Văn hoá truyền thống - Minh Huệ Nethttps://vn.minghui.org/newsPháp Luân Đại Pháp (Pháp Luân Công)Fri, 08 Nov 2024 10:57:32 +0000en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.3“Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thuhttps://vn.minghui.org/news/272900-han-lo-loi-cho-van-vat-di-xa-tim-co-thom-leo-cao-thuong-sac-thu.htmlFri, 08 Nov 2024 10:57:31 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=272900[MINH HUỆ 07-10-2024] “Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ” [1] – đây là câu thơ trong bài thơ Đường “Trai tâm”, đã nói ra trong sắc thu dần dần nồng nàn, nghênh đón tiết Hàn Lộ. Hàn Lộ là sương đã lạnh, ý nghĩa là đại bộ phận các khu vực […]

The post “Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thu first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[MINH HUỆ 07-10-2024] “Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ” [1] – đây là câu thơ trong bài thơ Đường “Trai tâm”, đã nói ra trong sắc thu dần dần nồng nàn, nghênh đón tiết Hàn Lộ. Hàn Lộ là sương đã lạnh, ý nghĩa là đại bộ phận các khu vực ở Trung Quốc, thời tiết sẽ từ mát mẻ quá độ sang lạnh giá.

2024-10-6-211124-0--ss.jpg

Hàn Lộ là tiết khí thứ 17 trong 24 tiết khí, cũng là tiết khí thứ 5 của mùa thu, mặt trời di chuyển đến kinh độ 195 độ, hàng năm rơi vào khoảng ngày 8 đến ngày 10 tháng 10 Dương lịch. Tiết Hàn Lộ năm 2024 bắt đầu từ ngày 8/10.

“Lịch Thư” có ghi chép rằng: “Sao Bắc Đẩu chỉ hướng nam giáp là Hàn Lộ, lúc này sương lạnh, sắp ngưng kết, do đó gọi là Hàn Lộ”.

“Nguyệt lệnh 72 hậu giải tập” có viết: “Tiết tháng 9, khí sương lạnh, sắp ngưng kết”.

Hàn Lộ là tiết khí xuất hiện chữ Hàn đầu tiên trong 24 tiết khí, nhưng không phải là biểu thị lạnh như mùa đông. Lúc này, khí hậu mát hơn tiết Bạch Lộ, sương cũng nhiều hơn, ban đêm mặt đất ngưng kết những hạt sương long lanh, và sắp ngưng kết thành sương móc, và mang theo chút lạnh, nhưng vẫn chưa tiến vào mùa đông lạnh giá.

'“寒露”气温较“白露”时更凉,露水更多,“凝空流欲遍,润物净宜看”[2]。(瑞士法轮功学员摄影作品)'
“Hàn Lộ” khí hậu mát hơn Bạch Lộ, sương nhiều hơn, “Ngưng tụ trên không chảy khắp nơi, lợi cho vạn vật sạch nên xem” [2]. (Tác phẩm nhiếp ảnh của học viên Pháp Luân Công Thụy Sĩ)

Miền Bắc đã hiện ra cảnh sắc cuối thu, đôi khi thấy sương móc vào buổi sáng. Miền Nam cũng dần đậm sắc thu, mát mẻ hanh khô. Tết Trùng Dương năm 2024 là ngày 11 tháng 10, chính là thời tiết đẹp “Đi xa tìm cỏ thơm” [3], dắt các trưởng bối leo cao lãm thưởng sắc thu.

Hàn Lộ đặc sắc: Ý thu nồng nổi gió cửu giáng

“Phất phơ gió mát thổi, thê lương sương lạnh ngưng” [4], Hàn Lộ (sương lạnh) là bước ngoặt khí hậu chuyển từ mát sang lạnh, mùa thu trước tiết Hàn Lộ mang theo chút mát mẻ, sau tiết Hàn Lộ thì thực sự có chút lạnh rồi, tiết khí ngay sau đó là Sương Giáng. Khoảng thời gian này, nhiệt độ liên tục giảm, cuối thu, sẽ trượt xuống mùa đông như là trượt ống trượt vậy.

Ba dấu hiệu của Hàn Lộ

“Thơ vịnh 24 tiết khí – Tiết Hàn Lộ tháng 9”

Hàn Lộ kinh thu muộn, sáng xem cúc dần vàng
Ngàn nhà gió quét lá, vạn dặm nhạn về nam.
Ngao sò buồn bầy chim, mùa màng sợ sương sớm.
Mới biết chí tùng bách, đông hạ sắc xanh xanh.

Bài thơ này của Nguyên Chẩn – thi nhân đời Đường, đã giải thích 3 dấu hiệu Hàn Lộ vô cùng sống động, khiến người ta cảm giác như chính mình đang trải qua.

Dấu hiệu thứ nhất – Hồng nhạn trở về bờ: Bắt đầu từ tiết Bạch Lộ giữa mùa thu, lục tục có hồng nhạn khởi hành bay về phương Nam. Đến Hàn Lộ mùa thu, loạt hồng nhạn cuối cùng xếp thành hình chữ Nhất hoặc hình chữ Nhân bay về phương Nam.

Dấu hiệu thứ 2 – chim sẻ xuống nước thành ngao sò: Trước sau ngày thứ 5 của Hàn Lộ, cuối thu trời lạnh, chim sẻ không xuất hiện, người xưa nhìn thấy bên bờ biển bỗng nhiên xuất hiện rất nhiều ngao sò, hoa văn và màu sắc vỏ của chúng rất giống chim sẻ, do đó bèn cho rằng, là chim sẻ biến thành.

Dấu hiệu thứ 3 – Cúc bắt đầu nở hoa vàng: Trước và sau ngày thứ 10 tiết Hàn Lộ, hoa cúc vàng nở rộ. Trong “Lễ ký” có ghi chép rằng “Tháng mùa thu, cúc nở hoa vàng”.

'寒露的第十天前后,黄菊盛开。(清 庄瑗《人物画卌・册・高士移菊图》,台北故宫博物院)'
Trước và sau ngày thứ 10 tiết Hàn Lộ, hoa cúc vàng nở rộ. (Tranh “Cao sĩ di cúc đồ” của Trang Viện đời Thanh” – Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Nổi gió Cửu giáng

Có câu ngạn ngữ rằng: “Tháng 9 nổi gió Cửu giáng, trốc đầu không nơi trốn”. Sách “Đài Loan huyện chí” do Trần Văn Đạt biên soạn những năm Khang Hy có ghi chép rằng: “Tháng 9, gió bắc lạnh buốt, thời gian lâu có tên là gió Cửu giáng”. Gió cửu giáng là chỉ gió lạnh tháng 9, tiết Hàn Lộ, miền Bắc Đài Loan đúng vào lúc gió mùa đông bắc tăng cường, gió bắc thổi mạnh, thổi bay mũ của những người bị trốc đầu vốn dùng mũ che đậy xấu xí.

Gió Cửu giáng lạnh thấu xương, nhưng tiết Hàn Lộ, ở vùng Bắc Phố, Tân Phố và Quan Tây của huyện Tân Trúc miền Bắc Đài Loan đúng vào mùa thu hoạch trái hồng, lúc này dân gian làm hồng khô, bánh hồng, gió Cửu giáng chính là trợ thủ đắc lực.

Mùa thu ăn trái hồng, có công hiệu bảo vệ sức khỏe tim mạch. Nhìn từ góc độ Đông y, trái hồng tính hàn, vị ngọt, có tác dụng nhuận phế chữa ho.

Tục ngữ có nói rằng: “Ăn cơm Hàn Lộ, ít gặp mặc áo đơn”, “Hàn Lộ chân không lộ”, người già cũng thường nói “lạnh bắt đầu từ chân”, sau Hàn Lộ, cần đặc biệt chú ý giữ ấm, nhất là chân.

Tập tục Hàn Lộ

Leo cao thưởng sắc thu

Hàn Lộ là thời tiết đẹp leo cao thưởng sắc thu, leo cao nhìn xa, tận cùng tầm mắt, sắc thu vàng khắp núi, do đó tục ngữ nói rằng: “Leo cao giải u uất mùa thu”. Do rất gần với tiết Trùng Dương mồng 9 tháng 9 âm lịch, nên tập tục này dần dần dịch chuyển sang tiết Trùng Dương, tập tục Trùng Dương leo cao có khởi nguồn từ thời nhà Hán, ban đầu là để tránh tà.

Nhìn từ sự biến hóa âm dương, người Trung Quốc cổ đại cho rằng “Núi là dương, đầm là âm, cao là dương, thấp là âm”, nơi cao là nơi có dương khí cực thịnh, mùa thu leo cao có thể tụ dương khí. Nhìn từ Tây y, leo cao có thể tăng dung lượng phổi, phòng chống cảm mạo. Tóm lại, leo cao ngắm cảnh sắc đã trở thành một hoạt động tốt giải sầu, thư thái thân tâm vào thời tiết thu này.

Thưởng thức hoa cúc

Tháng 9 Hoàng lịch Hàn Lộ đến, cũng gọi là Tháng hoa cúc, là mùa hoa cúc nở rộ. Khác với những loài hoa khác nở rộ mùa xuân và mùa hạ, hoa cúc càng nhiều sương giá thì càng nở rộ. Hoa cúc là loài hoa có tính tiêu biểu nhất cho thời tiết Hàn Lộ, nơi nơi đều thấy tung tích của cúc, mọi người thưởng ngoạn hoa cúc, uống trà hoa cúc, rượu hoa cúc, đã trở thành thú chơi tao nhã vào tiết khí này.

Trong “Tây khê tùng ngữ” của Diêu Khoan, văn nhân đời Tống đã gọi cúc là Thọ Khách, tượng trưng trường thọ. Trùng Dương mồng 9 tháng 9, chính là thời kỳ hoa cúc nở rộ, Trùng Dương leo cao người thêm thọ, Tết Trùng Dương cũng được gọi là Tết Hoa Cúc.

'寒露到来的黄历九月又称菊月,是菊花盛开的季节。(清 恽寿平 《瓯香馆写生册・菊花》,公有领域)'
Tháng 9 Hoàng lịch Hàn Lộ đến, cũng gọi là Tháng hoa cúc, là mùa hoa cúc nở rộ. (Tranh Hoa Cúc của Uẩn Thọ Bình đời Thanh)

Ăn bánh hoa cao và hạt vừng

Hàn Lộ và Tết Trùng Dương về thời gian là gần nhau, do đó có tập tục ăn bánh hoa cao sau khi leo cao, do bánh Cao và leo Cao đồng âm, nên ăn bánh hoa cao ngụ ý “Bộ bộ cao thăng”.

Người xưa nói: “Mùa thu hanh khô, nên ăn vừng để nhuận táo”. Cùng với khí hậu ngày càng lạnh, dân gian có tập tục “Hàn Lộ ăn vừng”. Vừng vị ngọn bình, trong các trước tác y học như “Thần Nông bản thảo kinh” và “Bản thảo cương mục” đều có đánh giá rất cao về vừng, có tác dụng bổ gan thận, nhuận ngũ tạng, hạ huyết áp, chữa ho suyễn, nhuận da, chống suy lão, còn nhuận tràng thông tiện, Đông y thường dùng vừng để cải thiện các chứng bệnh như váng đầu, hư nhược, bạc tóc, táo bón v.v.

Hàn Lộ dưỡng sinh

Người cổ đại Trung Quốc coi trọng “Thiên – nhân hợp nhất”, cho rằng còn người và thiên nhiên là một chỉnh thể, một năm bốn mùa khí hậu thay đổi đều ảnh hưởng đến nhịp điệu sinh lý của con người, do đó về ăn uống làm việc và nghỉ ngơi cần phải thuận theo quy luật tự nhiên của sự thay đổi của mùa và tiết khí.

Từ góc độ Đông y mà nói, thời tiết Hàn Lộ, đặc điểm thời tiết lớn nhất ở phương Nam là khô hanh, mà khô hanh thì dễ tổn thương phổi và dạ dày. Lúc này sự bốc hơi của mồ hôi và các chất dịch của mọi người khá nhanh, do đó thường xuất hiện da khô, tăng nếp nhăn, miệng khô cổ khô, ho khan ít đờm, thậm chí lông tóc rụng nhiều, táo bón v.v. Do đó trọng điểm dưỡng sinh là dưỡng âm phòng khô hanh, nhuận phế bổ dạ dày.

Ẩm thực lấy “chua, ngọn, nhuận” làm chính, ít ăn các thực phẩm cay nóng, phát tán. Đông y cho rằng, trong ngũ vị thì cay, ngọt có thể hóa thành âm sinh tân dịch, có thể ăn nhiều những thực phẩm nhu nhuận như cháo, gạo nếp, ngó sen, hoa cúc, cua để bổ trung ích khí, đồng thời tăng các món như gà, vịt, thịt bò, gan lợn, cá, tôm, táo tàu, củ từ v.v. để tăng cường thể chất, ít ăn ớt, gừng, hành, tỏi, vì cay nóng dễ tổn thương chức năng nội tạng của thân thể người.

Thời tiết Hàn Lộ, gió thổi lá rơi, cảnh tượng cuối thu hiu hắt dễ khiến người ta sinh ra cảm giác thê lương, dễ tổn thương tình cảm chí hướng, xuất hiện các trạng thái không hăng hái như tâm trạng bơ vơ, tinh thần ủy mị, ăn uống không ngon, và sau đó ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Lúc này, có thể thuận theo nhu cầu nghỉ ngơi an dưỡng, giảm các hoạt động quyết liệt, tăng thời gian ngủ.

Mọi người đều nói “Leo cao giải thu sầu”, có thể ra bên ngoài nơi có nhiều ánh nắng, leo núi leo cao, hoặc trò chuyện trên bãi cỏ, hoặc rèn luyện thư giãn, những việc này đều có thể thả lỏng thân tâm, có lợi cho việc bồi dưỡng tâm thái lạc quan thoáng đạt.

