năm 1940, trước khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc. Mã điện báo mật tiết lộ rằng, có ít nhất 300 điệp viên đang làm việc cho Liên Xô trong nội bộ chính phủ Mỹ, còn việc có bao nhiêu người dưới quyền chỉ huy của họ thì không thể biết được. Một số gián điệp giữ chức vụ cao trong chính phủ Roosevelt và có quyền truy cập vào các thông tin nhạy cảm tuyệt mật, một số lại có thể lợi dụng quyền hạn của mình để tác động đến đường hướng chính sách của Mỹ. Trong đó có Thứ trưởng Bộ Tài chính Harry Dexter White, quan chức Bộ Ngoại giao Alger Hiss, và vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg sau này bị xử tử bằng ghế điện vì gửi bí mật quân sự và công nghệ hạt nhân cho Liên Xô v.v.
Vì Hồ sơ Venona chỉ công bố phần nổi của tảng băng chìm nên cuối cùng có bao nhiêu tài liệu cơ mật của chính phủ Mỹ được tiết lộ cho Liên Xô thì vẫn chưa biết được. Nhưng quan trọng hơn là nhiều gián điệp Liên Xô này nắm giữ vị trí cao, và có cơ hội phát huy sức ảnh hưởng rất to lớn đến các quyết sách quan trọng trong chính phủ Mỹ.
Tại hội nghị hết sức quan trọng ở Yalta trước khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc, cố vấn Alger Hiss của Tổng thống Franklin D. Roosevelt đóng vai trò quan trọng trong các việc quan trọng như đưa ra quyết định xử lý lãnh thổ sau chiến tranh, trao đổi tù binh và soạn thảo Hiến chương LHQ, v.v.
Còn Harry Dexter White lại là một trong những trợ lý mà Bộ trưởng Tài chính Henry Morgenthau Jr. tin cậy nhất, tham gia hoạch định rất nhiều chính sách quan trọng, là nhà thiết kế chính của “Hội nghị Bretton Woods” (có vai trò xác lập trật tự kinh tế sau chiến tranh), và là một trong những nhân vật chính đứng sau việc sáng lập Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Chính White đã thúc giục Quốc Dân Đảng bổ nhiệm Ký Triều Đỉnh, đảng viên ngầm của ĐCSTQ, vào chức vụ cao cấp của Bộ Tài chính vào năm 1941, và chính người này đã “giúp” chính phủ Quốc dân Đảng đưa ra cải cách “Kim viên bản” (cuộc cải cách tiền tệ tai hại), khiến chính phủ mất hết tín nhiệm, tạo bàn đạp cho sự nổi lên của ĐCSTQ.
Một số nhà sử học tin rằng, do ảnh hưởng của gián điệp Xô-viết và phần tử thân cộng sản trong nội chiến giữa Quốc dân Đảng và ĐCSTQ sau những năm 1940 mà Mỹ ngừng viện trợ quân sự cho Quốc dân Đảng. Đây là một trong những nguyên nhân trọng yếu khiến Quốc dân Đảng mất Trung Quốc Đại lục vào tay ĐCSTQ.
Một số học giả, như M. Stanton Evans, nhấn mạnh rằng “Tác động đến chính sách” mới là tác dụng trọng yếu nhất của các điệp viên Liên Xô. [8] Whittaker Chambers, một tình báo của Liên Xô và là thành viên Đảng Cộng sản Mỹ, đã viết: “Những vị trí mà người của nước đối địch chiếm cứ khiến họ không chỉ có thể lấy được tài liệu, mà còn có thể ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của nước sở tại, khiến nó có lợi cho kẻ địch số một của quốc gia. Việc này không chỉ thể hiện trong một số thời khắc đặc thù… mà còn thể hiện trong số lượng lớn những quyết định được đưa ra hàng ngày.” [9]
Yuri Bezmenov, bí danh là Thomas Schumann, một điệp viên KGB của Liên Xô cũ, đã đào thoát thành công khỏi Liên Xô sang phương Tây vào năm 1970, đã tiết lộ trong các cuốn sách và các bài diễn giảng của mình về các thủ đoạn bí mật nhằm lật đổ phương Tây. Bezemenov chỉ ra rằng nhiều người phương Tây bị ảnh hưởng bởi các phim gián điệp kiểu James Bond, tin rằng thủ đoạn lật đổ phương Tây của Liên Xô cũng là thông qua gián điệp để đánh cắp thông tin, đánh sập cầu đường, nhưng điều này lại cách xa sự thật. Chỉ có 10% đến 15% nhân lực và tài nguyên của KGB được phân bổ vào hoạt động gián điệp truyền thống. Một lượng lớn nhân lực và tài nguyên được sử dụng vào việc thâm nhập và lật đổ hình thái ý thức.
Bezmenov phân tích chi tiết về quá trình và chiến lược, lĩnh vực và thủ đoạn của chiến lược lật đổ. Nhìn chung, việc lật đổ được chia thành bốn giai đoạn: Giai đoạn đầu, gây ra suy đồi văn hóa và đạo đức ở các quốc gia đối địch; giai đoạn hai, tạo ra tình trạng bất ổn xã hội tại các quốc gia này; giai đoạn ba, tạo ra khủng hoảng và khủng hoảng sẽ dẫn đến ba cục diện có thể xảy ra, đó là nội chiến, cách mạng, hoặc bị kẻ địch bên ngoài xâm lược, lúc này Đảng Cộng sản sẽ bắt đầu giai đoạn thứ tư, là nắm bắt cơ hội đoạt chính quyền, sau đó tiến đến “ổn định cục diện” để xây dựng quốc gia độc tài có chế độ một đảng dưới sự kiểm soát của ĐCS, gọi là “bình thường hóa”.
Theo lời của Bezmenov, mục tiêu Đảng Cộng sản thâm nhập chủ yếu gồm ba lĩnh vực lớn: 1) lĩnh vực tư tưởng, gồm có tôn giáo, giáo dục, truyền thông và văn hóa; 2) các tổ chức quyền lực gồm chính phủ, tòa án, cảnh sát, quân đội, và ngoại giao; 3) hoạt động xã hội, gồm gia đình và cộng đồng, y tế, quan hệ giữa người thuộc các sắc tộc khác nhau, quan hệ giữa tầng lớp lao động và tư bản. Bezmenov lấy khái niệm “bình đẳng” làm ví dụ để giải thích việc Đảng Cộng sản thâm nhập thông qua văn hóa như thế nào, từng bước gây ra rối loạn xã hội, từ đó tạo ra thời cơ cách mạng. Nhân viên tình báo thông qua các dạng phương thức để tuyên truyền “chủ nghĩa bình quân tuyệt đối”, làm cho người ta bất mãn với địa vị tình huống kinh tế chính trị của mình; sau khi bất mãn trở nên kịch liệt thì sẽ ảnh hưởng đến sức sản xuất, tiến đến ảnh hưởng đến quan hệ giữa giai cấp lao động và tư bản, gây ra các cuộc đình công, theo sau là suy thoái kinh tế, bất ổn xã hội, càng ngày càng nhiều người trở nên cực đoan mà tiến hành đấu tranh vì quyền lực, sau khi khủng hoảng toàn diện xảy ra, cơ hội để chủ nghĩa cộng sản tiến hành cách mạng hoặc xâm lược sẽ trở nên chín muồi. [10]
Ion Mihai Pacepa, cựu quan chức tình báo hàng đầu của cộng sản Romania, đã trốn sang Mỹ vào năm 1978, tiết lộ một cách toàn diện sách lược của chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô cũ trong việc phát động chiến tranh tâm lý và cuộc chiến “tin đồn” quy mô lớn với phương Tây. Ion Mihai Pacepa nhấn mạnh rằng mục đích của cuộc chiến tin đồn là sau khi cải biến hệ thống tham chiếu mà dân chúng dùng để xem xét vấn đề, tâm lý bị sửa đổi rồi, thì cho dù một người đối diện với sự thật cũng không thể chấp nhận và hiểu được nó, và trở thành “kẻ ngốc hữu dụng“. [11]
Bezmenov nói, giai đoạn đầu, lật đổ hình thái ý thức thường cần mất 15 đến 20 năm, đó cũng chính là thời gian một thế hệ tiếp thu giáo dục; giai đoạn hai từ 2 đến 5 năm; giai đoạn ba chỉ cần 3 đến 6 tháng. Trong bài phát biểu năm 1984, ông đã nói rằng giai đoạn đầu đã hoàn thành, và hiệu quả của nó vượt xa sự tưởng tượng của chính quyền Liên Xô.
Theo lời tự thuật của rất nhiều quan chức tình báo và điệp viên của Liên Xô cũ, cũng như các nghiên cứu giải mật các hồ sơ lưu trữ sau Chiến tranh Lạnh, chiến thuật thâm nhập của Liên Xô cũ là động lực thúc đẩy chủ yếu đằng sau phong trào chống văn hóa phương Tây những năm 1960.
Năm 1950, Thượng nghị sỹ Joseph McCarthy bắt đầu phơi bày sự thâm nhập của chủ nghĩa cộng sản vào chính phủ và xã hội Mỹ. Nhưng bốn năm sau, Thượng viện bỏ phiếu không tán thành, nỗ lực loại bỏ chủ nghĩa cộng sản trong nội bộ chính phủ Mỹ bị bỏ dở giữa chừng. Đó là lý do quan trọng cho sự xuống dốc nhanh chóng của Mỹ.
Hàng loạt vấn đề như sự thâm nhập hình thái ý thức của chủ nghĩa cộng sản không thuận theo việc Liên Xô tan rã và Chiến tranh Lạnh kết thúc mà suy giảm. Chẳng hạn như, nhiều năm qua, McCarthy bị các chính khách và truyền thông cánh tả phỉ báng. Đến nay, “Chủ nghĩa McCarthy” trở thành đồng nghĩa với “bức hại chính trị”, cho thấy cánh tả đã nắm giữ quyền lãnh đạo hình thái ý thức một cách chắc chắn.
Khi một nhà bình luận chính trị phái bảo thủ Mỹ nhớ lại hàng thập kỷ những anh hùng chống chủ nghĩa cộng sản như McCarthy ở Mỹ bị đàn áp và bôi nhọ đã trở thành một trào lưu, ông nói: “Phong trào bài Mỹ là một bộ phận hữu cơ cấu thành nên toàn bộ thế giới quan của cánh tả. Những người theo chủ nghĩa tự do đấu tranh đến cùng cho quyền lợi của những người ngoại tình, người làm nghề mại dâm, những người ủng hộ quyền phá thai, tội phạm và những người theo chủ nghĩa cộng sản. Họ theo bản năng ủng hộ tình trạng vô chính phủ, chống lại nền văn minh. Điều mà lập trường của người chủ nghĩa tự do không thể tránh khỏi chính là trở thành phản bội.”
3. Từ Chính sách Mới của Roosevelt đến chủ nghĩa tiến bộ
Vào ngày Thứ Năm đen tối, ngày 24 tháng 10 năm 1929, thị trường cổ phiếu của New York sụp đổ. Khủng hoảng lan rộng từ tài chính ngân hàng đến toàn bộ nền kinh tế. Không có quốc gia lớn nào của phương Tây may mắn tránh khỏi, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên đến hơn 25%. Tổng số người thất nghiệp trên toàn thế giới vượt quá 30 triệu người, ngoại trừ Liên bang Xô-viết, tỷ lệ sản xuất công nghiệp bình quân của các quốc gia công nghiệp chủ yếu giảm 27%. [12]
Vào đầu năm 1933, sau khi Roosevelt nhậm chức được 100 ngày đã liên tục công bố rất nhiều dự luật xoay quanh các chủ đề “giúp giải quyết khó khăn, hồi phục, cải cách”, nhằm tăng thêm sự can dự trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ đối với nền kinh tế. Quốc hội đã đề xuất ra “Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp”, “Luật Điều tiết Nông nghiệp”, “Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia”, “Luật An ninh Xã hội”. Sau khi Thế chiến II bùng nổ, Chính sách Mới (New Deal) của Roosevelt về cơ bản đã kết thúc, nhưng một số chế độ hoặc cơ cấu từ thời kỳ Chính sách Mới vẫn còn phát huy ảnh hưởng cho đến nay.