'寒露时节,正值九九重阳节,携长辈爬山登高或草地闲聊或進行舒缓锻炼,是放松身心好时节。(清 张若霭《墨妙珠林(卯)・册・寒露》,台北故宫博物院)'
Thời tiết Hàn Lộ, đúng dịp Tết Trùng Dường mồng 9 tháng 9, dắt trưởng bối leo núi hoặc trò chuyện trên bãi cỏ, hoặc rèn luyện thư giãn, là thời tiết thả lỏng thân tâm. (Tranh Hàn Lộ của Trương Nhược Ải đời Thanh, Bảo tàng Cố Cung Đài Bắc)

Trùng Dương kính lão

Tết Trùng Dương có rất nhiều hoạt động tập tục dân gian, như tránh ác tiêu tai, leo cao nhìn xa, ngắm hoa cúc, cắm cành thù du v.v., đều có ngụ ý kính úy trời đất, chúc phúc người già bình an mạnh khỏe. Tôn hiền kính lão là mỹ đức của dân tộc Trung Hoa, “Dê có ân quỳ cho bú, quạ có nghĩa cho ăn”, tận hiếu đạo là bổn phận thiên kinh địa nghĩa.

Nhưng trong cuộc sống hiện thực, “tận hiếu” luôn bị người hiện đại coi nhẹ, thậm chí vì việc nuôi dưỡng người già mà đưa nhau ra công đường, nhưng pháp luật cưỡng chế không thay đổi được cái tâm con người.

Có một số người như thế, trong cõi hồng trần cuồn cuộn, với sự thiện lương xuất phát từ nội tâm, đã thể hiện ra hiếu hạnh vượt trên bình thường trong cuộc sống bình thường: Xin giới thiệu với quý vị “seri gia đình hạnh phúc”, chúc quý vị gia đình hạnh phúc, vui vẻ.

Chú thích:

[1] “Trai tâm” của Vương Xương Linh đời Đường: Nữ mộng đổ vách đá, nước suối tĩnh mông lung. Dây tử cát hoa vàng, xinh tươi trong Hàn Lộ. Sáng uống sương trên hoa, đêm ngủ gió gốc thông. Hoa mây hóa thành nước, quang và ta hòa đồng. Nhật nguyệt động hồn phách, lưa thưa bầu trời không.

[2] “Đêm trăng thấy sương lạnh trên lá ngô đồng” của Đới Thái đời Đường: Lác đác lá ngô đồng, trăng trắng sương mới đọng. Nhỏ giọt đầy ánh sáng, lấp lánh sắc màu lạnh. Gió lay giọt sầu rơi, cành rung tiếc giọt châu. Khí lạnh ngỡ thu muộn, âm nhỏ đêm sắp tàn. Ngưng tụ chảy khắp nơi, tốt tươi lợi vạn vật. Ngắm cảnh đẹp không chán, cảnh sắc này hiếm thay.

[3] “Tiễn Hòe Quảng thi trượt trở về Dương Châu” của Vi Ứng Vật đời Đường: Thi trượt thường oan uổng, thiếu niên tâm nhẹ tênh. Chào bạn về bên biển, giống cậu nổi danh thơ. Tối từ biệt núi xanh, đi xa tìm cỏ thơm. Ngày về chắc không xa, sương lạnh ướt thành Vu.

[4] “Trì thượng” của Bạch Cư Dị đời Đường: Phất phơ gió mát thổi, thê lương sương lạnh rơi. Lan tàn hoa sắc trắng, lá sen rách còn xanh. Hạc một mình bãi cát, đôi đom đóm sáng nước. Nếu là cảnh sa sút, vẫn đáng rượu tỉnh say.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/10/7/483670.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/10/24/221353.html

Đăng ngày 08-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Hàn Lộ” lợi cho vạn vật: Đi xa tìm cỏ thơm, leo cao thưởng sắc thu first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Trung Thu nói về “Lễ”https://vn.minghui.org/news/272880-trung-thu-noi-ve-le.htmlThu, 07 Nov 2024 15:52:34 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=272880[MINH HUỆ 31-08-2024] Trung thu sắp đến, một vầng trăng sáng chiếu khắp thiên hạ. Nói đến Tết Trung thu, mọi người thường liên tưởng đến bánh Trung thu và câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt. Kỳ thực, ngoài ăn bánh Trung thu, thưởng nguyệt […]

The post Trung Thu nói về “Lễ” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của ban biên tập “Chúc bạn bình an”

[MINH HUỆ 31-08-2024] Trung thu sắp đến, một vầng trăng sáng chiếu khắp thiên hạ. Nói đến Tết Trung thu, mọi người thường liên tưởng đến bánh Trung thu và câu chuyện Thường Nga bôn nguyệt. Kỳ thực, ngoài ăn bánh Trung thu, thưởng nguyệt ra, vào ngày Tết Trung thu, người xưa còn có tập tục tế nguyệt, kính lão v.v. Những tập tục này không chỉ hàm chứa sự mong muốn được đoàn tụ với người thân, mà càng thể hiện ra ý kính ngưỡng của người xưa đối với trời đất Thần linh.

Nói đến nguồn gốc của Tết Trung thu, cần phải bắt đầu từ việc tế nguyệt. Trung thu trở thành ngày lễ, là từ việc tế Thần mặt trăng vào mùa thu phát triển ra. Trong “Lễ ký – Tế pháp” có ghi chép: “Mặt trời, mặt trăng, các vì sao, là những thứ mà con người chiêm ngưỡng”; “Đêm trăng là là tế nguyệt”. Chiểu theo tiết khí thời lệnh, người xưa có truyền thống “buổi sáng tiết Xuân phân, và buổi tối tiết Thu phân”, vào ngày Xuân phân này, ban ngày tế mặt trời; vào ngày Thu phân này, buổi tối tế mặt trăng. Ngày 18 tháng 8 (âm lịch), là chính giữa 3 tháng mùa thu, do đó người đời sau lấy ngày Trung thu (giữa mùa thu) làm ngày lễ tế mặt trăng.

Mùa thu là mùa ngũ cốc bội thu, cũng là lúc trái đất tiến vào thời kỳ nghỉ ngơi điều tức, nuôi dưỡng sức lực. Mọi người sau khi bận rộn thu hoạch, dùng trái cây tinh khiết và ngũ cốc để tế bái Thần Mặt trăng, cảm ơn một năm qua mưa thuận gió hòa, cảm tạ sự bảo hộ của trời đất Thần linh.

Nếu sau khi thu hoạch, không để đất đai nghỉ ngơi, vội vàng bắt đầu trồng trọt thì sẽ ra sao? Trong “Lễ ký – Nguyệt lệnh” có viết rằng: “Trọng thu thực hành xuân lệnh, thì mưa thu không rơi, cây cỏ sinh trưởng, quốc gia có mối lo”. Trọng thu nếu nếu thực hiện xuân lệnh (cày cấy) thì mưa thu sẽ ngừng rơi, cây cối lại ra hoa, quốc gia sẽ có khủng hoảng lớn.

Lễ của trời đất bốn mùa, đạo của âm dương hài hòa, không chỉ là nông nghiệp và trồng trọt, mà còn liên quan đến mọi phương diện, xuất phát từ các nguyên nhân như lợi ích, tham cầu v.v., con người có thể vào lúc thời cơ không thích hợp, làm những sự việc không thích hợp. Nếu không phù hợp với Lễ, rời xa khỏi thiên lý thiên Đạo, thế thì sẽ xuất hiện các sự tình mà Thượng Thiên cảnh báo như như tai họa, trời trừng phạt v.v. Lễ pháp như thế này được nói rất rõ ràng trong “Nguyệt lệnh”, nhưng thực sự làm được thì không dễ.

Lễ mùa thu không thể trái được

Trong Hán Thư, Hậu Hán Thư, tổng cộng có 16 lần dẫn dụng “nguyệt lệnh”, đều là vì một số viên quan quận, châu, phủ nào đó, “mùa hạ thực hiện lệnh mùa thu” hoặc “mùa thu thực hiện lệnh mùa xuân, trái với thiên thời, mà đã xuất hiện đủ các dấu hiệu cảnh báo của thiên tượng.

Những năm Hán Hòa Đế, một năm nọ, đã sắp đến mùa hạ, vốn là khí tương vạn vật hồi sinh, trái đất ấm áp, nhưng thời tiết vẫn lạnh lẽo thiếu hơi ấm. Quan đại thần Lỗ Cung quan sát được một số châu quân đã hành quyết tù phạm vào mùa hạ, chứ không phải vào mùa thu như truyền thống.

Theo ghi chép trong “Hạ lệnh”, người xưa cho rằng, mùa xuân vạn vật hồi sinh, nên không được bắt giết động vật, làm tổn hại cỏ cây; mùa thu ngũ cốc chín, vạn vật điêu linh, lúc này là thời cơ để thu hoạch, săn bắn. Đối với sinh mệnh con người thì cũng là đạo lý như thế, tuy nhiên nếu 1 người vào mùa hè phạm tội chết, cần phải thi hành, nhưng cũng chờ đến mùa thu mới xử tử. Như thế mới hợp với đạo của tứ thời. Đây là truyền thống mà người xưa lưu lại.

Do đó Lỗ Công can gián với Hán Hòa Đế rằng, chiểu theo những gì “Nguyện lệnh” nói, thì mùa hạ cần giảm nhẹ hình phạt, phóng thích phạm nhân tội nhẹ, vì việc nhà nông đang bận, nên để họ trở về hoàn thành cày cấy. Nếu mùa hạ thực hiện pháp lệnh mùa thu, xử tử hình, thế thì sẽ xảy ra hiện tượng mưa khổ liên tiếp, ngũ cốc không chính.

Lỗ Công nói tiếp, từ tháng 3 đến nay, khi hậu bất thường lạnh giá, cây trồng lẽ ra là bắt đầu sinh trưởng, nhưng tình hình sinh trưởng không tốt. Đây là biểu hiện của việc trên ngược thời khí, dưới tổn thương nông nghiệp.

Lỗ Cung lại thuật lại đạo lý của “Nguyệt lệnh”, đây là quy định do triều Chu chế định, kế thừa lễ nhà Hạ và nhà Thương. Triều đại tuy khác nhau, nhưng đạo lý này không thay đổi. Chính sự tứ thời, thực hiện đều như nhau. Trên thuận lòng Trời, dưới thuận mệnh vật, để đạt được sự hài hòa với thời tiết. Đây mới là đạo của vương giả.

Hán Hòa Đế nhận thấy Lỗ Cung nói có đạo lý, lệnh cho các châu quận không được thực thi hình phạt hà khắc vào mùa hạ, tuân theo trật tự của “Lễ ký – Nguyệt lệnh”, thuận theo thiên thời, hài hòa bách tính. Trong “Hậu Hán thư”, sử quan bình luận Hán Hòa Đế, nói rằng ông đã tuân theo truyền thống của tổ tiên, trừng phạt đại ác, tuyển chọn người hiền năng, đã làm tròn trách nhiệm của thiên tử.

Đến những năm Hán An Đế, một năm nọ, kinh thành và một số quận quốc liên tiếp mưa, ảnh hưởng đến thu hoạch. Hán An Đế xuống chiếu, “năm nay vốn hoa màu bội thu, sắp đến thu hoạch, nhưng mưa liên miên, e rằng sẽ ngập làm tổn hại ngũ cốc. Trẫm trằn trọc suy nghĩ tại sao lại xảy ra việc này, mưa không ngớt, là do nhân dân oán hận”.

Thời cổ đại, mỗi khi gặp thiên tai bất trắc, đều là triều đình để quần thần trực ngôn nói ra những tệ nạn. Sau khi hiểu rõ tình hình, Hán An Đế nói: “Quan võ lạm dung uy quyền ngược đãi thuộc hạ, quan văn thi hành chính sách hà khắc, quan lại mượn việc công làm điều gian, khiến bách tính hoạn nạn thống khổ. Sẽ trừng phạt công khai với những quan lại bê trễ, khinh mạn này”.

Hán An Đế lại nhấn mạnh một sự việc quan trọng, “hiện nay đã đến mùa thu, chiểu theo những ghi chép trong “Nguyệt lệnh”: ‘Giữa thu nuôi dưỡng bảo hộ người già yếu, tặng ghế và gậy cho người già, tặng cháo cho họ’. Hiện nay là tháng 8, chiểu theo hộ khẩu đăng ký, tặng ghế và gậy và cháo cho người già, nhưng đại bộ phận các quận hiện không thực hiện. Cũng có nơi phát cháo, nhưng trong cháo có lẫn vỏ trấu và lúa lép. Tình trạng như thế này, quan lại địa phương lại không đôn đốc kiểm tra, đích thân xử lý. Đây là trái với truyền thống mùa thu kính dưỡng người già. Tình hình như thế này cần phải lập tức sửa chữa, kính phụng người già, sửa chữa bù đắp lỗi lầm”. Các địa phương lại kiểm tra lại hộ khẩu đối chiếu những người già, phát bổ sung ghế, gậy và cháo.

Trong “24 bộ sử”, các triều đại đều lấy “Nguyệt lệnh” làm lễ, khi thiên tai nhân họa thì phản tỉnh bản thân, đó là cách làm phổ biến. Từ ‘nguyệt lệnh’ xuất hiện trên 260 lần.

Tử Du vấn lễ

Tại sao “Nguyệt lệnh” lại được coi trọng như vậy? Đạo lý của lễ tứ thời là thế nào? Tử Du – học trò của Khổng Tử, từng hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy, cái gọi là lễ, có phải là trị sửa tà ác, bảo toàn mỹ đức tốt lành không?”

Khổng Tử nói: “Là như thế”.

Tử Du hỏi: “Vậy trị sửa tà ác và bảo toàn mỹ đức như thế nào?”

Khổng Tử nói: “Tế lễ ở ngoại ô vào sáng ngày Xuân phân và tối ngày Thu phân, là sự kính úy đối với Thượng Thiên. Tế tự tông miêu là sự tưởng nhớ đối với tổ tiên. Lễ tặng cúng tế, là biểu thị hiếu hạnh đối với người đã chết. Lễ hương xạ (bắn cung) và hương ẩm (uống rượu), là biểu thị nhân ái đối với dân chúng xóm làng. Lễ thết đãi là biểu thị sự tôn kính đối với tân khách”.

Tại sao có thứ tự trước sau như thế này? Khổng Tử nói tiếp: “Nếu hiểu rõ ý nghĩa lễ tế trời đất ở ngoại ô, hiểu tế lễ tông miếu mùa xuân và mùa thu, thế thì đối với việc trị sửa quốc gia, thì đã nắm rõ như lòng bàn tay rồi. Do đó, sinh hoạt hàng ngày có lễ, từ đó có sự phân biệt rõ lớn nhỏ già trẻ. Vì vậy, nội bộ gia đình có lễ, thì một gia đình 3 thế hệ hòa thuận. Triều đình có lễ, thì quan chức và tước vị có trật tự. Việc săn bắn có lễ, thì việc diễn tập quân sự thành thục. Do đó, có lễ thì cung đình có thước đo, dụng cụ đong đo và tế lễ có tiêu chuẩn, ngũ vị điều hòa cũng có sự phối hợp tứ thời, âm nhạc có tiết chế, xe cộ có quy luật phù hợp, quỷ thần ai nấy đều được hưởng cúng tế. Việc tang có thể biểu đạt được sự bi ai phù hợp. Biện luận trò chuyện cũng có trình tự thứ bậc. Bá quan ai giữ chức phận người ấy, chính sự được thi hành thuận lợi. Đem lễ vận dụng vào hành động của bản thân và hết thảy việc trước mắt, như thế thì tất cả đều có thể làm được tốt”.

Khổng Tử đã nói ra đạo lý “đại lễ và trời đất cùng tiết tấu”: “Lễ là trật tự của trời đất. Hài hòa cho nên trăm vật đều biến hóa, trật tự nên mọi vật đều khác biệt”. Vạn vật mỗi cái đều khác nhau, nhưng lại vận hành chiểu theo trật tự. Lễ là thước đo và nhịp điệu vận hành của vạn vật.

Hơn 2000 năm qua, “tế trời đất vào buổi sáng Xuân phân và buổi tối Thu phân” là đại lễ tế ngoại ô quan trọng nhất của các triều đại, truyền đạt cho thiên hạ tinh thần kính Trời, kính Thần, tạ ơn Trời, tạ ơn Thần. Tế lễ trời đất, mặt trời, mặt trăng, đã trở thành nội dung quan trọng “Kính trời, và làm theo tổ tiên”, và dần dần diễn biến thành những ngày lễ dân gian. Bằng các loại hình thức khác nhau, biểu đạt sự kính phụng đối với Thần và sự cảm ân đối với Thượng Thiên, đồng thời dùng đó làm quy phạm đạo đức luân lý nhân gian.

Ngày lễ tết truyền thống là tài sản quý báu trong văn hóa dân tộc Trung Hoa, thể hiện mạch Thần truyền của văn hóa Trung Hoa. Thời xưa, trên từ thiên tử, dưới đế bách tính, không ai là không tôn kính “Trời”, và lấy đó làm cơ điểm để quan sát và hành sự. Thế là mới có sự xuất hiện lý luận hoàn chỉnh “Thiên – nhân hợp nhất”, có một loạt nghi lễ kính Trời lễ Thần. Còn Trung Cộng thực hiện đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, trong Cách mạng Văn hóa đã nhổ tận gốc văn hóa truyền thống. Năm 1999, Trung Cộng còn bức hại những học viên Pháp Luân Công tín ngưỡng Chân Thiện Nhẫn, khiến cho đạo đức xã hội biến mất, lòng người lãnh đạm. Chúng ta chỉ có vứt bỏ Trung Cộng, thoái xuất khỏi các tổ chức đảng đoàn đội của Trung Cộng, thì mới thuận ứng với đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, thì mới xây dựng lại được trật tự xã hội bình thường, thì mối quan hệ giữa người với người mới hài hòa, gia đình mới có thể hạnh phúc mỹ mãn.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/31/481399.html

Đăng ngày 07-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Trung Thu nói về “Lễ” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 3)https://vn.minghui.org/news/272847-tu-thuyet-van-giai-tu-nhin-coi-nguon-cua-chu-han-3.htmlWed, 06 Nov 2024 15:07:22 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=272847[MINH HUỆ 22-08-2024] (Tiếp theo Phần 1 Phần 2) 4. “Thiên – nhân hợp nhất” trong chữ Hán “Thiên – nhân cảm ứng”, “Thiên – nhân hợp nhất” là một đặc trưng quan trọng trong văn hóa truyền thống Trung Hoa. Trời tuy ở trên cao, nhưng mọi thời khắc đều có […]

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 3) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Mịch Chân

[MINH HUỆ 22-08-2024] (Tiếp theo Phần 1 Phần 2)

4. “Thiên – nhân hợp nhất” trong chữ Hán

“Thiên – nhân cảm ứng”, “Thiên – nhân hợp nhất” là một đặc trưng quan trọng trong văn hóa truyền thống Trung Hoa. Trời tuy ở trên cao, nhưng mọi thời khắc đều có liên hệ với nhân gian: “Trời soi con người, giống như tấm gương”, “Làm việc thiện, Trời Đất đều biết; làm việc ác, Trời Đất cũng biết”. Những việc thiện ác ở nhân gian, Thượng Thiên thông qua thiên tượng để cảnh báo thế nhân, vì vậy từ xưa đến nay, có cách nói là “quan sát Đạo Trời để đối ứng Đạo của người”, hợp đức với Trời, giống như trong “Dịch Thư” có viết: “Dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự” (hợp đức với trời đất, hợp sự sáng trong với nhật nguyệt, hợp trật tự với bốn mùa).

“Trời hiển thị thiên tượng, để thấy lành dữ. Đó là hiển thị cho con người. Từ Nhị (Nhị, cổ văn là chữ Thượng); Tam thùy là Nhật, Nguyệt, Tinh. Quan sát thiên văn, để quan sát sự biến đổi, biểu thị việc của Thần”.

“Thuyết văn giải tự” giải thích chữ Thị (hiển thị) là, Thượng Thiên hiển thị thiên tượng, là để báo trước lành dữ. Trên chữ Thị (示) là chữ Nhị (二), cổ văn Nhị nghĩa là Thượng (ở trên cao), ở dưới là chữ Tiểu (小) là Tam Thùy, đại biểu cho Nhật Nguyệt Tinh (mặt trời, mặt trăng và các vì sao), là ý tượng mà Thượng Thiên hiển thị cho con người. Khi xảy ra nhật thực, nguyệt thực, tinh tượng biến hóa, hạn hán, lũ lụt, thì các đế vương cổ đại sẽ quan sát thiên tượng, cho rằng mình trị quốc sai phương pháp, Thượng Thiên đưa ra cảnh cáo, thế là hạ chiếu trách tội bản thân, đại xá thiên hạ, để bày tỏ sự kính úy đối với Thần linh.

“Thuyết văn – Thị bộ” có 60 chữ, biểu thị Thần linh, tế tự, hoạ phúc, lễ chế và những nội dung liên quan đến Thiên Thần, như Lễ, Phúc, Tường (may mắn), Họa, Thần, Tế, Chúc (cầu nguyện), Xã (Thần thổ địa), Tổ (tổ tiên) v.v., đều từ chữ Thị (示) diễn hóa ra.

Chúng ta làm thế nào mới được Thượng Thiên bảo hộ?

“Lễ (禮) là thực hành. Dùng để thờ Thần để được phúc. Gồm bộ Thị (示) và chữ Lễ (豊 – dụng cụ đựng đồ tế lễ)”. Chữ Lễ (豊) là đồ dùng tế lễ, gồm bộ Đậu (豆 – đồ dùng đựng thực phẩm), tượng hình.

Lễ (豊) là đồ dùng tế lễ, dùng đồ dùng tế lễ để đựng lương thực và đồ hiến tế, thành kính dâng Thần linh, thì sẽ được Thần linh bảo hộ. Từ đồ dùng và nghi thức tế Thần mở rộng ra trong cuộc sống của mọi người, là cần phải tuân theo lễ nghi, phép tắc.

Cổ nhân nói “Quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành” (Quan sát Đạo Trời, thực hiện ý chỉ của Trời). Ý nghĩa của câu nói này là hiểu mệnh Trời, và thân thể và cái tâm thống nhất thực hiện. Mấy nghìn năm nay, đã hình hành tập tục kính Thiên, thuận Thiên, tín Thần bái Thần. “Lễ ký – Trung dung” có viết: “Giao Xã chi lễ là để thờ Thượng Đế”. Lễ Thần Xã là chỉ lễ tế Thiên Địa, ngày mùa đông tế Trời gọi là Giao, ngày mùa hạ tế Đất gọi là Xã, hợp thành Giao Xã.

Trong những ngày lễ truyền thống Trung Hoa, đều là từ tế tự diễn hóa ra. “Lễ ký – Nguyệt lệnh” có ghi chép rằng, vào ngày đầu tiên của năm mới, Thiên tử cần phải cử hành đại lễ tế Trời, còn phải cử hành các hoạt động “cầu ngũ cốc với Thượng Đế” và với Thần Nông Hậu Tắc. Ngày Lập Xuân, Thiên tử đích thân dẫn Tam công, Cửu khanh, Chư hầu, Đại phu, đi đón xuân ở ngoại thành phía Đông. Cảm ơn và ghi nhớ sự hóa dục của Trời Đất, cảm ơn mưa thuận gió hòa. Do đó đã xây dựng mối quan hệ giữa con người và Thần.

“Thuyết văn giải tự” có viết rằng: Phúc là phù hộ. Phúc (福) là từ chữ Phúc (畐) diễn hóa ra, Phúc (畐) nghĩa là đầy. Gồm chữ Cao (高) lược bớt đi, tượng hình cao và dày. Phúc (畐) là một loại đồ dùng tế lễ cổ đại, có bụng căng lên tượng trưng no đầy đa phúc, sau thêm bộ Thị (示) thành chữ Phúc (福). chữ Phúc (畐) và chữ Phúc (福) là cùng nghĩa.

Phần Nhã Tụng trong Kinh Thi có viết rằng: “Báo dĩ giới phúc, vạn thọ vô cương” (Dùng phúc báo đáp, sống trường thọ). Phúc cụ thể là gì? Người xưa quy kết thành 5 phương diện, gọi là Ngũ Phúc, tức Hạnh phúc, May mắn, Trường thọ, Mỹ đức, và An lành.

Nhà y dược và dưỡng sinh thời Đường là Tôn Tư Mạc, đã viết trong “Phúc thọ luận” rằng: “Phúc giả, tạo thiện chi tích dã; họa dã, tạo bất thiện chi tích dã” (Phúc là do sự tích lũy của những việc thiện; họa là do sự tích lũy của những việc bất thiện); “Phúc hề khả dĩ thiện thủ” (Phúc ư, đó là dùng thiện để có được phúc). Trong văn hóa truyền thống, mọi người kính Trời, kính Thần, an phận tri mệnh, tích đức hành thiện. Nho gia, Phật và và Đạo gia đều răn dạy mọi người: Tín Thần kính Trời, hướng thiện, trân quý phúc, tri ân báo đáp, thì mới có được hạnh phúc chân chính, thì mới được Thượng Thiên bảo hộ. Văn hóa truyền thống Trung Hoa được gọi là “Văn hóa Thần truyền”, quan niệm Thiên – nhân hợp nhất đã thể hiện sâu sắc mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội, và giữa con người với con người. Mọi người đều tin vào chân lý thiện ác hữu báo: Người tích thiện thì Trời giáng cát tường, tích bất thiện thì Trời giáng tai ương. Do đó mọi người không ngừng tu dưỡng quy chính bản thân, trở về với chính niệm, lấy thiện làm gốc, lấy đức là cao quý nhất.

5. “Phản bổn quy chân” trong chữ Hán

Trong văn hóa truyền thống “Thiên – nhân hợp nhất”, có quá trình tịnh hóa “Tham thiên địa chi tạo hóa” (nghiên cứu sự tạo hóa của trời đất), và “hợp đức” với trời đất, thông qua tu luyện, học tập, có thể đạt được cảnh giới phản bổn quy chân, giác ngộ chân tướng vũ trụ.

Chúng ta hãy cùng xem “Thuyết văn giải tử” giải thích về chữ Chân (真): “Chân là Tiên nhân biến hình mà thăng lên trời”. Chữ Giáp cốt là chữ Nhân trên chữ Đỉnh (cái vạc lớn), biểu thị ý nghĩa Đạo gia “an đỉnh thiết lư” tu luyện để phản bổn quy nguyên, mà tu thành đắc Đạo phi thăng, tức tu thành “chân nhân”. Nghiên cứu khởi nguồn của chữ Chân (真) giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa tu luyện.

Chữ Chân trong Giáp cốt văn là, phía trên là hình người phi thăng, phía dưới là cái đỉnh.

Vậy “Chân nhân” là khái niệm như thế nào? Tại sao sau khi tu luyện đắc Đạo lại gọi là Chân nhân?

Chiểu theo cách nói của giới tu luyện, sinh mệnh thực sự của con người là nguyên thần, người ta thường gọi là linh hồn. Nguyên thần của con người là sinh ra ở không gian cao tầng, sau này vì không phù hợp với yêu cầu tiêu chuẩn của không gian đó nữa, nên dần dần rơi xuống đến tầng không gian nhân loại này, sau khi đầu thai được thân thể người, trở thành người sống trên thế gian.

Nhục thể trong không gian nhân loại, chẳng qua chỉ là một tải thể của linh hồn tồn tại bình thường trong không gian này, đợi đến khi hết dương thọ, vứt bỏ nhục thể, linh hồn trở về nơi khác. Người tu luyện nếu tu luyện thành công, thì trở về thượng giới, hoặc gọi là thiên quốc, hoặc gọi là thiên đàng. Người thường không tu luyện, thông thường sẽ tiến nhập lục đạo luân hồi, người làm nhiều việc ác thì sẽ đọa địa ngục.

Tu luyện trở về là sinh mệnh bản ngã, Đạo gia gọi đó là “Chân nhân”. Có thể thấy, chữ “Chân” này biểu thị ý nghĩa như “bản nguyên, bản chất”, do đó sau này chữ Chân được mở rộng hàm nghĩa là “bản nguyên, bản chất”, như “Trang Tử – Thu thủy” có viết: “Cẩn thủ nhi vật thất, thị vị phản kỳ chân” (Cẩn thận giữ gìn, chớ để mất, thì đó gọi là trở lại cái Chân của mình), và câu mà người ta thường nói như “phản phác quy chân”, và câu mà giới tu luyện thường nói là “phản bổn quy chân” v.v.

Trong quá trình tu luyện, tu trì, sự nâng cao tiêu chuẩn đạo đức là căn bản của sự thăng hoa cảnh giới.

Trong “Thuyết văn giải tự” có viết: “Đức, thăng dã” (đức là thăng lên). Trong chữ Giáp cốt, chữ Đức là một con mắt người ở giữa đường, một đường thẳng hướng lên, biểu thị con người cần phải tuân theo thẳng (chính trực) mà đi, thì mới là chính đạo. Trong chữ Kim văn, bên dưới chữ Mục (mắt) có thêm chữ Tâm, biểu thị không chỉ mắt nhìn phải chính, mà còn phải tâm chính, và trong hành động trước sau như một, thì người như thế này có thể gọi là người có đức.