Số lệnh mà Tổng thống Roosevelt đã ban hành vượt quá tổng số lệnh mà tất cả tổng thống sau ông ban hành trong thế kỷ 20. Nhưng mãi đến cuối những năm 1930, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn không giảm xuống dưới hai con số. Kể từ khi có chính sách mới của Roosevelt, chính phủ Mỹ đã bắt đầu đi theo con đường thu thuế cao, chính phủ lớn, chủ nghĩa can thiệp. Trong tác phẩm “Lời nói dối lớn:Vạch trần gốc rễ Phát xít Đức của cánh tả Mỹ ” của mình năm 2017, nhà tư tưởng phái bảo thủ Dinesh D’Souza đã chỉ ra rằng: “Đạo luật Phục hồi Quốc gia” là một chính sách quan trọng nhất của Roosevelt, cũng là trung tâm của Chính sách Mới. Về cơ bản, đạo luật này đã gióng lên hồi chuông báo tử cho thị trường tự do của Mỹ.” [13]
Theo cuốn “Sự điên rồ của Franklin D. Roosevelt” (FDR’s Folly), một cuốn sách của Nhà sử học Jim Powell được xuất bản vào năm 2003, đã đưa ra đầy đủ tư liệu lịch sử chứng minh rằng Chính sách Mới của Roosevelt còn kéo dài thêm chứ không phải là chấm dứt cuộc khủng hoảng: chính sách mới chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản, Luật An sinh Xã hội và luật lao động càng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, thu thuế cao đã hủy hoại mô hình kinh doanh lành mạnh, v.v. [14] Chủ nhân giải Nobel Kinh tế học Milton Friedman ca ngợi cuốn sách này là “Vô cùng xác thực và không còn nghi ngờ gì là Powell đã chứng minh Chính sách Mới gây trở ngại cho việc phục hồi kinh tế khỏi cơn suy thoái, kéo dài và tăng thêm thất nghiệp, chuẩn bị điều kiện cho một chính phủ có quyền can thiệp hơn và tốn kém hơn.” [15]
Năm 1963, Tổng thống Lydon Johnson nhậm chức sau khi Tổng thống Kennedy bị ám sát. Trong bài phát biểu Nhà nước Liên bang năm 1964, ông đã khởi động phong trào “Tuyên chiến với đói nghèo“ và “Xã hội vĩ đại”. Trong một thời gian ngắn, Johnson đã ban hành một loạt sắc lệnh của tổng thống, đưa ra hàng loạt luật, thành lập các cơ quan chính phủ mới, mở rộng các chương trình phúc lợi, tăng thuế và nhanh chóng mở rộng quyền hạn của chính phủ.
Điều thú vị là các biện pháp điều hành của Tổng thống Johnson giống hệt cuốn sách “Cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Mỹ” được xuất bản năm 1966. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gus Hall giải thích cương lĩnh này như sau: “Thái độ của Đảng Cộng sản đối với ‘Xã hội vĩ đại’ có thể khái quát bằng một câu ngạn ngữ cổ ‘Đồng sàng dị mộng’. Người trong Đảng Cộng sản chúng ta ủng hộ ‘Xã hội vĩ đại’ đến từng hành động, bởi vì giấc mơ của chúng ta là xã hội chủ nghĩa.”
Cái mà Hall gọi là “đồng sàng” là chính sách ‘Xã hội vĩ đại’. [16] Mặc dù cùng ủng hộ hành động của “Xã hội vĩ đại” nhưng ý nguyện ban đầu của chính phủ Johnson là để cải thiện chế độ dân chủ, còn Đảng Cộng sản Mỹ là để từng bước đưa Mỹ tiến vào xã hội chủ nghĩa.
Hai phong trào “Xã hội vĩ đại” và “Cuộc chiến chống đói nghèo“ gây ra ba hậu quả nghiêm trọng nhất: gia tăng sự ỷ lại của người dân vào phúc lợi, càng ngày càng nhiều người trẻ tuổi khỏe mạnh từ chối làm việc, và chính sách phúc lợi khiến gia đình tan vỡ nhanh chóng hơn. Ví dụ như chính sách phúc lợi chăm sóc gia đình đơn thân, hậu quả thực tế là khuyến khích ly hôn, sinh con trước hôn nhân và sinh con ngoài giá thú. Theo số liệu thống kê, vào năm 1940 tỷ lệ sinh ngoài hôn nhân chiếm 3,8% toàn bộ trẻ sơ sinh, con số này đến năm 1965 là 7,7%. Trong vòng 25 năm sau cải cách “Xã hội vĩ đại”, vào năm 1990 con số này đã tăng lên 28% và tăng lên đến 40% vào năm 2012. [17]
Sự tan vỡ của các gia đình gây ra hàng loạt hệ lụy xã hội, như gánh nặng tài chính cực lớn cho chính phủ, tỷ lệ tội phạm tăng vọt, giáo dục gia đình suy thoái, một nhà mấy đời không cách nào thoát khỏi nghèo khó, tư tưởng không làm mà hưởng trở nên thâm căn cố đế, từ đó tạo thành đội quân tự nguyện thất nghiệp v.v.
Ngài Alexander Fraser Tytler, nhà sử học người Scotland nói: “Chế độ dân chủ không thể trở thành một hình thái chính phủ lâu đời. Một khi dân chúng phát hiện ra rằng họ có thể thông qua bỏ phiếu để chọn ra ứng cử viên có thể giúp họ lấy được nhiều quyền lợi nhất từ quốc khố thì chế độ dân chủ sẽ kết thúc. Hầu hết các cử tri sẽ luôn bầu cho ứng cử viên hứa hẹn dành cho họ nhiều thứ tốt nhất từ tài chính công, việc này cũng khiến cho chế độ dân chủ sụp đổ do chính sách tài chính lỏng lẻo, cuối cùng bị chế độ độc tài thay thế.” [18]
Có câu ngạn ngữ rằng “Từ tiết kiệm thành hoang phí thì dễ, mà từ hoang phí thành tiết kiệm thì khó.” Sau khi dân chúng trở nên ỷ lại vào phúc lợi rồi, nếu chính phủ muốn giảm số lượng và chủng loại phúc lợi, thì có thể nói là khó hơn lên trời. “Nhà nước phúc lợi” trở thành một bệnh chính trị của các quốc gia Tây phương, khiến rất nhiều chính trị gia và các học giả không thể làm được gì.
Sau những năm 1970, phái cực tả đã từ bỏ những ngôn ngữ cách mạng khiến người dân Mỹ cảnh giác, và thay thế bằng “chủ nghĩa tiến bộ” và “chủ nghĩa tự do” mang màu sắc trung lập hơn. Người đọc sống ở các quốc gia cộng sản nhất định là không xa lạ gì với “tiến bộ”, “tiến bộ” vẫn luôn bị Đảng Cộng sản sử dụng như ẩn ngữ cho “chủ nghĩa cộng sản”, ví dụ như “phong trào tiến bộ” là đề cập đến “phong trào chủ nghĩa cộng sản”, “phần tử tri thức tiến bộ” là đề cập đến “phần tử thân cộng sản” hoặc dứt khoát là đảng viên ngầm. “Chủ nghĩa tự do”, “Chủ nghĩa tiến bộ” cũng thế, thực ra cũng không khác nhau, ý nghĩa đều là thu thuế cao, phúc lợi cao, bao cấp, chống tôn giáo, chống đạo đức, chống truyền thống, “công bằng xã hội”, phải đạo chính trị, đề cao nữ quyền, các quyền lợi của những người đồng tính luyến ái và biến thái về tính dục, đều là các danh từ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chúng tôi không có ý định chỉ trích chính trị gia hay cá nhân nào, trong giai đoạn lịch sử rối ren phức tạp này, nếu muốn đưa ra nhận xét và phân tích chính xác, thực ra rất khó. Sau khi từng trang sử mở ra, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng từ đầu thế kỷ 20 đến nay, tà linh cộng sản đồng thời hạ thủ ở cả phương Tây và phương Đông, đồng thời với cách mạng bạo lực xảy ra ở phương Đông, chính phủ và xã hội ở các nước phương Tây đều bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cộng sản, dần dần theo tả khuynh. Ví dụ như Mỹ, sau Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã áp dụng ngày càng nhiều chính sách của chủ nghĩa xã hội. “Phúc lợi quốc gia” làm tăng sức ỳ và sự ỷ lại của người dân vào chính phủ, cùng lúc đó, chủ nghĩa vô Thần và chủ nghĩa duy vật nhanh chóng làm xói mòn nền tảng đạo đức của xã hội Mỹ, rời xa Thần, rời xa đạo đức truyền thống. Đối diện với đầy rẫy mánh khóe bịp bợm, đa dạng của chủ nghĩa cộng sản, rồi dần dần mất đi khả năng kháng cự.
4. Đại Cách mạng Văn hóa ở phương Tây
Những năm 60 là ranh giới của lịch sử hiện đại. Một cuộc vận động phản văn hóa trước đây chưa từng có tiền lệ đã bao phủ toàn cầu từ phương Đông đến phương Tây. Khác với Đại Cách mạng Văn hóa Trung Quốc do ĐCSTQ khởi phát, cuộc vận động phản văn hóa của các quốc gia phương Tây trên bề mặt là cuộc vận động có nhiều trung tâm, hay nói cách khác là không có trung tâm. Trong thời gian hơn mười năm từ những năm 1960 đến những năm 1970, những người tham gia cuộc vận động quy mô lớn này (phần lớn là thanh niên) dường như xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau, có những theo đuổi khác nhau. Trong đó, có người phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ, có người đấu tranh nhân quyền cho người da màu, có người phản đối phụ quyền, đấu tranh cho nữ quyền, có người đấu tranh đòi quyền lợi cho người đồng tính luyến ái. Trong đó còn hỗn tạp với phản văn hóa truyền thống, chống đối chính quyền, truy cầu chủ nghĩa giải phóng tính dục và hưởng lạc, thúc đẩy sử dụng ma túy, nhạc rock and roll v.v. khiến người ta hoa cả mắt.
Mục tiêu của “Đại Cách mạng Văn hóa phương Tây” là hủy đi văn minh Cơ Đốc giáo chính thống và văn hóa truyền thống của phương Tây. Điều này có vẻ như hiện tượng văn hóa toàn cầu loạn tạp bừa bãi, nhưng căn bản là đến từ chủ nghĩa cộng sản. Marx, Marcuse và Mao Trạch Đông (gọi là “3M”) là đối tượng mà những thanh niên nổi loạn sùng bái.
Herbert Marcuse là thành viên quan trọng của “phái Frankfurt”, một nhóm trí thức theo chủ nghĩa Marx là thành viên của Viện Nghiên cứu Xã hội của Đại học Goethe ở Frankfurt, Đức. Năm 1923, viện nghiên cứu này vừa mới thành lập đã cất nhắc tên gọi “Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Marx”, vì để che tai mắt người khác, bèn đặt một cái tên trung tính là “Viện Nghiên cứu Xã hội”. [19] György Lukács, một trong những người sáng lập phái Frankfurt, một người Hungary theo chủ nghĩa Marx, có “câu nói nổi tiếng”: “Ai có thể cứu chúng ta khỏi nền văn minh phương Tây?” [20] Marcuse đã phát triển câu nói này như sau: “Phương Tây đã phạm vào tội diệt chủng đối với mỗi một nền văn minh và văn hóa mà nó tiếp xúc. Văn minh của Mỹ và phương Tây là nơi tập hợp của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, kỳ thị giới tính, chủ nghĩa bài ngoại, chủ nghĩa phản Do Thái, chủ nghĩa Phát xít và chứng tự yêu bản thân. Xã hội Mỹ là áp bức con người, là tà ác, không xứng đáng để thành tâm cống hiến sức lực.” Hiển nhiên là phái Frankfurt coi văn hóa truyền thống phương Tây là kẻ thù chủ yếu, muốn thông qua việc hủy diệt văn hóa để cuối cùng giành được quyền lãnh đạo ý thức hệ và quyền lãnh đạo chính trị.
Năm 1935, những người theo chủ nghĩa Marx phái Frankfurt sang Mỹ và liên kết với trường Đại học Columbia ở New York. Phái Frankfurt và những tri thức cánh tả bản địa Mỹ cùng nhau truyền bá chủ nghĩa Marx và biến thể của nó, đã làm hỏng nhiều thế hệ thanh thiếu niên của Mỹ sau này.
Lý luận của Marcuse đã hấp thu chủ nghĩa Marx và tư tưởng loạn tính dục của Freud, chủ trương giải phóng sự áp chế của văn minh đối với tính dục, là một trong những bàn tay chủ yếu thúc đẩy trào lưu giải phóng tình dục. Marcuse cho rằng, nếu muốn đạt được tự do và giải phóng, tất phải xóa bỏ sự tiết chế quá mức của xã hội chủ nghĩa tư bản đối với bản năng con người, vì thế, tất phải phản đối tất cả các tôn giáo và đạo đức, trật tự, và quyền lực truyền thống, biến xã hội thành Utopia, tức là một xã hội không tưởng có thể hưởng lạc vô độ mà không phải làm việc.
Tác phẩm tiêu biểu của Marcuse “Ái dục và văn minh” chiếm một vị trí quan trọng trong số lượng khổng lồ các tác phẩm của phái Frankfurt, điều này có hai nguyên nhân. Thứ nhất, trong quyển sách này, Marcuse đã hoàn thành sự kết hợp giữa tư tưởng của Marx và Freud, biến phê bình của Marx về chính trị kinh tế thành phê bình tâm lý và văn hóa; thứ hai, quyển sách này đã trở thành cầu nối giữa phái Frankfurt và độc giả thanh niên, trực tiếp gây ra cuộc nổi loạn văn hóa của những năm 1960.
Marcuse nói: “[Cuộc vận động phản văn hóa có thể được gọi là] cách mạng văn hóa, bởi vì đối tượng bị nhắm tới là toàn bộ thể chế văn hóa, bao gồm đạo đức của xã hội hiện nay… Có một điểm xác thực không thể nghi ngờ: quan niệm cách mạng truyền thống và chiến lược cách mạng truyền thống đã tới hồi kết. Những khái niệm này quá cổ hủ… Chúng ta phải dùng phương thức phân tán để khiến thể hệ này sụp đổ và tan rã.” [21]
Số thanh niên nổi loạn có thể đọc hiểu lý luận rắc rối của phái Frankfurt thì chẳng được bao nhiêu, nhưng những ý chính của tư tưởng của Marcuse lại rất đơn giản rõ ràng: phản truyền thống, chống đối chính quyền, phản đạo đức. Chìm đắm trong tình dục, ma túy, nhạc rock and roll không kiềm chế, “Hãy làm tình, đừng chiến tranh”. Chỉ cần nói “không” với tất cả quyền lực và khuôn phép, thì đã được tính là tham gia vào “sự nghiệp cách mạng cao thượng”, loại cách mạng tự cảm thấy mình là tốt đẹp này rẻ tiền và dễ thực hiện biết mấy! Chẳng trách những thanh niên thời ấy chạy theo như vịt.
Điều nhất thiết phải nhấn mạnh là, mặc dù rất nhiều thanh niên nổi loạn là tự phát, nhưng rất nhiều lãnh đạo sinh viên cấp tiến nhất, thuộc hàng ngũ tiên phong của phong trào này lại chịu sự huấn luyện và thao túng của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, trong đó có các lãnh đạo “Tổ chức Sinh viên Đấu tranh vì Xã hội Dân chủ” (SDS) được huấn luyện ở Cuba; các cuộc biểu tình của sinh viên là do các đoàn thể chủ nghĩa cộng sản trực tiếp tổ chức và xúi giục. Từ “Tổ chức Sinh viên Đấu tranh vì Xã hội Dân chủ” đã phân hóa ra phe cực tả “Người dự báo thời tiết” (Weathermen). Năm 1969, phe cực tả này đã tuyên bố: “Mâu thuẫn giữa nhân dân cách mạng châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu là mâu thuẫn chủ yếu của thế giới hiện nay. Sự phát triển của mâu thuẫn này đang thúc đẩy sự đấu tranh của nhân dân toàn thế giới phản đối chủ nghĩa đế quốc Mỹ và tay sai của nó.” Đây là lời của nhân vật quyền lực số hai của ĐCSTQ, Lâm Bưu, trong loạt bài viết mang tên “Chiến tranh nhân dân thắng lợi vạn tuế!” [22]
Cũng như Đại Cách mạng Văn hóa đã gây ra sự phá hoại không thể cứu vãn đối với Trung Quốc và xã hội, sự sụp đổ của văn hóa xã hội phương Tây do cuộc vận động phản văn hóa cũng khiến người ta kinh tâm động phách như thế. Thứ nhất, nó biến văn hóa ngoài lề, văn hóa hạ lưu, văn hóa biến dị trở thành văn hóa chủ lưu. Giải phóng tình dục, ma túy, nhạc rock and roll nhanh chóng ăn mòn quan niệm đạo đức của thanh thiếu niên, “bồi dưỡng” họ thành lực lượng ăn mòn tiềm ẩn phản Thần, phản truyền thống và phản xã hội. Thứ hai, nó đã tạo ra tiền lệ cho cách mạng đường phố, nuôi dưỡng phương thức tư duy phản xã hội, phản Mỹ rộng rãi, đã tạo nên tiền lệ cho cách mạng đường phố sau này. Thứ ba, sau khi cách mạng đường phố thập niên 60 của những người trẻ tuổi bị thất bại, họ vào đại học, vào viện nghiên cứu, hoàn thành học vị thạc sỹ, tiến sỹ, sau đó bước vào giới chủ lưu Mỹ, đưa thế giới quan và giá trị quan của chủ nghĩa Marx vào giáo dục, truyền thông, chính trị, công thương, phát động một cuộc cách mạng phi bạo lực nhằm quét sạch xã hội Mỹ.
Sau thập niên 80 của thế kỷ trước, hầu hết các phương tiện truyền thông, các trường đại học, cao đẳng, và Hollywood đã trở thành đại bản doanh của cánh tả. Khi Tổng thống Reagan còn tại chức, trong giới chính trị đã có xu thế hơi đảo ngược trào lưu này, nhưng từ thập niên 90 trở đi lại tiếp tục chuyển hướng về hướng phía tả, và đạt đến đỉnh điểm vào những năm gần đây.
5. Phong trào Hòa bình Phản chiến và Phong trào Dân quyền
Trong tiểu thuyết “1984” của George Orwell, một trong bốn bộ của Châu Đại dương là Bộ Hoà bình, cơ quan giám sát các vấn đề quân sự; nhiệm vụ của bộ này là phát động chiến tranh. Cái tên khá hài hước này thực ra có ý nghĩa sâu sắc: Khi sức mạnh của mình không bằng quân địch, sách lược tốt nhất là tuyên bố nguyện vọng hòa bình. Khi muốn phát động chiến tranh, cách che đậy tốt nhất là giương cao cành ôliu (biểu tượng hòa bình). Không chỉ Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác sử dụng những sách lược này vô cùng thành thạo, cho đến hôm nay chủ nghĩa cộng sản Quốc tế vẫn hay sử dụng danh nghĩa này làm công cụ chủ yếu để thâm nhập vào phương Tây, làm tê liệt và tấn công nhân dân của thế giới tự do.
Hội đồng Hòa bình Thế giới được thành lập vào năm 1948. Joliot Curie, chủ tịch đầu tiên của tổ chức này là nhà vật lý người Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Tại thời điểm kết thúc Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ vẫn là nước duy nhất phát triển thành công bom nguyên tử. Sau thất bại lớn trong Thế chiến Thứ hai, Liên Xô ra sức thúc đẩy “Hoà bình thế giới” như một thủ đoạn để giảm áp lực của phương Tây. Hội đồng Hòa bình Thế giới do Ủy ban Hòa bình Xô-viết thuộc ĐCSLX trực tiếp kiểm soát. Tổ chức này rêu rao khắp thế giới rằng Liên Xô là quốc gia yêu hòa bình, và lên án Mỹ là kẻ gây chiến số một thế giới, là kẻ thù của hòa bình.
Mikhail Suslov, lãnh tụ hệ tư tưởng và là quan chức cấp cao của Liên Xô tung hô khẩu hiệu “đấu tranh vì hòa bình” mà sau này trở thành một uyển ngữ của Liên Xô.
Trong một bài tiểu luận tuyên truyền năm 1950, Suslov viết: “Phong trào chống chiến tranh cho thấy ý chí và nguyện vọng của quần chúng khắp nơi đối với việc bảo vệ hòa bình và phòng chống quân xâm lược đẩy nhân loại xuống vực thẳm của một cuộc thảm sát khác.” Nhiệm vụ lúc này là biến ý chí của quần chúng thành hành động cụ thể, thiết thực nhằm đẩy lùi kế hoạch và biện pháp của bè lũ kích động chiến tranh người Mỹ gốc Anh.” [23]
Liên Xô đã nuôi dưỡng một lượng lớn các tổ chức, đoàn thể như Hội Liên hiệp Thanh niên Thế giới, Hội Liên hiệp Công đoàn Thế giới, Hội Liên hiệp Phụ nữ Quốc tế, Hiệp hội Nhà báo Quốc tế, Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Thế giới, Hiệp hội các Nhà Khoa học Thế giới, v.v. với chức năng phối hợp chặt chẽ với Hội đồng Hòa bình Thế giới. “Hoà bình thế giới” trở thành trận địa tuyến đầu của cuộc chiến dư luận của chủ nghĩa cộng sản nhắm vào thế giới tự do. Hội đồng Hòa bình Thế giới thực sự là một tổ chức ngoại vi của Quốc tế Cộng sản.
Năm 1982, Vladimir Bukovsky, một người chống Xô-viết lỗi lạc, viết: “Những người thuộc thế hệ trước chắc vẫn còn nhớ những cuộc diễu hành, biểu tình, và thỉnh nguyện những năm 1950… Giờ đây, việc toàn bộ chiến dịch đó là do Moscow tổ chức, tiến hành, và tài trợ thông qua cái gọi là Quỹ Hòa bình và Hội đồng Hòa bình Thế giới do Liên Xô chi phối chẳng còn là bí mật nữa.” [24]
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gus Hall nói: “Mỗi ngày đều phải lôi kéo nhiều người hơn tham gia vào cuộc đấu tranh đòi hòa bình. Lá cờ hòa bình giúp chúng ta khiến quần chúng đoàn kết xung quanh chúng ta. Giương cao lá cờ này, chúng ta sẽ thu được nhiều thắng lợi hơn.” Hall, Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ lập tức đáp lại: “Cần phải mở rộng cuộc đấu tranh vì hòa bình, khiến nó thăng cấp, thu hút nhiều người hơn nữa, biến nó trở thành vấn đề nóng của mỗi cộng đồng, mỗi đoàn thể nhân dân, mỗi công đoàn, mỗi giáo hội, mỗi gia đình, mỗi con đường, mỗi nơi tụ tập quần chúng…” [25]
Có ba cao trào trong phong trào hòa bình phản chiến trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Lần đầu tiên xuất hiện vào đầu những năm 1950. Phong trào chống chiến tranh lên đỉnh điểm lần thứ hai trong cuộc chiến tranh Việt Nam vào những năm 1960 và 1970. Theo lời khai của Stanislav Louv, cựu quan chức thuộc cấp cao nhất của GRU (viết tắt của Tổng cục Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu Liên Xô cũ), người đào thoát khỏi Nga sang Mỹ vào năm 1992, hỗ trợ tài chính của Liên Xô cho tuyên truyền phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam tại các quốc gia phương Tây nhiều gấp đôi tài trợ quân sự và kinh tế cho Bắc Việt. Ông nói: “GRU và KGB đã tài trợ cho hầu hết các cuộc vận động và các nhóm phản chiến ở Mỹ và các nước khác ” [26]
Ronald Radosh, một người từng theo chủ nghĩa Marx, từng hoạt động trong phong trào phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam, đã thừa nhận rằng: “Ý đồ thực sự của phong trào phản chiến từ trước đến nay không phải là để kết thúc chiến tranh mà là lợi dụng tâm lý phản chiến để tạo ra một cuộc vận động xã hội chủ nghĩa mới cho cách mạng trong nội bộ Mỹ.” [27]
Cao trào thứ ba của phong trào phản chiến xảy ra vào đầu những năm 1980, khi Mỹ triển khai tên lửa hạt nhân tầm trung ở Tây Âu. Mặc dù phong trào phản đối hạt nhân ở Châu Âu yêu cầu cả Liên Xô và Mỹ đồng thời hạn chế vũ khí hạt nhân, nhưng Liên Xô chưa bao giờ tuân thủ bất cứ hiệp ước quốc tế nào.
Một nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp thuộc Thượng Viện Mỹ vào năm 1955 đã phát hiện rằng, trong 38 năm kể từ khi thành lập, Liên Xô đã ký kết gần 1.000 hiệp định song phương hoặc đa phương với các quốc gia trên thế giới và vi phạm gần như tất cả các cam kết trong các hiệp định này. Tác giả của nghiên cứu này nhận định rằng Liên Xô có lẽ là nước ít đáng tin cậy nhất trong tất cả những nước lớn trong lịch sử. [28] Bởi vậy, phong trào phản đối vũ khí hạt nhân thực ra chỉ nhắm vào Mỹ.
Trevor Loudon đã chỉ ra rằng, trong thập niên 80, phong trào phản đối vũ khí hạt nhân của New Zealand đã được đặc công Liên Xô bồi dưỡng để thực hiện trong ứng ngoài hợp, kết quả là New Zealand đã rút khỏi Liên minh Quân sự Australia-New Zealand-Mỹ (ANZUS), trực tiếp đặt quốc gia nhỏ bé này với số dân chưa đến 4 triệu người dưới sự đe doạ của chủ nghĩa cộng sản. [29]
Sau vụ tấn công ngày 11/9, hàng loạt cuộc diễu hành và biểu tình phản chiến quy mô lớn nổ ra tại Mỹ. Đứng sau những cuộc biểu tình này là các tổ chức có liên quan chặt chẽ với các tổ chức cộng sản. [30]
Đằng sau các phong trào dân quyền ở Mỹ vốn được đánh giá tích cực trong nhiều sách lịch sử, cũng có bóng ma của chủ nghĩa cộng sản. So sánh với các cuộc cách mạng cộng sản ở Trung Quốc, Cuba và Algeria, nhà tư tưởng người Mỹ G.Edward Griffin đã khám phá ra rằng phong trào dân quyền ở Mỹ có cùng hình thức với các cuộc cách mạng trên: trong giai đoạn đầu, người dân được phân thành các nhóm đối địch nhau; giai đoạn thứ hai là thành lập mặt trận thống nhất, tạo ra ảo tưởng rằng phong trào này đã được ủng hộ rộng rãi; giai đoạn thứ ba là tiến công dẹp phái phản đối; giai đoạn thứ tư là kích động bạo lực; giai đoạn thứ năm là “trình diễn” một cuộc cách mạng, thực tế là phát động một cuộc đảo chính và chờ thời cơ đoạt chính quyền. [31]
Bắt đầu từ cuối những năm 1920, Đảng Cộng sản Công nhân Mỹ phát hiện ra tiềm năng to lớn để tiến hành cách mạng trong những người Mỹ da đen. Họ kêu gọi thành lập nước “Cộng hòa Người da đen” Xô-viết ở trung tâm miền Nam, nơi có nhiều người da đen. [32] Một cuốn sách tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản xuất bản vào năm 1934 có tên “Người da đen Mỹ Xô-viết“ chủ trương kết hợp cuộc cách mạng chủng tộc người da đen ở miền Nam với cuộc cách mạng giai cấp vô sản. [33]
Cuộc vận động dân quyền ở Hoa Kỳ trong những năm 1960 đã nhận được ủng hộ của ĐCSTQ và ĐCSLX. Sau khi Leonard Patterson, một người da đen từng tham gia Đảng Cộng sản Mỹ và cũng từng được huấn luyện tại Moscow, đã rút khỏi Đảng Cộng sản Mỹ, đã đưa ra bằng chứng rằng sự bạo động và gây rối của người da đen đã được ĐCSLX hỗ trợ mạnh mẽ. Chính ông đã từng đi cùng Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gus Hall sang Moscow để huấn luyện. [34]
Phong trào dân quyền của người da đen lên cao cũng trùng hợp với việc “xuất khẩu cách mạng” của ĐCSTQ. Sau năm 1957, tư tưởng ngoại giao của ĐCSTQ từ từ trở nên cực đoan. Năm 1965, ĐCSTQ ngang nhiên đưa ra khẩu hiệu “cách mạng quốc tế”, kêu gọi con đường “toàn bộ nông thôn” (ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latin) bao vây “các thành phố trên thế giới” (Tây Âu và Bắc Mỹ), hệt như khi ĐCSTQ chiếm lĩnh nông thôn rồi đánh bật Quốc dân Đảng ở các thành phố trong cuộc Nội chiến của Trung Quốc.