“Đức” được coi là đặc tính bản chất trong vũ trụ, phù hợp với đạo pháp của vạn vật.

  • Đức giả đạo chi xá, vật đắc dĩ sinh (Đức là nơi cư ngụ của Đạo, vạn vật đắc được đức mà sinh trưởng. (“Quản Tử – Tâm thuật thượng”).
  • Khổng đức chi dung, duy đạo thị tùng (Hình thái của đức lớn là chuyển dịch theo Đạo) (“Lão Tử – chương thứ 21”)
  • Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn đạo nhi quý đức. (Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi dưỡng vạn vật, vạn vật hiển hiện các loại hình dạng hình thái, môi trường khiến vạn vật sinh trưởng. Do đó vạn vật không cái gì là không tôn kính đạo và coi trọng đức. (“Lão Tử – chương thứ 51”)
  • Duy đức động thiên, vô viễn phất giới. (Chỉ có đức mới cảm động được Trời, không nơi xa xôi nào mà không tới được). (“Thư – Đại Vũ mô”)
  • Đức vô thường sư, chủ thiện vi sư; thiện vô thường chủ, hiệp ư khắc nhất. (Tu dưỡng đức hạnh không có khuôn mẫu cố định, chỉ chú trọng vào lấy hành thiện làm khuôn mẫu, làm thầy. Hành thiện không có phép tắc bất biến, chỉ cần luôn bảo trì được cái tâm thuần chính. (“Thư – Hàm hữu nhất đức”)

Trung Quốc cổ đại có cách nói “tích đức”, “thủ đức”, “tổn đức”, “thất đức”. Hành xử thuận theo Đạo, là có thể thủ đức, và tích đức. Hành xử trái ngược với Đạo, thì là thất đức và tổn đức. Việc du dưỡng đạo đức, đều là mệnh đề trung tâm trong văn hóa phương Đông và phương Tây.

  • Tri thức chân chính là đạo đức. (Socrates)
  • Con đường đức hạnh là rất hẹp, con đường ác hạnh là thênh thang. (Cervantesz)
  • Cái đẹp là biểu hiện của thiện về đạo đức. (Kant)
  • Chân thực bao gồm đạo đức, vĩ đại bao gồm cái đẹp. (Hugo)
  • Đạo đức và tài nghệ là vượt xa tài sản giàu sang, con cháu sa đọa có thể hủy hoại gia đình hiển quý, tiêu tán tài sản khổng lồ, nhưng đạo đức và tài nghệ thì có thể khiến một người bình thường trở thành Thần bất hủ. (Shakespeare)

Trong “Thuyết văn giải tự”, chỉ có chữ “Đức” là giải thích là “thăng lên”, còn các cái khác đều là lượng từ như 1 thăng, vài thăng. Có thể thấy, người xưa cho rằng, sự nâng cao thực sự của cảnh giới con người, thì quan trọng nhất là đức hạnh và tâm tính, đây là Đạo căn bản phản bổn quy chân.

(Hết)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/22/从《说文解字》看汉字的渊源(3)-480633.html

Đăng ngày 06-11-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 3) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 2)https://vn.minghui.org/news/271625-tu-thuyet-van-giai-tu-nhin-coi-nguon-cua-chu-han-2.htmlTue, 24 Sep 2024 08:48:37 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=271625[MINH HUỆ 15-08-2024] (Tiếp theo Phần 1) 3. Thiên thể, vũ trụ và nhân gian trong chữ Hán “Thuyết văn giải tự” đã nói rõ cội nguồn của chữ Hán: Ngẩng nhìn các thiên tượng trên trời, cúi nhìn các phép tắc dưới đất, quan sát hoa văn của các loài […]

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Mịch Chân

[MINH HUỆ 15-08-2024] (Tiếp theo Phần 1)

3. Thiên thể, vũ trụ và nhân gian trong chữ Hán

“Thuyết văn giải tự” đã nói rõ cội nguồn của chữ Hán: Ngẩng nhìn các thiên tượng trên trời, cúi nhìn các phép tắc dưới đất, quan sát hoa văn của các loài chim thú và sự thích nghi với địa phương, gần thì lấy từ bản thân, xa thì lấy từ các vật”. Cũng có nghĩa là, từ thiên văn, địa lý, đến chim thú, cá tôm côn trùng, từ những vật xung quanh con người, đến những sự vật xa lạ ở xa, tất cả đều được rút gọn ‘kiểu toàn tức’ (mang theo toàn bộ thông tin) vào trong chữ Hán.

Khi giới thiệu văn tự tượng hình, Hứa Thận lấy ví dụ chữ “Nhật, Nguyệt”.

“Nhật (日 – mặt trời): nghĩa là đầy. Tinh khí Thái dương không hao hụt”

“Nhật: nghĩa là đầy”, cổ nhân cho rằng, trên mặt trời có con quạ vàng, Vương Sung đời Hán viết trong “Luận hoành – Thuyết nhật” rằng: “Nhà Nho nói rằng: trên mặt trời có con quạ 3 chân, trên mặt trăng có thỏ, cóc”.

“Nguyệt (月 – mặt trăng): là khuyết. Tinh khí Thái âm”.

Mỗi ngày đều có thể nhìn thấy mặt trời, mặt trăng, chữ tượng hình có mặt trực quan. Chữ Đán (旦 – buổi sáng), là hình mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời, biểu thị trời đã sáng rồi. Chữ Tịch (夕 – buổi tối), là hình nửa mặt trăng mọc ra, biểu thị đã đến tối rồi. Đây là phương diện chữ tượng hình phù hợp với ấn tượng thường nhật của mọi người.

Chữ Đán trong Kim văn. Kim văn là chữ khắc đúc trên đồ đồng, Giáp cốt văn là chữ khắc trên mai rùa, là văn tự thời kỳ Thương Chu.

Chữ tượng hình có mặt trực quan, rõ ràng, nhưng đồng thời nó cũng có hàm nghĩa thần thánh, cao xa. Chữ Nhật (mặt trời) là tinh thái dương, Nguyệt (mặt trăng) là tinh thái âm. Người xưa cho rằng, mặt trời là tinh thái dương, chủ trì về sinh dưỡng ân đức, là tượng trưng cho quân vương”. Thái dương chiếu khắp vạn vật, có ân đức nuôi dưỡng sinh mệnh. Trong văn hóa truyền thống Thiên – nhân hợp nhất của Trung Quốc, thì thiên tượng đối ứng với cát hung, họa phúc nhân gian, quan sát nhật thực, đối chiếu nhân gian, đó là cách làm thông thường của các triều đại dùng để “xem lành dữ”, khi xuất hiện nhật thực, là biểu thị bậc quân vương có chỗ thất đức, “tu sửa đức hạnh thì cái dữ cái hại bị loại trừ”. Vì vậy trong “24 bộ sử”, bất kể triều đại nào, nếu xuất hiện nhật thực, thì không triều đại nào là không xem xét án tù oan, nghe lời trực ngôn, tu đức kính Trời, bù đắp sai lầm, những việc thế này có ở khắp mọi nơi.

Ngoài mặt trời, mặt trăng ra còn có các vì sao đầy trời, người xưa cho rằng, những vì sao trên trời này cũng đối ứng với nhân gian.

Chữ Tinh (星 – ngôi sao) trong Kim văn cũng là chữ tượng hình, giống như mấy mặt trời nhỏ hội tụ với nhau, ngụ ý là những vì sao lấp lánh trên trời cao. “Thuyết văn” giải thích chữ Tinh rằng: “tinh của vạn vật, trên trời là các vì sao”. Cho rằng vạn vật trên mặt đất, là đối ứng với các vì sao trên trời.

Sự luân chuyển của mặt trời, mặt trăng và các vì sao có quy luật gì không?

Trong “Thuyết văn giải tự” có giải thích về chữ Tuế rằng: “đó là sao Mộc. Trải qua 28 vì sao, bố cáo khắp âm dương, 12 tháng một lần”. Sao Mộc cũng được gọi là Tuế tinh, người xưa cho rằng sao Mộc cứ 12 năm đi một vòng trên trời, mỗi năm đi được một ‘thứ’, do đó 12 tháng cũng gọi là ‘một thứ’, cũng có nghĩa là, sao Mộc đi được một phần 12 vòng trên bầu trời, đó chính là một năm, nên gọi là Tuế tinh.

Bầu trời mà sao Mộc đi được một vòng, người xưa dùng chữ Viên (圜 – bầu trời) để biểu thị, chữ Viên này thông với chữ Viên (圓 – tròn, hình tròn). Trong “Thuyết văn giải tự” giải thích “chữ Viên (圜 – bầu trời) là Thiên thể. Viên là tròn”. Trong “Thiên vấn”, Khuất Nguyên đã từng viết rằng: “Viên tắc cửu trùng, thục doanh độ chi?” Bầu trời chín tầng, ai điều khiển sự vận hành của nó?

Sao Mộc vận hành một vòng trên bầu trời là thời gian 12 năm, trải qua bốn phương vị đông tây nam bắc, mỗi phương vị đều có bảy ngôi sao, tổng cộng 28 ngôi sao. Bốn phương vị lần lượt là Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ, trong văn hóa truyền thống, chúng tượng trưng có các vị Thần bảo hộ bốn phương.

Bốn phương, 28 vì sao, trở thành hệ tham chiếu ghi chép năm trong lịch pháp cổ đại của Trung Quốc.

Tuế là tên cổ của sao Mộc, cùng với bốn hành tinh Kim, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là Ngũ tinh. Để quan trắc sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và Ngũ tinh, người xưa đã lựa chọn 28 chòm sao gần đường Hoàng đạo (tức là quỹ đạo vận hành của mặt trời trong một năm nhìn từ trái đất) làm tiêu chí, gọi là Nhị thập bát tú (28 ngôi sao).

Trong “Tiền Hán thư” có viết rằng, “các nhà thiên văn dùng 28 chòm sao, đánh dấu sự vận hành của Ngũ tinh, mặt trời, mặt trăng, để ghi chép thiên tượng hung cát, là điều mà các Thánh vương dùng để tham khảo việc triều chính. Kinh Dịch viết rằng: Quan sát thiên văn, để xem xét sự biến đổi thời cuộc”. Quan trắc thiên tượng, dùng 28 ngôi sao làm tham chiếu, quan sát sự thay đổi của Ngũ tinh, mặt trời mặt trăng trong quá trình vận hành, để xác nhận sự thay đổi cát hung ẩn chứa trong đó, Thánh vương căn cứ vào sự biến đổi của thiên tượng để trị lý thiên hạ. Trong “24 bộ sử”, ghi chép của các triều đại về quan trắc thiên văn đều vô cùng chi tiết, trên thực tế, tài liệu ghi chép thiên văn được công nhận là sớm nhất, hệ thống nhất, là từ sách sử của Trung Quốc cổ đại.

Hơn 9000 chữ trong “Thuyết văn giải tự” truy ngược về cội nguồn, dốc sức khôi phục nội hàm và bản chất đằng sau chữ Hán, khi chúng ta đứng từ mỗi góc độ để thu được thông từ từ trong đó, thì chúng ta có thể thu được những nhân tố căn bản của một phương diện nào đó một cách có hệ thống. Chữ Hán giống như “hóa thạch sống”, mang theo sự tìm tòi và ghi chép của người Trung Quốc cổ đại về vũ trụ và thiên thể, là nhịp cầu thân thuộc nhất mà lại xa lạ nhất để người đời sau hiểu về văn hóa Thần truyền Trung Hoa.

Lượng thông tin mà chữ Hán mang theo rất phong phú, cũng khiến thế giới phương Tây quan tâm chú ý. Triết gia nổi tiếng của Pháp Jacques Derrida (1930-2004) đã từng nói, “chữ Hán là văn tự duy nhất trên thế giới có khả năng tự túc, tự bản thân nó đã bao gồm thông tin hoàn chỉnh”. (Chương 3, sách “Luận văn tự học” của Jacques Derrida, Nhà xuất bản dịch thuật Thượng Hải 1999, Uông Đường Gia dịch). Trong cuốn “Khoa học kỹ thuật và văn minh Trung Hoa” của nhà khoa học nổi tiếng người Anh Joseph Needham đã viết rằng: “Nếu Thượng Đế từng dạy nhân loại một loại ngôn ngữ nào đó, thì loại ngôn ngữ đó nhất định sẽ phải giống chữ Hán”. (Thư của Gottfried Leibniz gửi La Croze, năm 1707).

(Còn tiếp)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/15/480632.html

Đăng ngày 24-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế của Đài Truyền hình NTD hồi sinh tinh thần võ đạohttps://vn.minghui.org/news/271608-cuoc-thi-vo-co-truyen-trung-hoa-quoc-te-cua-dai-truyen-hinh-ntd-hoi-sinh-tinh-than-vo-dao.htmlTue, 24 Sep 2024 08:44:35 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=271608[MINH HUỆ 05-09-2024] Sau ba ngày tranh tài, Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế lần thứ 8 do Đài Truyền hình NTD (NTDTV) tổ chức đã kết thúc vào ngày 2 tháng 9 năm 2024 tại New Jersey, Hoa Kỳ. […]

The post Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế của Đài Truyền hình NTD hồi sinh tinh thần võ đạo first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của học viên Pháp Luân Đại Pháp tại New York

[MINH HUỆ 05-09-2024] Sau ba ngày tranh tài, Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế lần thứ 8 do Đài Truyền hình NTD (NTDTV) tổ chức đã kết thúc vào ngày 2 tháng 9 năm 2024 tại New Jersey, Hoa Kỳ. Cuộc thi cho thấy tác động sâu sắc của võ thuật truyền thống đối với sức khỏe thể chất và sự phát triển cá nhân.

Từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9, 91 võ sỹ đã tụ họp tại Waldwick, New Jersey để tham gia cuộc thi. Vòng sơ khảo đã được tổ chức hồi tháng 6 tại Đức và Đài Loan. Lễ trao giải diễn ra vào ngày 2 tháng 9, với các võ sỹ nhận huy chương ở các hạng mục tay không và có binh khí. Ngoài hai giải vàng, còn có 11 giải bạc và 41 giải đồng. Các thí sinh cũng được trao giải khuyến khích, giải thưởng cho thí sinh mới giàu triển vọng, và giải thưởng đóng góp cho bảo tồn di sản văn hóa.