Các tổ chức mang màu sắc bạo lực nhất trong phong trào đòi quyền cho người da đen, như Phong trào Hành động Cách mạng, Đảng Báo đen Chủ nghĩa Mao (Black Panther Party), đều nhận được sự hậu thuẫn hoặc chịu ảnh hưởng trực tiếp của ĐCSTQ. Phong trào Hành động Cách mạng chủ trương cách mạng bạo lực và bị xã hội chủ lưu xem như là tổ chức cực đoan nguy hiểm, đến sau năm 1969 thì tan rã. Đảng Báo đen hoàn toàn là học từ ĐCSTQ, từ hình thức đến đến nội dung, với những khẩu hiệu như “Quyền lực đến từ nòng súng”, “Mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân”, “Những câu nói của Chủ tịch Mao” (Sách đỏ nhỏ) là sách cần phải đọc. Giống như ĐCSTQ, Đảng Báo đen chủ trương một cuộc cách mạng bạo lực. Vào năm 1968 lãnh đạo đảng này là Eldridge Cleaver, dự đoán rằng “Đại thảm sát sắp đến. Giai đoạn bạo lực giải phóng người da đen đang đến, nó sẽ truyền bá rộng khắp. Trong làn đạn và máu tươi, Mỹ sẽ bị nhuộm màu đỏ. Xác chết sẽ nằm chồng chất trên đường…” Những người khác cũng cổ xúy bạo lực, chiến tranh du kích, thậm chí là khủng bố. Trong nhiều cuộc mít tinh của người da đen, những người tham gia vẫy “Sách đỏ nhỏ” “Những câu nói của Chủ tịch Mao”, hội trường hội nghị toàn là màu đỏ, giống hệt Trung Quốc vào thời kỳ đó. [35]
Mặc dù nhiều đòi hỏi của phong trào dân quyền được xã hội chủ lưu chấp nhận nhưng các tư tưởng cách mạng cực đoan của người da đen không biến mất hẳn. Trong những năm gần đây, nó lại xuất hiện trong phong trào “Người da đen cũng là người”. [36]
Người dân khắp thế giới đều mong cầu hòa bình, và những tư tưởng và thực tiễn của chủ nghĩa hòa bình khởi nguồn từ thời cổ đại hàng ngàn năm trước. Từ thế kỷ 20 đến nay cũng có nhiều người giàu tình thương và có tầm nhìn xa đã vất vả bôn ba để tiêu trừ đi hiểu lầm và thù địch giữa các quốc gia. Vì nguyên nhân lịch sử, nhiều quốc gia phương Tây như Mỹ vẫn tồn tại hiện tượng phân biệt chủng tộc. Người ta thông qua giáo dục và tuyên truyền, thậm chí là biểu tình của dân chúng để xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc là điều dễ lý giải. tà linh cộng sản lợi dụng các xu hướng tư tưởng và mâu thuẫn tồn tại trong xã hội để kích động hận thù, khích bác ly gián, gây ra bạo lực, lừa gạt và lôi kéo rất nhiều người dân vốn ban đầu không có ác ý.
6. Những người theo chủ nghĩa Marx mới sùng bái Sa-tăng
Vào những năm 1960, khi cách mạng đường phố của thanh niên phương Tây tiến hành hừng hực khí thế thì có một người coi sự ngây thơ, chân thành và chủ nghĩa lý tưởng của họ không ra gì. Ông nói: “Nếu người cấp tiến chân chính thấy tóc dài tạo chướng ngại tâm lý cho việc giao lưu và tổ chức thì hãy cắt tóc đi.” Người này chính là Saul Alinsky, một phần tử cấp tiến, thông qua viết sách, bồi dưỡng học sinh, và đích thân giám sát việc thực thi lý luận của mình mà trở thành người theo chủ nghĩa cộng sản biến tướng có ảnh hưởng lớn nhất, tai hại nhất trong vài chục năm qua.
Ngoài sùng bái những kẻ độc tài của chủ nghĩa cộng sản như Lenin và Castro, Alinsky còn công khai ca ngợi quỷ Sa-tăng. Trong lời tựa cho cuốn sách được truyền bá rộng nhất Alinsky – “Quy tắc của những người cấp tiến” (Rules for Radicals) (1971) – có đoạn: “Hãy đừng quên ít nhất là sự tri ân thành kính đến người cấp tiến đầu tiên: từ tất cả các truyền thuyết, thần thoại và lịch sử của chúng ta (và những ai cần biết thần thoại khép lại và lịch sử mở ra từ đâu – hay đâu là thần thoại, đâu là lịch sử), người cấp tiến đầu tiên mà nhân loại biết đến là người nổi loạn chống lại đấng quyền uy và làm điều đó hiệu quả đến mức ít nhất ông đã giành được vương quốc của riêng mình – Lucifer.”
Sở dĩ Alinsky được gọi là “người theo chủ nghĩa cộng sản biến tướng” là vì khác với “Cánh tả Cũ” (cánh tả chính trị) của những năm 1930 và “Cánh tả Mới” (cánh tả văn hóa) của những năm 1960, Alinsky không thể hiện rõ ràng lý tưởng chính trị của mình. Quan điểm tổng quan của ông ta là thế giới có người “hữu sản”, người thiểu sản (có ít tài sản nhưng muốn có nhiều hơn), và người vô sản (the have-nots). Ông ta kêu gọi người vô sản tạo phản với người hữu sản bằng bất kỳ thủ đoạn nào để cướp đoạt quyền lực và tài phú nhằm đạt được một xã hội “công bằng” tuyệt đối. Ông ta tìm cách đoạt quyền lực bằng mọi thủ đoạn, đồng thời phá hủy hệ thống xã hội hiện có. Có học giả gọi ông ta là “Lenin của thế hệ cánh tả hậu cộng sản“ và là “Tôn Tử” của nó. [1]
Trong bộ sách “Quy tắc của những người cấp tiến” xuất bản năm 1971, Alinsky diễn giải một cách hệ thống lý luận và phương pháp “tổ chức cộng đồng”. Những quy tắc này bao gồm: “tốc chiến tốc quyết”, “đối với kẻ địch thì duy trì áp lực thật lớn”, “uy hiếp còn đáng sợ hơn đánh thật”; “chế nhạo là vũ khí mạnh nhất”; “phân hóa kẻ địch, cô lập mục tiêu, tiến hành công kích” v.v. [2] Bản chất của quy tắc này chính là vì để đạt được mục tiêu và đoạt quyền lực mà không từ thủ đoạn nào.
Những “quy tắc tổ chức cộng đồng” tưởng như vô vị này khi vận dụng thực tế sẽ lộ ra bộ mặt hung ác của nó. Năm 1972, khi chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, cựu tổng thống George H.W.Bush, bấy giờ là đại sứ của Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, đi diễn giảng ở Đại học Tulane. Những sinh viên phản chiến của đại học này đã đi xin ý kiến của Alinsky. Alinsky đáp lại rằng, công khai phản đối sẽ thiếu đi tính mới mẻ, hiệu quả chỉ ở mức trung bình, hơn nữa có thể khiến cho người phản đối bị khai trừ, tốt hơn là nên mặc đồ in phù hiệu của đảng 3K (Ku Klux Klan), mỗi lần Bush biện hộ cho chiến tranh Việt Nam, thì đều đứng lên hoan hô, và giương biển cổ vũ có nội dung “Đảng 3K ủng hộ Bush”. Sinh viên theo kế hành động, quả nhiên tạo thành thanh thế rất lớn. [3]
Alinsky và những người theo ông ta còn bàn luận một cách nhiệt tình về hai cuộc biểu tình mà ông ta lên kế hoạch. Năm 1964, để ép chính quyền Chicago chấp nhận điều kiện của họ, Alinsky đã âm thầm lên kế hoạch. Sân bay quốc tế O’Hare của Chicago là một trong những sân bay bận rộn nhất thế giới. Alinsky dự định, nếu biểu tình ở bên ngoài sân bay, thì cho dù tổ chức vài nghìn người cũng không cách nào dẫn khởi được bao nhiêu chú ý. Nhưng nếu như phái người chiếm cứ nhà vệ sinh của sân bay trong thời gian dài, thì sẽ tạo thành hỗn loạn cực lớn, chính quyền Chicago sẽ trở thành nhân vật chính bị thế giới gièm pha. Alinsky phái người tiến hành khảo sát thực địa, thấy rằng để thực hiện việc này, thì cần khoảng 2.500 người. Trước khi thực thi, ông ta cố ý để lộ tin tức này cho chính quyền Chicago, chính quyền chỉ còn cách ngoan ngoãn mời họ đi đàm phán. [4]
Để ép chính quyền thành phố Rochester tăng tỷ lệ tuyển dụng người da đen, Alinsky lại nghĩ đến âm mưu tương tự. Dàn nhạc Giao hưởng Rochester diễn xuất là sự kiện văn hóa trọng đại của địa phương, chính quyền thành phố cũng hết sức trân trọng truyền thống này. Nếu như có thể làm loạn diễn xuất của dàn nhạc, khiến cho Rochester trở thành trò hề cho người trong cả nước, thì sẽ có thể ép chính quyền thành phố chấp nhận điều kiện mà họ đặt ra. Kế hoạch hành động của Alinsky như sau: mướn 100 người da đen, mua cho mỗi người một vé xem nhạc, trước khi diễn xuất, cho họ một bữa tối miễn phí, cho có một loại thức ăn, chính là hạt đậu nướng. Sau khi ăn hạt đậu, những khán giả được thuê này sẽ không ngừng đánh rắm (xì hơi), như vậy sẽ có thể làm hỏng đi một hoạt động văn hóa có tính thanh nhã cao như vậy. Tin này truyền ra, chính quyền thành phố không thể không chấp nhận điều kiện. [5]
Đọc sách của Alinsky, khiến cho người ta cảm giác âm hiểm lạnh lẽo, khiến người ta không rét mà run. Cái gọi là “tổ chức cộng đồng” mà ông ta ủng hộ là một loại cách mạng với hình thức tiệm tiến, thay đổi bộ mặt. Lý luận cách mạng và thực tiễn của nó có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, phái cánh tả mới hay cũ, ít nhất về mặt tu từ, vẫn còn một tầng sắc thái “chủ nghĩa lý tưởng”, Alinsky đã lột bỏ hết lớp vỏ ngoài của “chủ nghĩa lý tưởng”, biến cách mạng thành sự tranh đoạt quyền lực một cách trần trụi. Khi ông ta tiến hành bồi dưỡng, huấn luyện về “tổ chức cộng đồng”, thì thường hỏi các học viên: “Vì sao tiến hành ‘tổ chức cộng đồng’?” Có người nói là để giúp đỡ người khác, lúc đó Alinsky sẽ hướng về họ mà la: “Các vị là vì quyền lực mà tổ chức!” [6]
Sổ tay bồi dưỡng của ông ta viết như sau: “Cho dù không ham muốn quyền lực thì chúng ta cũng không trở nên đức hạnh, trái lại chúng ta thực sự là nhu nhược khi không ham muốn quyền lực… Có quyền là tốt, không có quyền là xấu.” Trên sổ tay bồi dưỡng của những người đi theo còn viết: “Hãy thanh trừ đi những người muốn làm điều tốt trong giáo hội và đoàn thể của các vị.” [7]
Thứ hai, những năm 1960, những thanh niên phản loạn lớn giọng chống đối chính quyền, phản đối xã hội; đối với điều này Alinsky không bận tâm nhiều. Ông ta nhấn mạnh rằng chỉ cần có khả năng, thì nên tiến vào trong thể chế, thậm chí thể hiện ra tâm thái hợp tác, rồi chờ thời cơ hoặc tạo ra cơ hội lật đổ.
Thứ ba, mục tiêu cuối cùng của Alinsky là lật đổ và hủy diệt, chứ không phải là đem lại điều tốt cho bất kỳ nhóm người nào. Do vậy, khi thực thi kế hoạch, nhất định phải che giấu mục đích chân thực, dùng những mục tiêu vô hại hoặc có vẻ hợp lý, có tính giai đoạn hoặc cục bộ để vận động nhóm người trên diện rộng cùng hành động. Khi người ta đã thích ứng với loại biến động này, để khiến họ vì những mục tiêu cực đoan hơn mà hành động thì tương đối dễ.
Trong Quy tắc của những người cấp tiến, Alinsky nói: “Trước bất kỳ sự biến đổi có tính cách mạng nào, trước quần chúng, phải có thái độ bị động, khẳng định, không đối lập đối với sự biến đổi đó… Hãy nhớ: khi tổ chức quần chúng để phản đối vấn đề nào đó vốn đã có sự đồng thuận – như vấn đề ô nhiễm chẳng hạn – thì đám quần chúng được tổ chức đó sẽ bắt đầu hành động. Từ “ô nhiễm” đến “ô nhiễm chính trị”, lại cho đến “ô nhiễm Lầu năm góc” chỉ còn là một bước nhỏ, mà lại diễn ra một cách tự nhiên.”
Một người đứng đầu Tổ chức Sinh viên Đấu tranh vì một Xã hội Dân chủ (SDS) chịu ảnh hưởng sâu sắc của Alinsky ghi lại câu nói của ông ta về bản chất của hành động biểu tình cực đoan: “Ý nghĩa của vấn đề không nằm ở bản thân vấn đề, vấn đề luôn dẫn đến cách mạng.” Sau những năm 1960, cánh tả cấp tiến chịu ảnh hưởng thâm sâu của Alinsky, và luôn biến phản ứng trước bất cứ vấn đề xã hội nào thành sự bất mãn đối với chế độ và chính quyền đương nhiệm. Bất kỳ nghị đề xã hội nào trong tay họ đều trở thành một bàn đạp thúc đẩy cách mạng.
Thứ tư, Alinsky biến chính trị thành một cuộc chiến tranh du kích và chiến tranh toàn diện không còn giới hạn đạo đức nào. Khi giải thích rõ về sách lược “tổ chức cộng đồng”, Alinsky bảo những người theo ông ta cần phải khiến cho hành động biểu tình có tác dụng với mắt, tai, mũi của kẻ địch. Trong Quy tắc của những người cấp tiến, ông ta viết: “Trước hết là mắt; nếu như tổ chức được số người đủ nhiều, thì ban ngày ban mặt diễu hành huy trương thanh thế, khiến kẻ địch nhìn thấy. Hai là tai; nếu như nhân số không đủ, thì làm giống như Gideon: trốn ở nơi âm ám mà cổ vũ ầm ĩ, khiến kẻ địch nghe thấy mà tưởng rằng tổ chức của các vị có nhiều người hơn thực tế. Thứ ba là mũi; nếu như số người quá ít, ngay cả hò hét ồn ào cũng không làm được, thì biến nơi đó thành thối không ngửi được.”
Thứ năm, trong những hành động chính trị, Alinsky nhấn mạnh phải lợi dụng những mặt ác nhất trong nhân tính của con người như thích nhàn sợ mệt, tham lam, đố kỵ, thù hận, v.v. Có lúc, các chiến dịch của ông ta sẽ tranh đoạt về cho người tham gia một chút lợi ích nhỏ nhoi, nhưng điều này chỉ khiến họ càng thấy lợi quên nghĩa, không biết xấu hổ. Để lật đổ thể chế chính trị và trật tự xã hội của các quốc gia tự do, Alinsky không ngại làm băng hoại đạo đức con người. Một khi nắm quyền, ông ta cũng tuyệt sẽ không thương tiếc sinh mệnh và phúc lợi của những “đồng chí” trước đây; suy luận đơn giản cũng thấy.
Vài chục năm sau, hai nhân vật có tiếng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Alinsky trong giới chính trị Mỹ đã đưa cách mạng âm thầm lặng lẽ vào thể chế để lật đổ nền văn minh, truyền thống, và các giá trị của Mỹ. Đồng thời, các cuộc biểu tình kiểu chiến tranh du kích không gì cản nổi mà Alinsky đề xướng đã hoành hành ở Mỹ từ những năm 1970 trở đi. Điều này được thể hiện rõ ở cuộc biểu tình “nôn vào” (vomit-in) năm 1999 ở Seattle để phản đối Tổ chức Y tế Thế giới WTO (người biểu tình uống một loại thuốc gây nôn, sau đó tập trung ở quảng trường hoặc trung tâm hội nghị để nôn), cuộc vận động ‘Chiếm phố Wall’, phong trào Antifa v.v. là những ví dụ như thế.
Điều đáng chú ý là, trong một trong những trang khái luận của Quy tắc của những người cấp tiến, Alinsky đã thể hiện “sự tri ân đối với người cấp tiến đầu tiên”, Lucifer (cũng chính là quỷ Sa-tăng). Ngoài ra, không lâu trước khi qua đời, khi nhận phỏng vấn của tạp chí Playboy, Alinsky cho hay, nếu như sau khi chết vẫn còn tri giác, ông ta sẽ không ngại ngần gì mà lựa chọn xuống địa ngục, hơn nữa còn bắt đầu tổ chức những người vô sản ở đó, vì “họ là đồng loại của tôi.” [8]
7. Cuộc trường chinh xuyên thể chế của cánh tả
Người đầu tiên đưa ra ý tưởng tiến hành một “cuộc trường chinh trong thể chế” là Antonio Gramsci, thành viên sáng lập và từng là lãnh đạo Đảng Cộng sản Italy. Gramsci phát hiện, người có tín ngưỡng sẽ không dễ dàng bị cách mạng kích động mà đi phát động cách mạng lật đổ chính phủ hợp pháp, do vậy muốn tạo ra cách mạng thì phải tạo ra một lô những côn đồ lưu manh không tin thần, phản truyền thống, coi rẻ đạo đức. Do vậy, cách mạng của giai cấp vô sản nhất định phải bắt đầu từ việc lật đổ tôn giáo, đạo đức và nền văn minh.
Sau khi cách mạng đường phố thất bại vào những năm 1960, rất nhiều kẻ tạo phản bước vào học viện, sau khi lấy được học vị thì trở thành học giả, giáo sư, quan chức, nhà báo v.v. rồi tiến vào xã hội chủ lưu, khởi lên “cuộc trường chinh trong thể chế”. Họ dùng phương thức thâm nhập để ăn mòn từ bên trong những thể chế trọng yếu có chức năng duy trì đạo đức xã hội, bao gồm giáo hội, chính phủ, hệ thống giáo dục, cơ quan lập pháp và tư pháp, giới nghệ thuật, truyền thông và các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Nước Mỹ sau những năm 1960 giống như một bệnh nhân bị nhiễm bệnh nghiêm trọng mà không cách nào xác định được rốt cuộc là bị bệnh ở đâu. Các loại tư tưởng chủ nghĩa Marx biến tướng thâm nhập vào cơ thể xã hội Mỹ, hơn nữa còn có khả năng tự sinh trưởng và nảy nở.
Trong nhiều lý luận và sách lược cách mạng được đề xuất, Chiến lược Cloward-Piven – một mình tác chiến – của hai nhà xã hội học của Đại học Columbia được biết đến nhiều nhất, và đã được thử nghiệm “thành công” ở mức độ nhất định.
Hạt nhân của Chiến lược Cloward-Piven là dùng hệ thống phúc lợi để làm sụp đổ chính phủ. Chiểu theo chính sách của chính phủ Mỹ, số người đủ điều kiện hưởng trợ cấp phúc lợi của chính phủ vượt xa số người thực nhận trợ cấp trên thực tế. Chỉ cần tìm ra được những người này, cổ vũ họ hoặc tổ chức họ đi lấy trợ cấp thì rất nhanh tiêu hết tiền của chính phủ, khiến cho chính phủ thu không đủ chi.
Phụ trách việc thực thi cụ thể sách lược này là “Tổ chức Quyền Phúc lợi Quốc gia” (NWRO). Theo thống kê, từ năm 1965 đến 1974, số gia đình đơn thân nhận phúc lợi tăng từ 4,3 triệu lên đến 10,8 triệu, hơn gấp đôi. Năm 1970, 28% ngân sách năm của New York dùng vào các mục phúc lợi, bình quân cứ hai người đi làm thì có một người trong đó nhận phúc lợi. Từ năm 1960 đến năm 1970, số người lĩnh phúc lợi của New York tăng từ 200.000 lên đến 1,1 triệu. Năm 1975, thành phố New York gần như bị phá sản.
Chiến lược Cloward-Piven là một loại sách lược nhằm tạo ra khủng hoảng. Nó có thể được xem là một loại ứng dụng khác của lý luận Alinsky. Một trong những quy tắc của Alinsky chính là “Dùng đạo của người để trị người” (khiến kẻ địch chiểu theo quy tắc của bản thân họ mà hành sự).
Từ cuộc Cách mạng Bolshevik do Lenin lãnh đạo, Đảng Cộng sản đã trở nên thuần thục với âm mưu quỷ kế, dựa vào số người cực ít mà tạo ra “cách mạng” hoặc “khủng hoảng” với thanh thế rất lớn.
Chính trị Mỹ cũng trải qua tình trạng tương tự. Hiện tại, cương lĩnh của đảng cánh tả của Mỹ cực đoan đến độ nhiều người không lý giải được. Chẳng hạn, vì sao những người được gọi là “đại biểu dân ý” (dân biểu), “quan chức dân tuyển”, dường như chỉ đại biểu cho tiếng nói của các nhóm nhỏ cực đoan (như người chuyển đổi giới tính), ngược lại những điều trọng yếu về quốc kế dân sinh cần phải nói thì họ không quan tâm? Kỳ thực, đáp án rất đơn giản. Họ không hề là đại biểu cho dân ý thực sự.
Lenin từng nói, công đoàn là “cái băng chuyền giữa Đảng Cộng sản và quần chúng”. [9] Phần tử cộng sản phát hiện, chỉ cần khống chế chắc công đoàn thì sẽ không chế được một lượng phiếu bầu lớn; chỉ cần khống chế được phiếu bầu thì có thể khiến quan chức dân tuyển, đại biểu dân ý bảo gì nghe nấy. Do vậy, phần tử cộng sản tìm cách nắm quyền khống chế công đoàn, tiến đến khống chế một lượng lớn nghị sỹ quốc hội và quan chức dân tuyển, biến cương lĩnh chính trị có tính lật đổ thành cương lĩnh chính trị của giới chính trị cánh tả.
W.Cleon Skousen trong cuốn “Người cộng sản trần trụi” (The Naked Communist) tiết lộ một trong 45 mục tiêu của Đảng Cộng sản là “chiếm được một hoặc hai đảng chính trị của Mỹ”, chính là thông qua sự vận hành phức tạp như vậy mà thực hiện. Công nhân phổ thông vì để duy hộ quyền lợi cơ bản, bất đắc dĩ phải gia nhập công đoàn, trở thành quân cờ trong tay công đoàn. Điều này cũng giống như là trả phí bảo vệ cho xã hội đen vậy.
Phân tích của Trevor Loudon về cơ chế chính sách thâu tóm các quốc gia dân chủ của đảng cộng sản các nước đã nói rõ điểm này. Ông phân quá trình này thành ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất:Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và các đồng minh chế định ra chính sách nhắm vào các quốc gia dân chủ, mục đích là thâm nhập, làm tan rã các quốc gia này và tiến hành diễn biến hòa bình từ bên trong.
Giai đoạn thứ hai:Nhồi nhét, bồi dưỡng, huấn luyện. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mỗi năm có hàng nghìn người cộng sản các nước trên thế giới sang Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để tiếp thụ bồi dưỡng. Trọng điểm bồi dưỡng là làm thế nào để lợi dụng các cuộc vận động của người lao động, các cuộc vận động hòa bình, giáo hội và các tổ chức phi chính phủ ở các quốc gia này, nhằm gây ảnh hưởng đến đảng chính trị cánh tả trong nước.
Giai đoạn thứ 3:Thực thi. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nhóm cộng sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở các nước phương Tây phát huy vai trò chủ đạo còn lớn hơn. Sau những năm 1970, 1980, một lượng lớn người Mỹ chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản đã bước vào xã hội chủ lưu. Họ hoặc là đi theo con đường chính trị, giáo dục, nghiên cứu học thuật, hoặc bước vào truyền thông, hoặc các tổ chức phi chính phủ. Họ dùng những kinh nghiệm tích lũy qua mấy thế hệ mà cải tạo nước Mỹ, và Mỹ đã gần như hoàn toàn bị rơi vào tay họ.