Cuộc thi độc đáo ở chỗ chỉ tập trung vào các môn võ thuật truyền thống Trung Hoa với sứ mệnh khôi phục võ đức, một quy tắc ứng xử bắt buộc đối với các võ sỹ võ cổ truyền. Đây cũng là một phần trong chuỗi sự kiện văn hóa do NTDTV tổ chức nhằm phục hưng nền văn hóa truyền thống.

b971ee4b08fc00bc73ba1937698dcd29.jpg

Lễ trao giải Cuộc thi Võ Cổ truyền Quốc tế lần thứ 8 của NTDTV vào ngày 2 tháng 9 (Ảnh: The Epoch Times)

Chủ tịch cuộc thi: “Chúng tôi đang cố gắng tạo ra một cuộc phục hưng”

Ông Lý Hữu Phủ, chủ tịch Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế của NTDTV, cho biết: “Võ thuật truyền thống ngày nay đã hoàn toàn thất truyền và không còn ai truyền dạy chúng theo hình thức nguyên bản nữa”.

Những gì còn sót lại ngày nay chỉ là một số động tác hình thể, một số đường quyền cơ bản của một số môn phái, và có rất ít võ sư có thể dạy theo cách nguyên bản – truyền đạt thành phần tinh thần, tâm linh và nội hàm đằng sau mỗi động tác – chứ chưa nói đến các ‘bí kíp’ của những môn phái đó, những điều chưa bao giờ được viết ra.

Bản chất của võ cổ truyền là “võ đức”, ông Lý cho biết điều này cung cấp cho các võ sư một lộ trình để có thể hướng dẫn việc luyện võ lên những cảnh giới cao hơn, thậm chí một ngày nào đó vượt qua các hình thức ban đầu vốn đã thất truyền.

“Thực ra, chúng tôi không chỉ muốn phục hồi những môn võ cổ truyền này. Chúng tôi còn đang cố gắng tạo ra một cuộc phục hưng”, ông Lý bày tỏ.

Thí sinh: “Con đường đúng đắn”

a76730aacb0f997d0616a6293e51b202.jpg

Anh Lưu Đại Nhạn, người chiến thắng giải vàng ở hạng mục tay không nam biểu diễn ‘hình ý’ (The Epoch Times)

Đây là lần thứ năm võ sỹ Lưu Đại Nhạn đến từ Đài Loan tham gia cuộc thi và lần này anh đã giành được huy chương vàng. Trong các kỳ thi trước đây, anh cũng đã từng đoạt giải. “Mục tiêu của tôi là đạt đến trình độ của những bậc thầy đi vào huyền thoại đó, và tiếp đến là những tầm cao mới”, anh Lưu, đến từ Đài Loan và hiện là một giáo viên võ thuật, cho biết.

1238ba76d71204f1ec4fcdab1060f2b9.jpg

Anh Eike Opfermann, người đã giành giải vàng ở hạng mục binh khí nam với thanh kiếm Kỳ môn (Ảnh: The Epoch Times)

Võ sỹ đoạt giải vàng Eike Opfermann đến từ Đức cho biết: “Võ đức nghĩa là ngăn chặn cái ác và đề cao cái thiện… Đó cũng là không sợ hãi trước cái ác, không gian dối trước cái thiện và phải khiêm cung.”

d78ae043a6304c0ba5c8e48bcca45a38.jpg

Người chiến thắng giải bạc Trần Thiểu Hiên ở hạng mục binh khí nam (Ảnh: The Epoch Times)

Người chiến thắng giải bạc Trần Thiểu Hiên, đến từ Đài Loan, đã từng tham gia nhiều cuộc thi lớn nhỏ trên khắp Đài Loan và Trung Quốc. Trong số tất cả những cuộc thi này, NTDTV là đơn vị duy nhất kiên trì với sứ mệnh phục hưng truyền thống, anh cho biết.

“Đây là con đường đúng đắn,” anh Trần nói. “Và sử dụng một hình thức thi đấu để làm điều này, điều này có tác động đến các võ sỹ chúng tôi, và thay đổi hướng đi cho chúng tôi trên con đường là võ sỹ.”

Anh Trần cho biết đó là con đường đúng đắn vì võ thuật truyền thống chú trọng võ đức. Theo cách nhìn của một võ sỹ, mà trong thời cổ đại thường là một chiến binh, nhận thức rằng bạn có khả năng và sức mạnh để lấy đi một mạng sống cho thấy mạng sống con người mong manh như thế nào, từ đó dẫn đến quyết tâm bảo vệ mạng sống của mình, anh chia sẻ. Và khi bạn nhận ra rằng bạn có sức mạnh và khả năng tự bảo vệ mình, bạn cũng nhận ra rằng bạn không bao giờ có thể bị dồn vào chân tường nữa và do đó, không cần phải sợ hãi nữa, anh cho biết thêm.

269809d6fab5804c30401cbd3c151090.jpg

Anh Sergio Torres đến từ Bolivia, người giành giải bạc ở hạng mục tay không nam (Ảnh: The Epoch Times)

c5bd453b605919292018a94e62b7b452.jpg

Anh Armilali Pinzon đến từ Colombia, người chiến thắng giải đồng ở hạng mục thiếu niên tay không (Ảnh: The Epoch Times)

db8ab2c66ce6ec18e7e1515642a7b7fa.jpg

Võ sỹ Thi Dĩ Chân đến từ Đài Loan, người giành giải bạc ở hạng mục tay không nữ (Ảnh: The Epoch Times)

Khán giả: Chú trọng về đạo đức thật “quan trọng và sâu sắc”

Cô Liv Segura, một quản lý nhân sự đến từ Pennsylvania, người đã từng học võ thuật, đã xem cuộc thi hai ngày liên tiếp. Cô cho biết, “Đây là một cuộc thi rất ý nghĩa. Các thí sinh thực sự đã thể hiện được kỹ năng của mình. Họ cũng chú trọng võ đức, chú trọng đạo đức chứ không chỉ là đánh nhau, và đề cao tinh thần… Bầu không khí ở đây rất vui vẻ và hợp tác. Mọi người coi nhau như anh chị em và rất thiện chí.” Cô cũng cho biết sau khi xem cuộc thi, cô nghĩ mình nên học lại võ thuật. Cô hy vọng NTDTV sẽ tổ chức cuộc thi này hàng năm.

06494cbbb292204f6a2c4e678274eda4.jpg

Cô Liv Segura, một khán giả đến từ Pennsylvania (Ảnh: The Epoch Times)

Cô Michelina Palmer, một giáo viên trung học ở tiểu bang New York, cùng con trai đang học võ thuật đến xem trận chung kết.

a655de85ebc4bfd333084c3d30c3c8ce.jpg

Một người mẹ và con trai trong trận chung kết (Ảnh: The Epoch Times)

Cô cho biết, “Hai mẹ con tôi đã đọc một số thông tin về bối cảnh của cuộc thi của NTDTV trên mạng. Con trai tôi đọc được nội dung về võ đức. Tôi cho rằng điều này rất quan trọng và sâu sắc. Xã hội hiện nay đầy rẫy bạo lực và đánh nhau. Nhưng ở đây họ nói về việc trở thành người tốt, bảo vệ kẻ yếu và học võ thuật để ngăn chặn bạo lực. Đây là một cơ hội học tập rất tốt cho con trai tôi, để ngay từ nhỏ cháu đã biết đến những đạo đức, kỷ luật này, không sử dụng kỹ năng để làm tổn thương người khác, không bị dụ dỗ làm điều xấu, rằng võ thuật được sử dụng để làm điều tốt, để đối xử với mọi người một cách chân thành và để bảo vệ công lý. Điều đó thật tuyệt vời.”

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/9/5/481593.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/9/6/219845.html

Đăng ngày 24-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Cuộc thi Võ Cổ truyền Trung Hoa Quốc tế của Đài Truyền hình NTD hồi sinh tinh thần võ đạo first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 1)https://vn.minghui.org/news/271597-tu-thuyet-van-giai-tu-nhin-coi-nguon-cua-chu-han.htmlMon, 23 Sep 2024 10:56:47 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=271597[MINH HUỆ 10-08-2024] 1. Nguồn gốc của “Thuyết văn giải tự” Văn tự Trung Quốc có lịch sử lâu đời. Trong “Dịch kinh – Hệ từ”, “Lã thị xuân thu” và các điển tịch khác đều có ghi chép rằng, Thương Hiệt, sử quan của Hoàng Đế đã sáng tạo […]

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Mịch Chân

[MINH HUỆ 10-08-2024]

1. Nguồn gốc của “Thuyết văn giải tự”

Văn tự Trung Quốc có lịch sử lâu đời. Trong “Dịch kinh – Hệ từ”, “Lã thị xuân thu” và các điển tịch khác đều có ghi chép rằng, Thương Hiệt, sử quan của Hoàng Đế đã sáng tạo ra chữ viết, khai sáng văn tự Hoa Hạ chính thống. Từ các chữ như Giáp cốt văn, Kim văn cho đến Tiểu triện, là thuộc về thể hệ văn tự cổ. Đến thời Hán xuất hiện Lệ thư, là thuộc về thể hệ văn tự ngày nay. Do văn tự ngày nay có sự thay đổi khá lớn so với văn tự cổ đại, nên mọi người khó liễu giải được nội hàm vốn có của cổ văn, và dần dần sinh ra sự biến đổi. Đến thời kỳ Đông Hán, Hứa Thận trước tác “Thuyết văn giải tự”, cố gắng khôi phục cội nguồn của chữ Hán, và ngăn chặn “hành vi biến đổi loạn” chữ Hán của mọi người.

Hứa Thân, tên tự là Thúc Trọng, là người làng Vạn Tuế, huyện Triệu Lăng, Nhữ Nam (tức làng Hứa Trang, huyện Yển Thành, tỉnh Hà Nam ngày nay). Ông từng đảm nhận chức quan Tế tửu của Tàng thư xứ của hoàng cung Đông Hán, hiệu đính các thư tịch cổ.

Trong “Thuyết văn giải tự”, Hứa Thận đã thuật lại khởi nguồn của chữ Hán: “Thời cổ đại, Bào Hi thị làm vua thiên hạ, ngửa mặt quan sát thiên tượng trên trời, cúi nhìn những hình tượng ở dưới đất. Ông thấy hoa văn của chim thú thích nghi với nơi chúng ở, gần thì lấy bản thân mình, xa thì lấy các vật để đối chiếu, thế rồi bắt đầu tạo ra Bát quái, dùng để tham chiếu… Sử quan của Hoàng Đế là Thương Hiệt bắt đầu tạo ra chữ viết, dựa theo loài mà phỏng theo hình tượng, do đó gọi là văn. Sau này kết hợp hình – thanh, gọi là tự”.

Bào Hi thị tức là Phục Hi thị. Phục Hi thị ngửa mặt quan sát thiên tượng, cúi nhìn địa lý, căn cứ theo đạo lý vốn có của sự vật đã sáng tạo ra Bát quái, có thể quan trắc tượng của thiên địa vạn vật v.v. Đến thời kỳ Hoàng Đế, sử quan Thương Hiệt dựa vào hình tượng của các loài, đã sáng tạo ra văn tự tượng hình, sau này diễn biến thành văn tự có cả hình và thanh.

Nhưng đến khi xuất hiện Lệ thư vào thời Hán, thì so sánh văn tự với Triện thư thời kỳ trước rất thuận tiện và dễ nhận biết, và vẫn được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Nhưng do mất đi diện mạo gốc “tượng hình dựa theo loài” của văn tự cổ đại, nên đã bắt đầu nảy sinh sự bóp méo và hiểu sai đối với văn tự. Trong “Thuyết văn giải tự”, Hứa Thận đã chỉ ra rằng, để thuận tiện cho việc ghi nhớ, mọi người đã đặt ra các câu vần vè như: “Mã đầu nhân vi trưởng, nhân trì thập vi đấu, trùng giả khuất trung dã”, dùng cái sai lan truyền cái sai, gây hại rất rộng.

Để ngược dòng về cội nguồn chữ Hán, để thế nhân hiểu được ý nghĩa chân thực ẩn tàng trong chữ Hán, Hứa Thận đã dùng thời gian 22 năm, thu thập lượng lớn các văn tự thượng cổ, chữ đại triện, chữ tiểu triện… Và căn cứ vào các tư liệu mà các bậc Thánh hiền cổ đại lưu lại, đã khôi phục lại nguồn gốc của hơn 9.000 chữ Hán.

Nếu không có “Thuyết văn giải tự” làm ngay chính gốc trong sạch nguồn, thì mọi người sẽ khó mà nhận ra được hàm nghĩa của các văn tự cổ đại như đồ đồng thời Thương Chu, cổ văn thời Tam Quốc và Giáp cốt văn khai quật được ở thời sau này. Học giả chú giải cổ thời Thanh là Chu Tuấn Thanh đã viết trong “Thuyết văn thông huấn định thanh – Lâm bộ” của ông rằng: “Người ta thường nói rằng, sách ‘Thuyết văn giải tự’ có công lao không kém Hạ Vũ trị thủy” Cho đến ngày nay, “Thuyết văn giải tự” vẫn là sách công cụ gối đầu giường mà mọi người vẫn thường sử dụng. Khi người ta muốn tìm về hàm nghĩa ban đầu của một chữ Hán, thì đầu tiên là nghĩ đến “Thuyết văn giải tự”.

2. Hình tượng của chữ Hán: Ngửa mặt quan sát thiên tượng trên trời, cúi nhìn những hình tượng ở dưới đất

Chữ Hán là văn tự tượng hình, mà chữ “tượng” này không chỉ là sự giống nhau ở hình tượng bề ngoài, mà còn hàm chứa hình tượng bản lai của sự vật, tức là phản ánh quy luật bản chất của sự vật. Trong “Thuyết văn giải tự”, Hứa Thận viết rằng: “Ngửa mặt quan sát thiên tượng trên trời, cúi nhìn những hình tượng ở dưới đất. Ông thấy hoa văn của chim thú thích nghi với nơi chúng ở, gần thì lấy bản thân mình, xa thì lấy các vật để đối chiếu”, sau đó “tượng hình dựa theo loại, cho nên gọi là văn”, rồi lại “hình – thanh bổ trợ, tức gọi là tự”.