Chế độ của các quốc gia dân chủ vốn là được thiết kế cho những người có tiêu chuẩn đạo đức nhất định. Đối với những người đầu óc toan tính muốn làm việc xấu mà nói, chế độ này có rất nhiều “lỗ hổng để họ lợi dụng; nếu muốn lật đổ chế độ xã hội tự do thì có thể dùng rất nhiều phương cách mà trên bề mặt là hợp pháp.
Trung Quốc có câu ngạn ngữ “Không sợ giặc ăn trộm, chỉ sợ bị giặc dòm ngó”. Phần tử cộng sản và những người vô trị bị họ lừa toan tính đủ kiểu để lật đổ chế độ chính trị xã hội của xã hội tự do. Trải qua mấy chục năm trù bị và vận hành, chính phủ và xã hội Mỹ và các nước phương Tây đều đã xói mòn đến mức thương tích, bệnh tật đầy mình khi các nhân tố và tư tưởng cộng sản đã thâm nhập vào cơ thể chính trị Mỹ.
8. Phải đạo chính trị – cảnh sát tư tưởng của ma quỷ
Các nước cộng sản thực thi chế độ quản chế hà khắc nhất đối với tư tưởng và ngôn hành của nhân dân. Nhưng từ những năm 1980, ở các nước phương Tây xuất hiện một hình thái quản chế đối với tư tưởng và ngôn luận, nó lấy cờ hiệu “phải đạo chính trị” làm cảnh sát tư tưởng, ngang nhiên hoành hành trong hệ thống giáo dục, truyền thông và các giới trong xã hội, trở thành công cụ để kiềm chế tư tưởng và ngôn luận của con người. Cho dù rất nhiều người đã cảm nhận được lực khống chế tà ác của nó, nhưng vẫn chưa lý giải được căn nguyên của hình thái ý thức đó.
Những từ ngữ như “phải đạo chính trị” cùng với “tiến bộ”, “đoàn kết” đều là những từ ngữ mà đảng cộng sản các nước đã sử dụng từ lâu. Ý nghĩa bề mặt của những từ này là không được sử dụng những ngôn từ có sắc thái kỳ thị đối với những tộc duệ thiểu số, phụ nữ, người khuyết tật và các nhóm người đặc thù. Ví dụ như phải gọi “người da đen” thành “người Mỹ gốc Phi”, gọi “người Ấn gốc Mỹ (người da đỏ Anh-điêng) thành “Người Mỹ bản xứ”, gọi người nhập cư phi pháp thành “người lao động chưa vào sổ” v.v.
“Phải đạo chính trị” còn có một tầng ý nghĩa sâu hơn, đó là phân hóa các nhóm người theo mức độ “bị áp bức”. Người “bị áp bức” nghiêm trọng nhất cần phải nhận được sự tôn trọng và kính lễ ở mức độ cao nhất. Kiểu đánh giá chỉ dựa trên thân phận, chỉ xét xem người ta thuộc về thành phần xã hội nào mà không kể đến phẩm hạnh và tài năng của cá nhân, gọi là “chính trị dựa trên thân phận” (identity politics).
Kiểu tư duy này đang cực kỳ phổ biến ở Mỹ và các nước châu Âu. Theo logic đó, phụ nữ da đen đồng tính đồng thời chiếm hữu ba loại thân phận là bị áp bức chủng tộc, bị áp bức giới tính và bị áp bức về xu hướng tình dục, do vậy trong bảng xếp hạng của “phải đạo chính trị” thì được xếp hàng đầu. Trong khi đó, nam giới da trắng có xu hướng tình dục bình thường thì, ngược lại, trở thành đối tượng bị kỳ thị.
Kiểu phân loại này giống hệt với việc các quốc gia cộng sản dựa trên tài sản mà phân người ta thành giai cấp “năm loại đỏ”, “năm loại đen”. Đảng Cộng sản Trung Quốc tiêu diệt, đàn áp các nhà tư bản và địa chủ vì địa vị xã hội của họ là “sai”, gọi các phần tử trí thức là “xú lão cửu”, ca tụng “người bần tiện là thông minh nhất, người cao quý là ngu xuẩn nhất”.
Một số nhóm người có địa vị chính trị, kinh tế, văn hóa không cao là do nguyên nhân lịch sử hết sức phức tạp, bao gồm nguyên nhân xã hội và nguyên nhân của bản thân, tuyệt đối không thể dùng một câu “bị áp bức” là có thể tóm lại đơn giản như vậy. Song, “phải đạo chính trị” đã vạch ra giới hạn nhân tạo cho tư tưởng con người, “theo ta thì sống, phản ta thì chết”, võ đoán mà chụp lên đầu người ta cái mũ kẻ “phân biệt chủng tộc”, “kỳ thị giới tính”, “bài xích người đồng tính”, “bài xích Hồi giáo”…
Các trường đại học đáng lẽ là nơi thúc đẩy tự do thảo luận thì nay lại trở thành nhà tù tư tưởng. Toàn xã hội câm như ve sầu mùa đông, không cách nào nghiêm túc thảo luận nghiêm các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa. Một số tổ chức còn lấy danh nghĩa “phải đạo chính trị” mà tiến thêm một bước chèn ép không gian của các tôn giáo truyền thống. Một số quốc gia còn quá hơn khi mở rộng khái niệm “ngôn luận thù hận”, dựa vào “ngôn luận thù hận” này để lập pháp, hoặc dùng hình thức pháp luật để giới hạn tự do ngôn luận, bức bách trường học, truyền thông, và các công ty mạng phải làm theo. [10] Điều này cũng như tiến một bước tới sự quản chế hà khắc về ngôn luận thường thấy ở các quốc gia cộng sản.
Sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, nước Mỹ lại bị chia cắt thêm một bước nữa. Ngoài các cuộc diễu hành bùng phát ở các thành phố lớn ra, hiện tượng xâm phạm tự do ngôn luận liên tục xuất hiện. Tháng 9/2017, Ben Shapiro, một tác giả theo phái bảo thủ nhận lời mời đến cơ sở Berkeley của Đại học California để diễn giảng, nhưng phải thay đổi vì tổ chức Antifa dọa gây xung đột bạo lực. Cảnh sát Berkeley dàn trận, cho xuất kích ba máy bay trực thăng, chi phí anh ninh tối hôm đó lên đến hơn 600.000 USD. [11]
Một phóng viên hỏi một sinh viên đến biểu tình: “Các bạn hiểu thế nào về Tu Chính án Thứ nhất?” (luật bảo vệ tự do ngôn luận của Mỹ). Sinh viên này liền thốt ra khỏi miệng “Tu chính án thứ nhất đã lỗi thời từ lâu rồi!” Trớ trêu thay, chính tại cơ sở Berkeley của Đại học Carlifornia năm 1964 đã diễn ra sự kiện mang tính dấu mốc của cuộc vận động sinh viên, đó là “cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận”. Hôm nay, thời thế đổi thay, cánh tả đã dùng quyền ngôn luận mà cướp đoạt tiếng nói chính đáng của người khác.
Tháng 3/2017, khi nhà khoa học xã hội Mỹ Charles Murray nhận lời mời đến diễn giảng tại Đại học Middlebury ở bang Vermont, Hoa Kỳ, ông bị tấn công bạo lực, còn một giáo sư trong trường đi cùng ông bị đánh bị thương. Tháng 3/2018, giáo sư trọn đời Amy Wax của Trường Luật, Đại học Pennsylvania, vì phát hành một bài viết về “phi phải đạo chính trị” mà bị đình chỉ một số công tác giảng dạy. [13] Còn có một số tổ chức dùng danh nghĩa phản đối “ngôn luận thù hận”, đã dán nhãn “nhóm thù hận” cho các tổ chức xã hội bình thường thuộc phái bảo thủ. Ngoài ra, còn phát sinh việc rất nhiều trường hợp các hoạt động có các học giả, tác giả phái bảo thủ bị uy hiếp mà phải hủy bài phát biểu hoặc không tham gia nữa. [14]
Sự xâm phạm của cánh tả đối với tự do ngôn luận tuyệt đối không phải là cuộc tranh luận bình thường giữa những người có quan điểm khác nhau. Đó là do tà linh cộng sản lợi dụng người có tư tưởng xấu, và phiến động họ bóp méo sự thật và chèn ép tiếng nói chính nghĩa, hay ít nhất là tiếng nói chính đáng bình thường. Thực chất của phải đạo chính trị là dùng tiêu chuẩn chính trị biến dị để thay thế tiêu chuẩn đạo đức; nó chính là cảnh sát tư tưởng của ma quỷ.
9. Chủ nghĩa xã hội có mặt ở khắp châu Âu
Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa bắt nguồn từ Quốc tế Thứ hai do Engels sáng lập năm 1889. Trước khi Quốc tế Thứ hai thành lập, toàn cầu có hơn 100 đảng chính trị lấy chủ nghĩa Marx làm cơ sở, trong đó, số quốc gia có đảng chấp chính kiên trì theo chủ nghĩa xã hội là 66 nước. Danh xưng “Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa” xuất hiện từ năm 1951, sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, là một tổ chức cấu thành từ các đảng dân chủ xã hội các nước trên thế giới.
Các đảng xã hội chủ nghĩa do Quốc tế Thứ hai lưu lại vẫn còn ở khắp châu Âu, rất nhiều còn là đảng chấp chính ở quốc gia sở tại. Trong phe xã hội chủ nghĩa thời đầu có Lenin chủ trương bạo lực cách mạng và Karl Johann Kautsky và Eduard Bernstein chủ trương cải cách dưới hình thức tiệm tiến.
Trong Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội dân chủ về cơ bản là như nhau, đều chủ trương hoặc quảng bá rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ mới thay thế chủ nghĩa tư bản. Hiện nay Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa có 160 tổ chức và thành viên các loại, là tổ chức chính trị quốc tế lớn nhất trên thế giới hiện nay.
Đảng Xã hội Chủ nghĩa châu Âu, hoạt động ở Nghị viện Châu Âu, cũng là một trong những tổ chức liên minh của “Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa”. Thành viên của nó là các đảng dân chủ xã hội trong Liên minh Châu Âu (EU) và các quốc gia lân cận. Nó được thành lập năm 1992, có mặt trong các tổ chức hàng đầu của châu Âu, bao gồm Nghị viện châu Âu, Ủy ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu.
Hiện nay, Đảng Xã hội Chủ nghĩa Châu Âu có 32 đảng thành viên ở 25 nước châu Âu và Na Uy, 8 thành viên liên kết và 5 quan sát viên, tổng cộng là 45 đảng chính trị. Có thể thấy phạm vi hoạt động của nó lớn như thế nào. Nhiệm vụ chủ yếu mà Đảng Xã hội Chủ nghĩa Châu Âu nêu ra là: Tăng cường vận động dân chủ xã hội và xã hội chủ nghĩa trong nội bộ EU và trên toàn châu Âu, đồng thời phát triển quan hệ hợp tác mật thiết giữa các đảng chính trị thành viên, các tổ chức nghị viện ở các nước, các nhóm đảng của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Châu Âu và bản thân Đảng Xã hội Chủ nghĩa Châu Âu. Nói đơn giản, đó chính là dốc sức thúc đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Đảng chấp chính của Thụy Điển là “Đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển” công khai tuyên bố là lấy chủ nghĩa Marx làm lý luận chủ đạo. Trong mấy chục năm chấp chính, nó chủ trương bình đẳng và phúc lợi theo hình thái ý thức của chủ nghĩa xã hội. Cho đến hôm nay, trong hội trường của đảng này vẫn còn treo ảnh của Marx, Engels.
Tư tưởng chỉ đạo của Công Đảng Vương quốc Anh là dựa trên “chủ nghĩa xã hội Fabian”. Như đã đề cập bên trên chủ nghĩa xã hội Fabian chẳng qua là một biến thể của chủ nghĩa Marx, nhưng nhấn mạnh vào việc dùng phương thức tiệm tiến để quá độ từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản. Nó cũng vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội mà cổ xúy cho thu thuế cao, phúc lợi cao. Công Đảng của Anh mấy chục năm gần đây liên tục là đảng chấp chính của Anh, cũng vẫn luôn thúc đẩy chủ nghĩa xã hội Fabian.
Đảng Cộng sản Anh cũng vẫn luôn tham dự nhằm tác động vào cục diện chính trị Anh, thậm chí còn có tờ báo của riêng mình là The Morning Star. Đảng Cộng sản Anh thành lập năm 1920, vào thời kỳ thịnh vượng nhất của Đảng Cộng sản Anh, cũng từng có nghị viên Đảng Cộng sản được bầu cử vào Hạ Nghị viện Anh. Khi bắt đầu cuộc tổng tuyển cử của Anh năm 2017, Đảng Cộng sản Anh đột nhiên tuyên bố ủng hộ bầu cử cho chính trị gia cánh tả hàng đầu của Công Đảng Anh.
Một nhân vật quan trọng của Công Đảng đã chủ trương chủ nghĩa xã hội và quốc hữu hóa 40 năm qua. Tháng 9/2015, với số phiếu áp đảo 60%, ông này được bầu làm người đứng đầu Công Đảng. Chính trị gia này là một nhân vật nổi bật trong các sự kiện và hoạt động về người đồng tính, song tính, chuyển giới. Khi phóng viên BBC hỏi về quan điểm của ông này về Marx, ông tán dương Marx là nhà tư tưởng kinh tế vĩ đại, một “nhân vật rất thú vị; đọc rộng hiểu nhiều, có rất nhiều điều đáng để chúng ta học tập.”
Đảng Xã hội Pháp là đảng chính trị trung-tả lớn nhất của Pháp, và là thành viên của Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa và Đảng Xã hội Chủ nghĩa Châu Âu. Ứng cử viên tổng thống của đảng này được bầu làm tổng thống vào năm 2012.
Cựu đảng viên đảng cộng sản nổi tiếng của Italy Antonio Gramsci không chỉ thành lập Đảng Cộng sản Italy vào năm 1921, còn đảm nhiệm vị trí tổng bí thư của đảng này. Cho đến những năm 1990, Đảng Cộng sản Italy vẫn còn hết sức sôi nổi, duy trì được vị trí đảng chính trị lớn thứ hai trong thời gian dài. Năm 1991, đảng này đổi tên thành Đảng Dân chủ Cánh tả.
Đức cũng không ngoại lệ. Đức là quê hương của Marx và Engels, của ‘trường phái Frankfurt”, một trường phái chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng rất lớn trong thế kỷ 20.
Các quốc gia châu Âu khác, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng đều có đảng cộng sản hoạt động tích cực, có sức ảnh hưởng không thể coi thường. Toàn bộ châu Âu – chứ không chỉ là các nước Đông Âu – đã bị chủ nghĩa cộng sản chiếm địa vị chủ đạo. Các nước phi cộng sản ở Bắc Âu, Nam Âu, Tây Âu kỳ thực cũng đều hữu ý hoặc vô ý mà chủ trương và thực hành chính sách tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Nói cả châu Âu “bị thất thủ” cũng không hề cường điệu.
10. Vì sao chúng ta bị ma quỷ lừa
Cuốn “Cuộc Hành hương Chính trị” (Political Pilgrims) của nhà xã hội học người Mỹ Paul Hollander kể câu chuyện những trí thức trẻ say mê chủ nghĩa cộng sản ào ạt hành hương chính trị sang Liên Xô thời Stalin, Trung Quốc thời Mao, và Cuba thời Fidel Castro. Mặc dù bấy giờ bạo lực phát sinh khắp nơi khiến người ta phải kinh hãi nhưng những thanh niên hành hương chính trị này không hề hay biết; sau khi quay về, họ vẫn nhiệt tình soạn sách ca ngợi chế độ xã hội chủ nghĩa. [15]
Tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản là hình thái ý thức của ma quỷ, hơn nữa thuận theo thời gian, thế nhân cũng ngày càng nhìn thấy rõ, tất cả những nơi mà chủ nghĩa cộng sản đến đều mang theo bạo lực, lừa dối, chiến tranh, đói kém và bạo chính. Vấn đề là, vì sao vẫn còn nhiều người đến thế cam tâm tình nguyện giúp con quỷ này phát tán lừa dối, thậm chí trở thành công cụ thuần phục của nó.
Lấy nước Mỹ mà nói, người bị chủ nghĩa cộng sản hấp dẫn trong các thời kỳ khác nhau có các động cơ khác nhau. Thời đầu, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ là dân nhập cư, địa vị kinh tế thấp, khó hòa nhập vào cộng đồng, chịu ảnh hưởng của mẫu quốc (đa số là Nga và các nước Đông Âu) mà gia nhập Đảng Cộng sản Mỹ.
Sau cuộc Đại Suy thoái Kinh tế vào những năm 1930, ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx ở phương Tây tăng lên một bước lớn, giới tư tưởng của phương Tây chuyển hướng tả một cách đột ngột. Rất nhiều trí thức sang Liên Xô tham quan, rồi về nhà viết sách lý luận, tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong đó có cả một số nhà tư tưởng, tác gia, nghệ thuật gia, nhà báo có sức ảnh hưởng lớn v.v.
Thế hệ những người thời kỳ bùng nổ dân số vào đại học trong những năm 1960, họ lớn lên trong hoàn cảnh sung túc sau chiến tranh, nhưng lại bị hình thái ý thức của chủ nghĩa cộng sản dẫn lạc hướng sang hướng phản đối văn hóa dưới hình thức các cuộc vận động phản chiến, nữ quyền v.v. Thế hệ sinh viên sau đó tiếp thu nội dung giảng dạy mang tính tả khuynh, bởi vì các giáo viên của họ chính là những “phần tử cấp tiến có vị trí giảng dạy suốt đời” – như vậy, những cuộc “trường chinh trong thể chế” của chủ nghĩa cộng sản đã khai hoa kết quả, bắt đầu trường thịnh bất suy, tự sinh sôi nảy nở. [“Trường chinh” có nghĩa là trường kỳ chinh phục và đánh chiếm. chủ nghĩa cộng sản như tế bào ung thư, phải được sống trong cơ thể con người, phải bám vào thân người (thể chế) mà leo lên mới có thể sinh tồn và phát triển.]
Trong cuốn sách nhằm vạch trần chủ nghĩa cộng sản có tựa đề “Bậc thầy lừa đảo” (Masters of Deceit), Cục trưởng Cục Điều tra Liên bang (FBI) J. Edgar Hoover với thâm niên 37 năm, đã tổng kết ra năm loại phần tử cộng sản: đảng viên cộng sản công khai của, đảng viên cộng sản ngầm, người đồng hành của chủ nghĩa cộng sản, phần tử chủ nghĩa cơ hội (vì mưu cầu tư lợi mà trợ giúp đảng cộng sản), và những người bị lừa. [16] Kỳ thực, ngoại trừ một số cực ít những phần tử cộng sản ngoan cố cực kỳ tà ác ra, tuyệt đại bộ phận đảng viên đảng cộng sản chẳng phải đều là những người bị lừa sao?
Cuốn sách “Mười ngày chấn động thế giới” (Ten Days that Shook the World) của Nhà báo Mỹ John Silas Reed và “Ngôi sao đỏ trên bầu trời Trung Quốc” (The Red Star over China) của Edgar Snow, đã có tác dụng rất lớn đối với việc truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới. Reed là một trong ba người Mỹ được mai táng ở Nghĩa trang Cách mạng Kremlin, nghĩa là bản thân ông chính là một nhà hoạt động cộng sản. Báo cáo tường thuật Cách mạng Tháng 10 của ông ta không thuật lại sự kiện một cách khách quan, mà là tài liệu tuyên truyền chính trị công phu.
Edgar Snow là một người đồng hành của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1936, trong kịch bản phỏng vấn mà Snow đặt ra cho một đảng viên ĐCSTQ có cả chục phương diện, gồm ngoại giao, chống ngoại xâm, quan điểm đối với các điều ước bất bình đẳng, đầu tư nước ngoài, cho đến quan điểm về Phát xít (hay người xã hội chủ nghĩa dân tộc), v.v. Sau này, Mao Trạch Đông gặp Edgar Snow tại hầm trú ẩn ở Thiểm Bắc (ở phía Bắc của tỉnh Thiểm Tây) mới trả lời những câu hỏi đó theo hướng tạo ấn tượng có lợi cho ĐCSTQ: “Đây là kết tinh của trí tuệ tập thể trung ương ĐCSTQ, tiếp đó cho thế giới thấy một hình tượng ĐCSTQ công khai rõ ràng, thẳng thắn bộc trực, tiến cùng thời gian.” Một Edgar Snow trẻ tuổi, cả tin, bị ĐCSTQ mưu kế thâm hiểm sử dụng như một công cụ, đã đem những lời lừa dối được bịa đặt tỉ mỉ mà truyền bá ra toàn thế giới.
Yuri Bezmenov, cựu điệp viên KGB, nhớ lại những lần tiếp đãi những “người bạn” nước ngoài tới thăm. Hành trình của họ đều là do Cục Tình báo Liên Xô sắp xếp. Những giáo đường, trường học, bệnh viện, nhà trẻ, nhà máy v.v. mà họ đến thăm đều đã được thu xếp từ trước. Tất cả những người tiếp đón đều là đảng viên đảng cộng sản hoặc là những người có thể tin tưởng được “về chính trị”, hơn nữa trước đó đã được bồi dưỡng, để đảm bảo mọi việc được tiến hành thống nhất. Ông đưa ra một ví dụ về Look, một tạp chí lớn của Mỹ những năm 1960, đã phái phóng viên sang Liên Xô phỏng vấn. Toàn bộ tài liệu đem về, gồm cả ảnh và tài liệu in, đều do lực lượng an ninh Liên Xô chuẩn bị. Phóng viên không hề kiểm tra lại mà cứ thế phân phát ở Mỹ, vì thế mà tuyên truyền của Liên Xô đã đến được với dân chúng Mỹ dưới tên một tạp chí Mỹ, khiến người Mỹ bị đánh lạc hướng. Bezmenov nói, rất nhiều phóng viên, diễn viên, ngôi sao thể thao sang Liên Xô tham quan đều bị che mắt và lừa dối; điều này còn có thể hiểu được. Điều không thể tha thứ là rất nhiều chính khách của phương Tây, vì danh tiếng, lợi ích cá nhân mà chủ động hợp tác với ĐCSLX, thêu dệt và truyền bá những lời lừa dối. Ông gọi họ là những kẻ bại hoại đạo đức. [17]
Trong cuốn sách “Bạn có thể tiếp tục tin những người cộng sản… để trở thành người cộng sản” (You Can Still Trust the Communists … to Be Communists), tác giả Dr. Fred Schwartz đã phân tích vì sao một số thanh niên con nhà khá giả lại ngưỡng mộ chủ nghĩa cộng sản. Ông đã liệt kê bốn nguyên do: Một là, thất vọng với chế độ tư bản chủ nghĩa; hai là, tin vào triết học chủ nghĩa duy vật; ba là, sự ngạo mạn về tri thức; bốn là, nhu cầu tôn giáo không được thỏa mãn. “Ngạo mạn về tri thức” ở đây là chỉ những người trẻ tuổi 18, 20 hiểu biết về lịch sử còn nông cạn, dưới sự thúc đẩy của tâm lý chống đối chính quyền, muốn nổi dậy chống lại tất cả những gì liên quan đến thuyết giáo truyền thống, chính quyền, văn hóa dân tộc. Họ là những người dễ trở thành nạn nhân tuyên truyền của chủ nghĩa cộng sản nhất.
“Nhu cầu tôn giáo không được thỏa mãn” là nói mỗi người đều có lòng mộ đạo, muốn nỗ lực vì mục tiêu lớn hơn, siêu việt bản thân, nhưng lại bị trường học rót vào vô Thần luận và thuyết tiến hóa, khiến họ không cách nào cảm thấy thỏa mãn với tôn giáo truyền thống. Những từ ngữ đẹp đẽ “giải phóng toàn nhân loại” của chủ nghĩa cộng sản đã lợi dụng khe hở này, vừa khớp là có tác dụng như tôn giáo. [18]
Phần tử trí thức dễ bị lừa bởi hình thái ý thức cấp tiến, hiện tượng này thu hút được sự chú ý của nhiều học giả. Trong cuốn sách “Thuốc phiện của phần tử trí thức” (The Opium of the Intellectuals), tác giả Raymond Aron đã chỉ ra một cách sâu sắc rằng, các phần tử trí thức một mặt cực lực phê bình chế độ chính trị truyền thống, mặt khác lại khoan nhượng cao độ cho việc thảm sát và bạo chính của các quốc gia có ĐCS, nhìn mà như không thấy. Ông cho rằng, những phần tử trí thức cánh tả này là hư ngụy, hành động độc đoán, và có sự cuồng nhiệt không lý tính, họ nâng hình thái ý thức của phái tả lên đến mức cao ngang bằng với tôn giáo trong thế tục.
Nhà sử học người Anh Paul Johnson trong tác phẩm “Phần tử trí thức: Từ Marx và Tolstoy đến Sartre và Chomsky” (Intellectuals: From Marx and Tolstoy to Sartre and Chomsky), đã phân tích mối quan hệ giữa quan điểm chính trị cấp tiến và cuộc đời của Jean-Jacques Rousseau cho đến mười mấy vị phần tử trí thức về sau. Johnson đã phát hiện được điểm yếu chí mạng là sự ngạo mạn, lấy tự ngã làm trung tâm. [19]
Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Thomas Sowell đã lấy rất nhiều ví dụ trong cuốn sách “Phần tử trí thức và xã hội” (Intellectuals and Society), chỉ ra cuồng vọng có lý trí của phần tử trí thức.
Những phân tích của các học giả này đều có sự sâu sắc riêng, nhưng chúng tôi muốn chỉ ra rằng việc phần tử trí thức dễ bị lừa còn có một nguyên nhân quan trọng hơn nữa. chủ nghĩa cộng sản là hình thái ý thức của ma quỷ, nó không thuộc về bất kỳ một văn hóa truyền thống nào của nhân loại. Do vậy nó có bản tính đối nghịch với con người, cũng không thể do con người tự phát mà suy diễn ra được, chỉ có thể là bị nhồi vào từ bên ngoài. Dưới sự ảnh hưởng của thuyết vô Thần, thuyết duy vật, giới học thuật và giới giáo dục của xã hội hiện đại đã rời bỏ niềm tin vào Thần, một mực mê tín vào khoa học và cái gọi là “lý tính” của con người, dễ dàng trở thành tù binh của hình thái ý thức của ma quỷ.