Điều đó cũng có nghĩa là, chữ Hán đã tiết lộ quy luật nội tại tạo vật của trời đất. Trong “Hoài Nam Tử” có ghi chép: Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết, trên trời rơi xuống thóc gạo, nửa đêm quỷ gào khóc.

Nói theo cách thông tục là, sự xuất hiện của chữ Hán là một đại sự “kinh thiên địa, khốc quỷ thần”. Nhà bình luận thư họa nổi tiếng đời Đường là Trương Ngạn Viễn đã giải thích trong “Lịch đại danh họa ký” rằng: việc sáng tạo ra chữ Hán khiến Tạo hóa không thể che giấu được bí mật trong đó, do đó đã giáng thóc gạo xuống, khiến yêu ma quỷ quái không thể ẩn hình, do đó ban đêm quỷ thần gào khóc.

Tại sao Thương Hiệt có thể nhìn ra sự kỳ diệu của sự tạo hóa của thiên địa vạn vật? Trong lịch sử có một thuyết nói rằng, Thương Hiệt có “con ngươi kép, bốn mắt”, ông ngẩng đầu có thể nhìn thấy quy luật vận hành của mặt trời, mặt trăng, các vì sao, ông cúi đầu có thể quan sát được sự huyền diệu của vạn vật. Thương Hiệt phân ra thành các loài, ghi chép thành văn tự. Đây chính là chữ tượng hình sớm nhất.

Do lịch sửa đã quá lâu rồi, nên việc ông có “con ngươi kép, 4 mắt” thì không có tài liệu lịch sử xác thực nào để làm căn cứ, nhưng nhìn từ góc độ của giới tu luyện, nếu Thương Hiệt có thần thông “khai thiên mục”, và có tầng thứ khá cao, thì ông đã thông qua thiên mục là có thể quan sát được chân tướng của không gian khác.

Hứa Thận quy việc Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết là “tượng hình dựa theo loài”, chính là nhìn thấy lý của vũ trụ ở tầng thứ cao, kết hợp với sự vật mà mọi người bình thường nhìn thấy, cảm nhận được để biểu đạt ra, phù hợp với thói quen tư duy của người thường, như thế mới tạo điều kiện cho mọi người dễ nhớ và truyền bá.

Từ chữ tượng hình mà Thương Hiệt sáng tạo ra, sau này diễn biến ra càng ngày càng nhiều chữ, là chiểu theo phương pháp “Lục thư”. Trong “Chu lễ” có đề cập đến “Lục thư”, nhưng không giải thích. Hàm nghĩa cụ thể của Lục thư lần đầu tiên được Hứa Thận giải thích trong “Thuyết văn giải tự”, đó là: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, và giải tá. Cũng có nghĩa là, đối với việc hình thành và công dụng của chữ Hán, thì “Thuyết văn giải tự” là một trước tác truy về cội nguồn, kế thừa của đời trước, mở ra cho đời sau.

(Còn tiếp)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/10/480631.html

Đăng ngày 23-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Từ “Thuyết văn giải tự” nhìn cội nguồn của chữ Hán (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
“Phần tử trí thức”https://vn.minghui.org/news/271570-phan-tu-tri-thuc.htmlSun, 22 Sep 2024 15:16:54 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=271570[MINH HUỆ 06-08-2024] Phần tử trí thức là gì? Ai là trí thức? Chỉ nói riêng từ này, hiển nhiên là không có nguồn gốc từ tiếng Trung, mà là từ ngôn ngữ phương Tây. Từ này trong tiếng Anh là intellectual, tiếng Pháp là […]

The post “Phần tử trí thức” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Ban biên tập “Thiên địa thương sinh”

[MINH HUỆ 06-08-2024] Phần tử trí thức là gì? Ai là trí thức? Chỉ nói riêng từ này, hiển nhiên là không có nguồn gốc từ tiếng Trung, mà là từ ngôn ngữ phương Tây. Từ này trong tiếng Anh là intellectual, tiếng Pháp là intellectuel, đều trực tiếp từ nguồn gốc tiếng La-tin intellectualis.

Hàm nghĩa của từ vựng phương Tây này đều tập trung ở “lý giải” và “năng lực quan sát”, vì vậy người phù hợp với hàm nghĩa của từ này nhất ban đầu là các giáo sĩ, nhà tiên tri và các triết gia. Đến cuối thế kỷ 19, từ này bắt đầu được sử dụng chủ yếu cho một loại người khác: Người có suy nghĩ, nghiên cứu, suy xét có tính phê phán đối với hiện thực xã hội, và đưa ra phương án giải quyết đối với vấn đề quy phạm xã hội.

Bất kể là quá khứ hay hiện tại, phẩm chất đặc trưng của loại người này là dùng lý tính (chứ không phải cảm tính) để nhận thức và xem xét sự vật. Họ theo đuổi ý nghĩa sinh mệnh, quan tâm đến giá trị cuối cùng của nhân sinh, học tập và tôn trọng mối quan hệ giữa sinh mệnh và tự nhiên cũng như vũ trụ. Họ dựa vào sự tìm tòi và giải đáp những vấn đề này, đưa đại chúng đến tầm nhìn rộng lớn hơn, vì vậy họ cũng được ví là “cặp mắt và người phát ngôn của xã hội và thời đại”. Ở phương Tây có câu nói phân biệt họ với những người có tri thức, có kỹ năng: “Khi một nhà khoa học tiến hành nghiên cứu thí nghiệm hạt nhân trong phòng thí nghiệm, thì ông ấy không phải là một trí thức, nhưng khi ông ấy ký tên trên thư thỉnh nguyện phản đối chiến tranh hạt nhân thì ông ấy mới là trí thức”. Hiển nhiên, trong xã hội phương Tây, có mối quan tâm công cộng và ý thức phê bình, và có tinh thần trách nhiệm xã hội mạnh mẽ, thì mới là một đặc trưng lớn của trí thức.

Nhưng ở Trung Quốc thì rất khác. Ở Trung Quốc, công nhân và nông dân thì không gọi là “phần tử”, “địa chủ, phú hào, phản động, kẻ xấu, kẻ cánh hữu”, “phản cách mạnh” thì mới bị gọi là “phần tử”. Nhưng những người nắm giữ rất nhiều tri thức, đọc sách càng nhiều, thì lại bị gọi là “phần tử trí thức”. Trước đây, động tí là Trung Cộng gộp chung “phần tử trí thức” và các từ vựng có ý nghĩa phụ diện như “tư bản”, “bất đồng chính kiến”, “cải tạo” lại với nhau. Hiện nay lại gọi những người có bằng cấp, có tri thức chuyên môn, có thu nhập bậc trung gọi là “phần tử trí thức”. Kỳ thực, có lẽ những người đọc sách ở Trung Quốc xưa vừa thông thạo lục nghệ lại vừa có thể đỗ khoa cử, các thân sĩ hương thân tích tụ văn hóa sâu dày nhiều đời, thì mới là “trí thức” (intellectual) mà phương Tây nói đến.

Nếu người đọc sách nhiều, dám tư duy biện luận, có tinh thần trách nhiệm, người quan tâm đến xã hội, quan tâm đến ý nghĩa nhân sinh, và giá trị cuối cùng của nhân sinh, chính là “phần tử” trong tiếng Trung hiện đại. Những “phần tử” này mới là thiểu số, là những người trong nguy nan vẫn nguyện ý bước ra trợ giúp đại chúng bước tới bình an và tươi sáng. Có lẽ thay vì dịch “intellectual” là “phần tử trí thức”, thì dịch là “trí giả” (người có trí tuệ) sẽ hay hơn. Như thế nhìn chữ thấy nghĩa, không bị lẫn với những người như các nhà khoa học, chuyên gia, giai cấp trung lưu, người có kỹ năng chuyên biệt.

Trí giả không chỉ có tri thức, mà còn có tấm lòng thương xót chúng sinh, không hạn cuộc bản thân vào danh lợi thế gian, hoặc hưởng lạc thế tục, không phải chỉ quan tâm bản thân mình tốt đẹp. Đối với họ mà nói, tư duy độc lập có tầm cao, và khả năng quan sát và biểu đạt không e sợ, chính là trạng thái bình thường của đời sống tinh thần và trách nhiệm xã hội. Đương nhiên, nếu có thể tu luyện và đạt đến khai công khai ngộ, thì đó là đã trở thành bậc giác giả rồi, là sinh mệnh của cảnh giới cao hơn nữa.

Hy vọng mọi người trong khi hóng mát leo lên nơi cao ngắm cảnh, có thêm một chủ đề thú vị và có ý nghĩa.

(Lời nói đầu của “Thiên địa thương sinh” kỳ thứ 301)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/8/6/480516.html

Đăng ngày 22-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post “Phần tử trí thức” first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 2)https://vn.minghui.org/news/269303-truyen-tho-ly-bach-thu-dong-ngoc-den-chua-than-van-ly-bach-benh-duong-chau-nho-co-huong-2.htmlMon, 09 Sep 2024 09:58:10 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=269303[MINH HUỆ 24-05-2024] Tóm tắt: Năm 26 tuổi, Lý Bạch ở Dương Châu tiêu tán hết 30 vạn vàng, lại bị bệnh nặng nên rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bất đắc chí. Thư đồng Đan Sa xoay sở nên Lý Bạch chuyển đến […]

The post Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
– Tiểu thuyết lịch sử –

Bài viết của Nguyệt Quang

[MINH HUỆ 24-05-2024] Tóm tắt: Năm 26 tuổi, Lý Bạch ở Dương Châu tiêu tán hết 30 vạn vàng, lại bị bệnh nặng nên rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bất đắc chí. Thư đồng Đan Sa xoay sở nên Lý Bạch chuyển đến tá túc trong chùa Đại Minh. Một đêm ở chùa Đại Minh, Lý Bạch có một giấc mộng kỳ lạ, sau khi tỉnh dậy, ông ngắm trăng nhớ cố hương, viết bài thơ tuyệt xướng thiên cổ “Tĩnh dạ tư” (Suy nghĩ đêm yên tĩnh).

(Tiếp theo Phần 1)

3.

Đan Sa lòng đầy cảm kích rời đi. Buổi tối ngày hôm sau, Lý Bạch chuyển đến chùa Đại Minh. Đại hòa thượng Giám Chân đích thân ra cổng chùa nghênh đón, Lý Bạch rất cảm kích. Đại hòa thượng Giám Chân nói: “Chùa Đại Minh chúng tôi muốn cảm ơn Lý thí chủ. Bài thơ trước đây của ngài ca ngợi tháp Tây Linh của chùa Đại Minh, viết rất hay. Nhưng chỗ chúng tôi đây cũng không phải là nơi ở không làm gì, nên khi ngài rảnh rỗi, có thể viết thơ tặng chúng tôi. Những bài thơ hay là vô giá. Chùa Đại Minh chúng tôi cũng không phải là chỉ có kiếm được mà không có chi tiêu”. Đại hòa thượng Giám Chân nói xong, cười và gọi tri khách tăng đến sắp xếp 2 phòng cho Lý Bạch và Đan Sa.

Phòng của Lý Bạch được bày biện rất trang nhã, màn đẹp, ruồi muỗi không vào được. Cửa sổ chạm khắc phù điêu, gỗ đàn hương thơm ngát, khiến người ta vui vẻ sảng khoái. Nhưng căn phòng của Đan Sa thì có chút đơn sơ, cửa sổ cũ một chút, màn có vài chỗ thủng, ban đêm đôi khi muỗi cũng đến thăm, nhưng cũng được quét dọn rất gọn gàng sạch sẽ.

Ở được hơn nửa tháng, sức khỏe Lý Bạch dần hồi phục. Một đêm, ông ngồi dựa thành giường, ngây ngây nhìn cửa sổ điêu khắc phù điêu. Bức phù điêu là “Ba con thỏ chung tai”. Trong vòng tròn của đồ hình là 3 con thỏ đang dốc sức chạy, con nọ nối đuôi con kia, đang đuổi nhau. Điều thú vị là 3 con thỏ này đều có 1 tai chung, hình thành một hiện tượng thần kỳ “1 con thỏ có 2 cái tai, 3 con thỏ có 3 cái tai”. Đồ hình “Ba con thỏ chung tai” này có bố cục khéo léo, chứa đầy sự thần bí và linh động, khiến người ta suy nghĩ xa xôi mãi.

Lý Bạch nhắm mắt, bên tai phảng phất như nghe thấy những tiếng chạy của 3 con thỏ. Ba con thỏ đó chạy vào trong sân, dường như chúng đang gọi ông. Lý Bạch lập tức đứng dậy, vài bước là bước ra khỏi cửa phòng. Ở trong sân, chiếc bàn đá yên tĩnh, thành giếng tĩnh lặng, cây quế rung rinh nhè nhẹ… Lý Bạch cảm thấy dường như mình đã biến thành một con thỏ, đuổi nhau nô đùa với 3 con thỏ kia ở trong sân. Ba con thỏ đó bỗng nhiên nhảy lên cây quế, biến mất trong đám lá rậm rạp.

Lý Bạch đi quanh cây quế mấy vòng, nhưng tìm mãi vẫn không thấy bóng dáng những con thỏ đó đâu. Ông gãi đầu, nét mặt tỏ vẻ nghi hoặc khó hiểu. Đột nhiên, ông ngẩng đầu nhìn thấy một đám mây lành trên đỉnh cây quế, một Tiên nữ xinh đẹp đang ôm một con thỏ đứng trên đám mây đó. Ái chà, đây chẳng phải là Hằng Nga trong truyền thuyết đó sao?

Lý Bạch mở to mắt, ngây ngây nhìn Hằng Nga đang ôm thỏ. Trên người cô phát ra ánh sáng của mặt trăng dịu dàng, ánh mắt thật thánh khiết, thật yên tĩnh. Nhìn cô, cái tâm xao động của Lý Bạch dần dần yên tĩnh lại.

Thời gian một nén hương trôi qua, trong màn đêm tĩnh lặng này đã xuất hiện một cảnh tượng thần kỳ. Phía sau bóng ảnh Hằng Nga ôm thỏ, phản chiếu như tấm gương, đột nhiên trong chớp mắt lại xuất hiện một Hằng Nga ôm thỏ giống người kia y hệt. Lý Bạch bất giác kinh ngạc trong tâm: Hằng Nga ôm thỏ thứ 2 này xuất hiện dưới sức mạnh thần bí nào?