Bắt đầu từ những năm 1960, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu xâm nhập vào giáo dục của Mỹ trên quy mô lớn, lại thêm sự oanh tạc loạn xạ của truyền thông cánh tả, sự ngu hóa giáo dục, và việc rất nhiều người trẻ bị trầm mê với TV, máy tính, Internet, mạng xã hội, trò chơi điện tử… dưới tác dụng tương giao của những nhân tố ấy, rất nhiều người trong thế hệ trẻ trở thành “người hoa tuyết” bần cùng về tri thức, tầm nhìn nhỏ hẹp, thiếu tinh thần trách nhiệm và khả năng chịu đựng. Trải qua việc nhồi nhét mấy thế hệ, những người bị tẩy não triệt để, cho dù nhìn thấy, nghe thấy chân tướng, cũng sẽ dùng những tư tưởng méo mó biến dị mà phân tích. Nói cách khác, những lời lừa dối của Đảng Cộng sản hình thành một tầng màng mỏng khởi tác dụng ngăn cách, khiến những người này bị cắt đứt liên hệ với thực tế.
Vì để lừa gạt thế nhân, ma quỷ đã toàn diện lợi dụng những nhược điểm của nhân tính như sự ngu muội, vô tri, tự tư, tham lam, nhẹ dạ, đồng thời cũng lợi dụng chủ nghĩa lý tưởng và ảo tưởng lãng mạn của con người đối với cuộc sống tốt đẹp, đây là điều đáng buồn nhất. Kỳ thực, các quốc gia của Đảng Cộng sản không hề lãng mạn như những người còn ôm giữ ảo tưởng vào chủ nghĩa xã hội, nếu như họ thực sự đến các quốc gia của Đảng cộng sản thực sự sinh sống một thời gian, chứ không phải là tham quan du lịch kiểu cưỡi ngựa xem hoa, thì bản thân họ sẽ phát hiện ra điểm này.
Sự thâm nhập của ma quỷ chủ nghĩa cộng sản vào phương Tây đã thể hiện ra bộ mặt cực kỳ phức tạp đa dạng. Chỉ có cách siêu thoát khỏi các hiện tượng cụ thể, đứng tại vị trí cao hơn mới có thể thấy rõ bộ mặt thật và mục đích thực sự của ma quỷ.
Ma quỷ có thể đạt được ý đồ vì nguyên nhân căn bản là con người rời xa tín ngưỡng với Thần, buông lỏng sự chế ước về đạo đức. Chỉ có cách trở về với tín ngưỡng vào Thần, tịnh hóa tâm linh, thăng hoa đạo đức, mới có thể thoát khỏi sự khống chế của ma quỷ. Nếu như toàn xã hội đều có thể quay trở về với truyền thống, thì ma quỷ sẽ không còn chỗ dung thân.
–
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo từ mục 1-5
[1] “An Interview with Trevor Loudon,” Capital Research Center, https://capitalresearch.org/article/an-interview-with-trevor-loudon/.
Đảng Thế giới Công nhân thành lập năm 1959, “dốc sức tổ chức và đấu tranh đòi Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi Mỹ và trên khắp Thế giới”.Tham khảo thêm “Who are the Workers World Party, the group who helped organize the Durham Confederate statue toppling” https://abc11.com/politics/who-are-the-workers-world-party-and-why-durham/2314577/.
[2] Karl Marx, Manifesto of the Communist Party (Marx/Engels Internet Archive), https://www.marxists.org/archive/marx/works/1848/communist-manifesto/ch04.htm.
[3] A.M. McBriar, Fabian Socialism and English Politics, 1884–1918. (Cambridge: Cambridge University Press, 1966), p. 9.
[2] Karl Marx, Manifesto of the Communist Party (Marx/Engels Internet Archive), https://www.marxists.org/archive/marx/works/1848/communist-manifesto/ch04.htm.
[3] A.M. McBriar, Fabian Socialism and English Politics, 1884–1918. (Cambridge: Cambridge University Press, 1966), p. 9.
[4] Mary Agnes Hamilton, Sidney and Beatrice Webb A Study in Contemporary Biography (Sampson Low, Marston & Co. Ltd.). https://archive.org/stream/in.ernet.dli.2015.81184/2015.81184.Sidney-And-Beatrice-Webb_djvu.txt
[5] Vladimir Ilyich Lenin, “Left-Wing” Communism: an Infantile Disorder (Marxists.org).
[6] Bernard Shaw, The Intelligent Woman’s Guide to Socialism and Capitalism (Brentanos Publishers New York), https://archive.org/details/TheIntelligentWomensGuideToSocialismAndCapitalism.
[7] Quoted from “The Truth about the American Civil Liberties Union,” Congressional Record: Proceedings and Debates of the 87the Congress, 1st session. https://sites.google.com/site/heavenlybanner/aclu.
[8] M. Stanton Evans and Herbert Romerstein, “Introduction,” Stalin’s Secret Agents: The Subversion of Roosevelt’s Government (New York: Threshold Editions, 2012).
[9] Như trên
[10] Thomas Schuman, Love Letter to America (Los Angeles: W.I.N. Almanac Panorama, 1984), pp. 21–46.
[11] Ion Mihai Pacepa, Ronald J. Rychlak, Disinformation (WND Books).
[12] Wang Tseng-tsai, Modern World History (San Min Book Co., Ltd. Taipei, 1994), pp. 324–329.
[13] Dinesh D’Souza, The Big Lie: Exposing the Nazi Roots of the American Left (Chicago: Regnery Publishing, 2017), Chapter 7.
[14] Jim Powell, FDR’s Folly: How Roosevelt and His New Deal Prolonged the Great Depression (New York: Crown Forum, 2003).
[15] Như trên, back cover.
[16] G. Edward Griffin, More Deadly than War, https://www.youtube.com/watch?v=gOa1foc5IXI.
[17] Nicholas Eberstadt, “The Great Society at 50” (American Enterprise Institute),https://www.aei.org/publication/the-great-society-at-50/. Another reference on the consequences of the United States’ high-welfare policy is a book by the same author: A Nation of Takers: America’s Entitlement Epidemic (Templeton Press, 2012).
[18] Elmer T. Peterson, “This is the Hard Core of Freedom” (The Daily Oklahoman, 1951). This quote has also been attributed to French historian Alexis de Tocqueville.
[19] William L. Lind, Chapter VI, “Further Readings on the Frankfurt School,” in William L. Lind, ed., Political Correctness: A Short History of an Ideology (Free Congress Foundation, 2004), p. 4–5. Refer to the text at: https://www.nationalists.org/pdf/political_correctness_a_short_history_of_an_ideology.pdf
[20] William S. Lind, “What is Cultural Marxism?” https://www.marylandthursdaymeeting.com/Archives/SpecialWebDocuments/Cultural.Marxism.htm
[21] Raymond V. Raehn, Chapter II, “The Historical Roots of ‘Political Correctness,’” in William L. Lind, ed., Political Correctness: A Short History of an Ideology (Free Congress Foundation, 2004), p. 10.
[22] Shen Han, Huang Feng Zhu, “The Rebel Generation: The Western student movement in the 1960s” (Refer to Lin Biao’s translated text at https://www.marxists.org/reference/archive/lin-biao/1965/09/peoples_war/ch08.htm.
[23] Mikhail Suslov, “The Defense of Peace and the Struggle Against the Warmongers” (New Century Publishers, February 1950).
[24] Vladimir Bukovsky, “The Peace Movement & the Soviet Union” (Commentary Magazine, 1982). Refer to the link: https://www.commentarymagazine.com/articles/the-peace-movement-the-soviet-union/
[25] Jeffrey G. Barlow, “Moscow and the Peace Movement,” The Backgrounder (The Heritage Foundation, 1982), p. 5.
[26] Stanislav Lunev, Through the Eyes of the Enemy: The Autobiography of Stanislav Lunev (Washington D.C.: Regnery Publishing, 1998), p. 74, p. 170.
[27] Robert Chandler, Shadow World: Resurgent Russia, the Global New Left, and Radical Islam (Washington, D.C.: Regnery Publishing, 2008), p. 389.
[28] Anthony C. Sutton, “Conclusions,” The Best Enemy You Can Buy (Dauphin Publications, 2014).
[29] Trevor Loudon, The Enemies Within: Communists, Socialists, and Progressives in the U.S. Congress (Las Vegas: Pacific Freedom Foundation, 2013), pp. 5–14.
[30] “AIM Report: Communists Run Anti-War Movement,” Accuracy in Media (February 19, 2003), https://www.aim.org/aim-report/aim-report-communists-run-anti-war-movement/.
[31] G. Edward Griffin, Anarchy U.S. A.: In the Name of Civil Rights (DVD), John Birch Society.
[32] John Pepper (Joseph Pogani), American Negro Problems (New York: Workers Library Publishers, 1928), https://www.marxistsfr.org/history/usa/parties/cpusa/1928/nomonth/0000-pepper-negroproblems.pdf.
[33] James W. Ford and James Allen, The Negroes in a Soviet America (New York: Workers Library Publishers, 1934), pp. 24–30.
[34] Leonard Patterson, “I Trained in Moscow for Black Revolution,” https://www.youtube.com/watch?v=GuXQjk4zhZs.
[35] G. Louis Heath, ed., Off the Pigs! The History and Literature of the Black Panther Party, p. 61.
[36] Thurston Powers, “How Black Lives Matter Is Bringing Back Traditional Marxism,” The Federalist, https://thefederalist.com/2016/09/28/black-lives-matter-bringing-back-traditional-marxism/.
Tài liệu tham khảo từ mục 6-10
[1] David Horowitz, Barack Obama’s Rules for Revolution: The Alinsky Model (Sherman Oaks, CA: David Horowitz Freedom Center, 2009), p. 6, p.16.
[2] Saul Alinsky, “Tactics,” Rules for Radicals: A Practical Primer for Realistic Radicals (New York: Vintage Books, 1971).
[3] David Horowitz, Barack Obama’s Rules for Revolution: The Alinsky Model (Sherman Oaks, CA: David Horowitz Freedom Center, 2009), pp. 42–43.
[4] “Playboy Interview with Saul Alinsky,” New English Review, https://www.newenglishreview.org/DL_Adams/Playboy_Interview_with_Saul_Alinsky/.
[5] David Horowitz, Barack Obama’s Rules for Revolution: The Alinsky Model (Sherman Oaks, CA: David Horowitz Freedom Center, 2009). https://newrepublic.com/article/61068/the-agitator-barack-obamas-unlikely-political-education
[6] Như trên.
[7] Như trên.
[8] “Playboy Interview with Saul Alinsky,” New English Review,https://www.newenglishreview.org/DL_Adams/Playboy_Interview_with_Saul_Alinsky/
[9] V. I. Lenin, “Draft Theses on the Role and Functions of The Trade Unions Under the New Economic Policy,”https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1921/dec/30b.htm.
[10] Pinkoski, Nathan. 2018. “Jordan Peterson Marks Right And Left’s Side-Switch On Free Expression.” The Federalist. 02/03/2018.https://thefederalist.com/2018/02/02/jordan-peterson-marks-fulcrum-right-lefts-side-switch-free-expression/
[11] “Antifa protests mean high security costs for Berkeley Free Speech Week, but who’s paying the bill?” Fox News, 15/09/2017. https://www.foxnews.com/us/2017/09/15/antifa-protests-mean-high-security-costs-for-berkeley-free-speech-week-but-whos-paying-bill.html.
[12] Chris Pandolfo, “TRUE COLORS: Student Leader Says 1A Doesn’t Apply to Ben Shapiro,” Conservative Review. 20/10/ 2017.https://www.conservativereview.com/news/true-colors-student-leader-says-1a-doesnt-apply-to-ben-shapiro/.
[13] “Penn Law professor loses teaching duties for saying black students ‘rarely’ earn top marks,” New York Daily News, 15/03/2018,https://www.nydailynews.com/news/national/law-professor-upenn-loses-teaching-duties-article-1.3876057.
[14] “Campus Chaos: Daily Shout-Downs for a Week,” National Review, October 12, 2017,https://www.nationalreview.com/corner/campus-chaos-daily-shout-downs-week-free-speech-charles-murray/.
[15] Paul Hollander, Political Pilgrims (New York: Oxford University Press, 1981).
[16] J. Edgar Hoover, Masters of Deceit (New York: Henry Holt and Company, 1958), pp. 81-96.
[17] Tomas Schuman (Yuri Bezmenov), No “Novoste” Is Good News (Los Angeles: Almanac, 1985), pp. 65–75.
[18] Fred Schwartz and David Noebel, You Can Still Trust the Communists…to Be Communists (Socialists and Progressives too) (Manitou Springs, Colo.: Christian Anti-Communism Crusade, 2010), pp. 44–52.
[19] Paul Johnson, Intellectuals: From Marx and Tolstoy to Sartre and Chomsky, 2007 revised edition (Harper Perennial), p. 225
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2020/4/19/404088.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2020/4/24/184178.html
Đăng ngày 28-04-2020; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.