Nhưng nghi vấn này vừa mới nổi lên thì đằng sau Hằng Nga thứ 2 lại đột nhiên xuất hiện Hằng Nga thứ 3, tiếp theo là thứ 4, thứ 5… cứ như vậy không ngừng, giống như trẻ em thổi ra bong bóng xà phòng vậy, liên tiếp không ngừng xuất hiện những Hằng Nga phát sáng đang ôm thỏ.

Rất nhanh chóng, đầy trời đều là những Hằng Nga ôm thỏ. Những Hằng Nga này dần dần nhỏ đi, cuối cùng hóa thành những khối phát sáng hình con sứa. Những “con sứa” phát sáng này dưới ánh trăng dần dần thăng lên không trung, xoay tròn, biến hóa vô tận thành các hình dạng. Hàng vạn những “con sứa” tụ tập trên bầu trời phía trên tháp Tây Linh, dần dần nhỏ lại, hội tụ thành những vì sao đêm lấp lánh trên bầu trời đêm. Muôn vạn ‘vì sao’ nhảy múa trên bầu trời. Cuối cùng trên bầu trời đêm rộng lớn dệt nên bức tranh hình chim đại bàng khổng lồ, rực rỡ, dường như muốn bay vút lên trời mây. Con chim đại bàng đó toàn thân phát sáng, ánh sáng của nó khoác lên tầng ánh sáng trắng bạc cho tháp Tây Linh, cả khoảng sân đều được chiếu sáng, giống như ban ngày.

Dường như lãng tử trải qua muôn ngàn gian khổ, thương tích đầy mình, quay trở về với quê hương ly biệt đã lâu. Hơi thở quen thuộc lại lâu ngày không gặp của chim đại bàng đó khiến máu của Lý Bạch chảy nhanh, ngưng tụ thành niềm vui và những giọt nước mắt cảm động ở khóe mắt. Lý Bạch không chớp mắt ngắm nhìn chim đại bàng sáng chói hơi run rẩy trên bầu trời. Thời khắc đó dường như không chỉ là sự giao lưu về thị giác. Chim đại bàng lấp lánh con mắt sáng như vì sao, dường như đang đối thoại tâm linh với Lý Bạch. Mỗi một ‘vì sao’ lấp lánh trên thân chim đại bàng khơi dậy sự hưởng ứng thần thánh mà lại không thể diễn tả bằng lời được trong nơi sâu thẳm nội tâm Lý Bạch. Lúc đó, Lý Bạch cảm thấy mình dường như nứt vỡ ra thành vô số mảnh nhỏ, những mảnh nhỏ ấy run rẩy nhè nhẹ theo sự kêu gọi của những ‘ngôi sao’ trên thân chim đại bàng. Một cảm giác hạnh phúc yên tĩnh dâng lên trong lòng Lý Bạch. Cảm giác này giống như em bé sơ sinh trở về với vòng tay của người mẹ, lại giống như một con chim nhạn cô đơn cuối cùng bay trở về khu rừng ấm áp.

Lý Bạch nhè nhẹ nhắm mắt, cảm nhận dòng chảy ấm áp khắp toàn thân, đến khi mở mắt ra, ông thấy đồ hình chim đại bàng đó đang dần dần tan biến trong màn đêm. Thế là Lý Bạch lại nhìn chăm chú không chớp mắt. Thực tế không phải đồ hình chim đại bàng đang tan biến, mà là nó đang bay về bầu trời cao xa hơn. Chim đại bàng đang bay về hướng cung trăng. Trong quá trình bay, đồ hình chim đại bàng không ngừng biến ảo trong con mắt của Lý Bạch. Một lúc sau, trong đồ hình đó lại nổi lên hình ảnh núi Đại Khuông ở đất Thục – quê hương của Lý Bạch. Lý Bạch không chỉ nhìn thấy hình ảnh thân thiết của cha mẹ, ông còn nhìn thấy dáng vẻ mờ mờ của Ngô Chỉ Nam và sư phụ Triệu Nhuy dưới chân núi. Một lát sau, trong đồ hình lại xuất hiện núi Thiên Sơn thành Toái Diệp. Bên sông Sở dưới chân núi Thiên Sơn, những người bạn thuở thơ ấu của Lý Bạch cưỡi ngựa quý hãn huyết phi như bay, đợi đến con ngựa cuối cùng chạy xa rồi, thì cảnh tượng lại thay đổi, xuất hiện cảnh tòa thành Trường An. Tòa thành này vuông vắn chỉnh tề như bàn cờ, các con phố trong thành ngang dọc đan xen, người trên phố đi lại náo nhiệt, hình ảnh người nhỏ như những con kiến.

Khi Lý Bạch tập trung tinh thần nhìn hoàng cung ở thành Trường An, thì cảnh tượng thành Trường An trong đồ hình bỗng nhiên biến mất, thay vào đó là Tiên cảnh Dao Trì như mộng ảo. Xung quanh Tiên cảnh Dao Trì là những vòng tròn ánh sáng màu vàng kim nhè nhẹ vây quanh – con chim đại bàng lấp lánh ánh sáng màu đỏ đã biến mất trong cung trăng. Trên bầu trời đêm chỉ còn lại hình ảnh Tiên cảnh to lớn và thần bí trong cung trăng sắc vàng.

Cảnh tượng Tiên cảnh này thực sự khiến người ta chỉ biết tán thán. Một Tiên nhân tóc xoăn màu xanh lam ở trung tâm bức hình, Ngài ngồi trên đài sen, toàn thân tỏa ra bầu không khí tường hòa. Dung mạo Ngài từ bi hòa ái lại trang nghiêm, ánh mắt sâu xa như biển cả. Phía sau thân Ngài là ánh sáng lấp lánh, ánh sáng đó giống như mộng ảo chiếu sáng toàn bộ Tiên cảnh.

Phía dưới hình ảnh là các đồng tử Tiên giới đang vui đùa, họ hoạt bát khả ái, ngây thơ trong sáng. Bên trái là 2 đồng tử đang nô đùa trong nước, họ vừa bơi vừa vỗ tay cười vui vẻ. Bên phải là 2 đồng tử đang cố gắng leo lên lá sen, gương mặt nhỏ nhắn của họ hồng hào, dốc hết sức mình, thể hiện vẻ tinh nghịch và khả ái.

Ở giữa bức hình đó là một nhóm Tiên nữ đang bay lượn, dáng vẻ nhẹ nhàng thướt tha, tay áo phất phới. Có vị Tiên nữ bay lượn giữa những lâu đài, tay họ xách giỏ hoa, rắc những bông hoa đó ra không trung, tạo thành những cơn mưa hoa mỹ lệ. Còn có những Tiên nữ đang biểu diễn các nhạc cụ, họ ung dung nhẹ nhàng sử dụng các loại nhạc cụ khác nhau, diễn tấu ra những giai điệu mỹ diệu rất hay.

Phía trên đỉnh bức hình là những nhạc cụ không có người diễn tấu mà tự phát ra tiếng nhạc, chúng lơ lửng trôi trên không trung, tự động phát ra những âm thanh vui tai, hòa cùng với lời ca và tiếng cười của các Tiên nữ, tạo thành bức tranh hài hòa mỹ hảo. Những nhạc cụ này dường như có sinh mệnh, tự động diễn tấu ra những âm nhạc mỹ diệu, khiến người ta vô cùng kinh ngạc.

Ánh mắt của Lý Bạch đang chăm chú dõi theo một chiếc đàn không hầu đang tự động chơi nhạc. Nhưng đúng vào tích tắc đó, cảnh tượng đầy Tiên khí thần bí đó bỗng biến mất. Nhìn xung quanh, chỉ thấy một khung cửa sổ đá tĩnh lặng, một bức phù điêu “Ba con thỏ chung tai” vẫn bất động như cũ, còn xung quanh là sự yên tĩnh an hòa đặc biệt của những căn phòng nhà chùa. Thì ra là một giấc mộng.

Lý Bạch trở dậy, đi bộ chậm rãi trong sân, bên thành giếng phủ một lớp sương mỏng. Nhìn kỹ, hóa ra là ánh trăng mềm như lụa đang rải xuống. Ông ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, chỉ thấy vầng trăng tròn vành vạnh màu vàng xa xa trên đỉnh tháp Tây Linh, trông càng có vẻ sáng hơn. Trong đêm yên tĩnh này, tình cảm nhớ quê hương bất giác dâng trào trong tim, Lý Bạch buột miệng ngâm nga:

Tĩnh dạ tư

“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”

Tạm dịch:

“Trăng sáng soi trước giường
Cứ tưởng đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.”
(Bản dịch của Tương Như)

Đúng vào ngày Lý Bạch rời khỏi chùa Đại Minh, ông vung bút viết bài thơ “Tĩnh dạ tư” này lên bảng đề thơ.

Thưởng thức từng chữ từng câu, đại hòa thượng Giám Chân gật đầu khen ngợi không ngớt, sai người treo ở chỗ cao trong Đại hùng Bảo điện. Đan Sa nhìn thấy bài thơ “Tĩnh dạ tư” ở Đại hùng Bảo điện, ngẩng đầu lên đọc 10 lần.

Đại hòa thượng Giám Chân hỏi: “Cậu cũng hiểu thơ?”

Đan Sa lắc đầu than rằng: “Ngày nay thiếu gia nhà con gặp nạn, thơ viết cũng kém đi. Bài thơ như thế này thì con cũng có thể làm được một bài”.

Đại hòa thượng Giám Chân bất giác sinh lòng kính trọng: “Thư đồng của đại thi hào Lý Bạch, tất nhiên là không tầm thường. Thơ cậu viết đó, có thể đọc chút xem, để bần tăng có diễm phúc lắng nghe”.

Thế là các vị hòa thượng trong Đại hùng Bảo điện nín thở, cung kính nghiêng đầu lắng nghe. Đan Sa cũng không khách khí, ho khan mấy tiếng, ưỡn ngực cất cao giọng đọc tác phẩm lớn của cậu:

Thâm dạ phiền

Chẩm biên ông ông ông,
Nghi thị lôi oanh long.
Cử đầu vọng quật lung,
Đê đầu phách văn trùng.

Tạm dịch:

Bên gối tiếng vo ve
Cứ tưởng sấm đùng đùng
Ngẩng đầu nhìn lỗ thủng
Cúi đầu đập muỗi trùng.

(Hết)

Bản quyền@2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/5/24/477604.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/7/15/219045.html

Đăng ngày 09-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 2) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 1)https://vn.minghui.org/news/269270-truyen-tho-ly-bach-thu-dong-ngoc-den-chua-than-van-ly-bach-benh-duong-chau-nho-co-huong.htmlSun, 08 Sep 2024 09:53:18 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=269270[MINH HUỆ 19-05-2024] Tóm tắt: Năm 26 tuổi, Lý Bạch ở Dương Châu tiêu tán hết 30 vạn vàng, lại bị bệnh nặng nên rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bất đắc chí. Thư đồng Đan Sa xoay sở nên Lý Bạch chuyển đến […]

The post Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
– Tiểu thuyết lịch sử –

Bài viết của Nguyệt Quang

[MINH HUỆ 19-05-2024] Tóm tắt: Năm 26 tuổi, Lý Bạch ở Dương Châu tiêu tán hết 30 vạn vàng, lại bị bệnh nặng nên rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bất đắc chí. Thư đồng Đan Sa xoay sở nên Lý Bạch chuyển đến tá túc trong chùa Đại Minh. Một đêm ở chùa Đại Minh, Lý Bạch có một giấc mộng kỳ lạ, sau khi tỉnh dậy, ông ngắm trăng nhớ cố hương, viết bài thơ tuyệt xướng thiên cổ “Tĩnh dạ tư” (Suy nghĩ đêm yên tĩnh).

1.

Dương Châu là nơi đen đủi, Lý Bạch đã tiêu tán 30 vạn vàng ở đó, rơi vào cảnh nghèo rớt mồng tơi. Dương Châu cũng lại là nơi đẹp nhất, Lý Bạch đã viết bài thơ “Tĩnh dạ tư” ở đó, khiến danh tiếng ông vang xa.

Những trải nghiệm của Lý Bạch ở Dương Châu là sau khi ông an táng người đồng hương Ngô Chỉ Nam ở bên hồ Động Đình. Năm đó, ông xuôi dòng sông Tương xuống phía Nam, đi qua sông Mịch La, cảm nhận được truyền thuyết cổ xưa về Khuất Nguyên ở nơi đó. Đến Đàn Châu, ở chân núi Nhạc Lộc Sơn, ngắm trông những ngôi chùa và màu xanh non khắp núi. Sau đó, ông bước trên con đường bằng đá tảng ở Hoành Dương, đi qua những tòa nhà ngói đen gạch xanh ở thành cổ Linh Lăng. Sau đó, ông lại ngao du về phía Đông đến Kim Lăng, du ngoạn sông Tần Hoài có cảm giác trong phồn hoa có dấu ấn của cuộc bể dâu, và chùa Kê Minh với tiếng chuông du dương. Cuối cùng, ông đến Dương Châu đầy chất họa và chất thơ.

Lòng mang đầy nhiệt tình và những bản thảo thơ được chuẩn bị kỹ lưỡng – những cuộn giấy chép thơ, Lý Bạch đã đến thăm các quan lại và những người danh tiếng địa phương ở khắp Dương Châu. Ông đặt tác phẩm tự hào nhất của mình là “Đại bằng phú” ở chỗ dễ nhìn thấy nhất, kỳ vọng nó sẽ động đến cái tâm của người ta. Thế nhưng, vận mệnh dường như không như con người mong đợi: Ông hết lần này đến lần khác gõ cửa bái kiến, đều bị tiếp đón lạnh nhạt, bởi vì mọi người đang chìm đắm trong sự bận rộn chuẩn bị hoặc chúc mừng đại lễ phong thiện Thái Sơn của Đại Đường.

Việc bị từ chối tiếp kiến này khiến người ta cảm thấy ngượng ngùng. Nhưng Lý Bạch không vì thế mà rơi vào thất vọng chán chường. Trái lại, ông đem nỗi ưu sầu nhè nhẹ này hòa vào vận vị thành Dương Châu, tản bộ trong những con ngõ với rặng liễu rủ bóng mát và những đường phố phồn hoa như gấm, trầm tư suy ngẫm bên dòng sông nước chảy lơ thơ bên cây cầu cổ. Ông chèo thuyền nhỏ ven Hồ Tây Gầy, khiến tâm hồn thơ đan xen với sắc núi mặt gương hồ. Ông leo lên lâu đài thủy tạ ca múa, trong tiếng ca điệu múa yến anh, tìm được cảm hứng sáng tác. Ông cũng đi vào thành Đông, cười đùa với các thiếu gia thế tục, tham gia giải trí chọi gà. Trên cánh đồng hoang dã rộng lớn ngoại ô phía Tây, ông cưỡi ngựa rong ruổi, thỏa thích thưởng thức thú đi săn. Thỉnh thoảng ông còn đến ‘cúc thành’ (nơi chơi bóng đá) nổi tiếng ở Dương Châu, cùng những người hâm mộ bóng đá địa phương say mê trong niềm vui và sức sống của bóng đá.

Tháng 3 mùa xuân, gió nhè nhẹ thổi, trong ‘cúc thành’ của Dương Châu, trên bãi cỏ xanh tươi, Lý Bạch nhảy vào cảnh vô cùng náo nhiệt đó. Lý Bạch vóc dáng oai hùng, tóc thanh tú, mặc áo dài tay hẹp cổ tròn, chân đi đôi giày vải mềm mại dễ chịu, đầu thắt khăn bức cân phất phơ nhè nhẹ bay trong gió, đai lụa trước ngực đặc biệt phiêu diêu. Lý Bạch lúc thì như mãnh hổ lao nhanh xuống núi, lúc thì như tiên hạc múa lượn trên làn sóng xanh. Đột nhiên ông tung một cú đá, trái bóng như ngôi sao băng vọt lên không trung. Khi mọi người còn đang vỗ tay rầm rầm thì ông lại ‘bùm’ một cái ngã lăn ra đất. Thì ra khi ông đá mạnh trái bóng, chân trái giẫm vào một chỗ lõm rất khó nhìn thấy trên bãi cỏ. Trong chớp mắt, thân thể ông mất thăng bằng, ngã lăn trước con mắt ngạc nhiên của mọi người. Lý Bạch vùng vẫy bò dậy, nhưng chỉ đứng được bằng chân phải, chân trái mềm nhũn vô lực cứ thõng xuống. Ông gắng sức đi mấy bước, rồi lại nặng nề ngã lăn ra đất. Mọi người kinh ngạc kêu lên và tới tấp chạy đến hỏi han. Chỉ thấy chân trái Lý Bạch sưng to như thân cây thông già, dường như căng lên rách cả ống quần. Lý Bạch tuy khí phách hào hùng, nhưng lúc này cũng chỉ có thể nhăn mặt chau mày, nén đau để mọi người khiêng ông từ ‘cúc thành’ về khách sạn nơi ông tá túc.

Lý Bạch nghĩ sau vài ngày là có thể trở lại cầu trường, nào ngờ dưới sự chăm sóc tận tâm của thư đồng Đan Sa và người anh em Mạnh Thiếu Phủ, Lý Bạch đã phải dưỡng thương trọn 3 tháng trời, cả mùa hè đã trôi qua, Lý Bạch đi vẫn còn xiêu xiêu vẹo vẹo, còn chậm hơn cả ông lão 80. Tục ngữ có nói rằng, chấn thương gân cốt 100 ngày. Trong tâm ông sốt ruột lắm, nhưng điều thực sự khiến ông lo lắng là những đồng tiền trong túi cứ ào ào bay đi, bay đi chỉ còn lại vài đồng. Ông chủ khách sạn dần dần mặt tối sầm lại như đáy nồi, xem ra phải tìm một nơi rẻ tiền chút để an thân.

2.

Trong đầu Đan Sa bỗng lóe lên tia sáng, nghĩa đến việc thiếu gia có mối giao hảo với đại hòa thượng Giám Chân của chùa Đại Minh, chưa biết chừng lão hòa thượng có cặp lông mày cong cong, cười híp mắt này có thể giúp thiếu gia được.

Sáng sớm hôm sau, Đan Sa chạy đến chùa Đại Minh của Dương Châu. Chỉ thấy tháp Tây Linh cao cao trước chùa sáng lên trong ánh nắng sớm mai, bên dưới tháp có một hòa thượng trẻ đang ném thức ăn cho mấy con ngỗng cổ dài mỏ nhọn. Hòa thượng trẻ này là tri khách tăng chuyên tiếp đón khách. Tri khách tăng hỏi lý do đến, rồi dẫn Đan Sa đến phía sau chùa. Tri khách tăng chỉ về phía một hòa thượng đang tưới nước xè xè trên thửa ruộng nhà chùa, sau đó quay người ra đi cho những chú ngỗng đang kêu quang quác ăn. Đại hòa thượng Giám Chân ba, bốn mươi tuổi, đang tưới nước cho rau và hoa trong vườn.

Đan Sa không nói năng gì, sách một thùng nước cùng đại hòa thượng tưới hoa tưới rau.

Đại hòa thượng Giám Chân nheo mắt nhận ra Đan Sa, hai người vừa tưới nước vừa trò chuyện.

“Thưa pháp sư, nhà chùa của ngài vàng xanh rực rỡ, tiền hương hỏa nhiều như ngọn núi nhỏ, tại sao ngài vẫn tự trồng rau trồng hoa?” – Đan Sa hỏi bộc trực.

Đại hòa thượng Giám Chân vén tay áo, cười và nói: “Mỗi một xu của hương khách đều là đồng tiền vất vả. Chúng tôi là những người xuất gia, cũng cần phải nghĩ cho thế nhân mới đúng chứ. Kiếm tiền khó như dùng kim đào đất, tiêu tiền dễ như dùng gáo hắt nước”.

Đan Sa vội vàng gật đầu và nói: “Đúng rồi, ví như thùng nước này trong tay con giá trị 300 quan tiền, xem ra cũng không ít, mua được 6 vạn đấu gạo mà vẫn còn dư. Nhưng nếu tùy tiện hắt nước đi, thì chỉ trong chớp mắt là hết rồi”.

Đan Sa múc đầy gáo nước, nhìn chằm chằm khóm lan hồ điệp, cứ như khóm lan hồ điệp này là người vậy, nói hăng hái rằng: “Ví như vị thiếu gia Dương Châu này gặp nạn, ở nhà nương tử sinh con, giơ tay xin sự trợ giúp của thiếu gia nhà con” – Đan Sa dốc gáo nước đầy đổ ào ào vào khóm lan hồ điệp – “thiếu gia liền bỏ ra 30 quan tiền, không hề tiếc nuối”.

Đan Sa lại múc một gáo nước, nhìn chằm chằm vào khóm hoa thu cúc, hậm hực nói: “Lại một vị thiếu gia Dương Châu, phụ thân gần trăm tuổi rồi, đi lại khó khăn, rất đáng thương, chìa tay xin sự trợ giúp của thiếu gia nhà con” – Đan Sa dốc gáo nước đầy đổ vào khóm thu cúc – “Thiếu gia nhà con lại bỏ ra 30 quan, rất hào phóng”.

Đan Sa lại dội ào ào 2 gáo nước vào khóm hoa quỳnh và hoa bỉ ngạn, hai mắt bốc lửa nhìn chằm chằm vào khóm hoa quỳnh và hoa bỉ ngạn đang rung rinh, than thở rằng: “Lại có vị thiếu gia Dương Châu bị bệnh, bệnh đến héo hon, nằm trên giường cứ kêu oai oái. Thiếu gia nhà con vung tay một cái, 30 quan tiền. Còn có vị thiếu gia Dương Châu, người thân ở nhà qua đời. Nhận được thư nhà, mới rơi hai hàng lệ. Thiếu gia nhà con mềm lòng, 50 quan”.

Đại hòa thượng Giám Chân cười hì hì và nói: “Lý Bạch quả là trượng nghĩa khinh tài”.

“Đúng là trượng nghĩa khinh tài! Con người sống trên đời, 7 tai 8 nạn, ai mà không bị? Có vị thiếu gia, quê nhà bị lũ lụt, có một vị thiếu gia ở Dương Châu cưỡi ngựa ngã gãy chân, có vị thiếu gia không biết xử lý công việc, bị mất chiếc mũ ô sa, có vị thiếu gia giết một tên ác bá ở Dương Châu, bị cáo kiện… Những thiếu gia này đều có bản sự sai người hỏi nơi ở của thiếu gia nhà con, khom lưng cúi người, bày ra bộ mặt khổ sở…” – Đan Sa dội liền 4 gáo vào những khóm rau cải, rau má, nấm, rau chân vịt – “khiến cho thiếu gia nhà con bận rộn lấy tiền ra cho họ”.

“Lý Bạch có cha là thương nhân, con của thương nhân, hiếm có người khảng khái như vậy!”.

“Quả đúng là khảng khái. Có một lần còn gây ra trò cười, đúng là tức cười quá, ha ha ha. Lần đó… lần đó, đột nhiên có một thiếu gia mà chúng con không quen biết, ở phòng bên lớn tiếng kêu khổ, thiếu gia nhà con nghe thấy, không nói năng gì, sai con đem 30 quan tiền tặng cho người phòng bên. Ngài đoán xem, vì sao thiếu gia đó kêu khổ?” – Đan Sa nghiêng người về phía trước, cười nhắm tít cả mắt lại: “Vì thiếu gia đó thắng được món tiền lớn trên sòng bạc, kết quả là bạn bè thân thích tìm đến vay tiền. Anh ta không biết làm thế nào, đành trốn ở khách sạn kêu khổ. Khi con đưa tiền cho anh ta, anh ta vội vàng đẩy con ra khỏi phòng, nói là không có tiền cũng khổ, có tiền càng khổ hơn”.

Đại hòa thượng Giám Chân nghe xong thì không nén nổi cười ha hả.

“Ta chỉ biết Lý Bạch viết thơ hay, không biết ông ấy lại có tâm Bồ Tát như thế này” – đại hòa thượng Giám Chân thu lại vẻ mặt cười, dùng tay vốc nước lên rửa mặt, sau đó nói: “Khi nào thiếu gia nhà cậu tưới 2 gáo nước lên đầu ta thì tốt rồi”.

Đan Sa nhấc thùng lên, hắt nốt chỗ nước ít ỏi dưới đáy thùng lên luống rau, sau đó giơ đáy thùng ra cho đại hòa thượng Giám Chân xem: “Nước có nhiều đến mấy thì cũng có lúc nhìn thấy đáy. Thiếu gia nhà con à, giờ đây không bị chủ khách sạn đuổi đi thì cũng tạ ơn trời đất rồi”.

Lúc này, mấy con ngỗng trắng quang quác đi tới, nhởn nhơ xông vào trong vườn rau, và bắt đầu mổ những con côn trùng trong đất.

Hai mắt Đan Sa sáng lên: “Thưa pháp sư, nhìn những con ngỗng trắng này, con nghĩ đến việc thú vị. Ngài xem nhiều hiểu rộng, có lẽ biết loài ngỗng nhà này rất đặc biệt. Trông chúng lông trắng chân đỏ, trông xinh xắn như những cô nương, nhưng khi chúng tức giận thì thôi rồi! Chớ nói là người bình thường, ngay cả hổ thì chúng cũng dám mổ một trận. Hổ là thứ gì chứ? Là vua của các loài thú! Khi gặp ngỗng nhà thì chỉ mở mắt nhìn thôi. Năm ngoái, thiếu gia nhà con an táng Ngô Chỉ Nam ở bên hồ Động Đình, thì một con hổ vằn lớn từ trong rừng lao ra. Khi đó con trông thấy, thì toát mồ hôi lạnh sợ thay cho thiếu gia nhà con. Kết quả thế nào? Hai con ngỗng trắng mà con nuôi đó, ‘vù’ một cái bay lên bờ! Chỉ thấy một con bên trái dùng mỏ mổ, một con bên phải dùng cánh đập, cứ bay vòng trên không, khiến hổ hoa mắt chóng mặt. Cuối cùng, con mãnh hổ đó lủi thủi chạy trốn vào trong rừng”.

“Lý Bạch an táng bạn thân Ngô Chỉ Nam, khóc đến mức mắt chảy máu, gặp mãnh hổ cũng không lùi bước, bần tăng đã nghe đến từ lâu rồi, thực sự là khâm phục” – Đại hòa thượng Giám Chân lần tràng hạt và nói.

“Thiếu gia nhà con thường nói: ‘Làm người mà không hiểu thơ ca, thì coi như là đã mất đi nửa sinh mạng rồi. Làm người mà không hiểu tình bằng hữu, thì coi như đã mất nửa sinh mạng’. Nhưng như con thấy: ‘Làm người mà không hiểu ngỗng nhà, thì có thể mất đi cả sinh mạng đó”.

“Ha ha ha, nói có lý. Đạo lý ngỗng nhà, thì thiếu gia nhà cậu có thể thực sự không hiểu, nhưng ta có câu nói này, cậu hãy ghi nhớ: Thà chính mà không đủ, còn hơn tà mà dư thừa. Được rồi, ý tứ của cậu ta đã rõ rồi, cũng không cần đánh đố nữa. Nếu thiếu gia nhà cậu không chê, thì ngày mai hãy dọn đến chùa Đại Minh đi”.

(Còn tiếp)

Bản quyền @2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/5/19/477603.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/7/12/218990.html

Đăng ngày 08-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Truyện thơ Lý Bạch: Thư đồng ngốc đến chùa than vãn, Lý Bạch bệnh Dương Châu nhớ cố hương (Phần 1) first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
[Văn hóa Thần truyền] Hậu quả của việc chấp chính bất nghĩahttps://vn.minghui.org/news/269244-van-hoa-than-truyen-hau-qua-cua-viec-chap-chinh-bat-nghia.htmlSat, 07 Sep 2024 12:51:39 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=269244[MINH HUỆ 06-03-2024] Sách “Lã Thị Xuân Thu” có ghi chép rằng, thời kỳ Chiến Quốc, quan Thái sử Đồ Thử của nước Tấn thấy nước Tấn hỗn loạn, thế là ông quy thuận nước Chu. Khi tiếp kiến Đồ Thử, Chu Uy Công hỏi: “Các nước chư hầu thì […]

The post [Văn hóa Thần truyền] Hậu quả của việc chấp chính bất nghĩa first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Nhiệm Minh

[MINH HUỆ 06-03-2024] Sách “Lã Thị Xuân Thu” có ghi chép rằng, thời kỳ Chiến Quốc, quan Thái sử Đồ Thử của nước Tấn thấy nước Tấn hỗn loạn, thế là ông quy thuận nước Chu.

Khi tiếp kiến Đồ Thử, Chu Uy Công hỏi: “Các nước chư hầu thì nước nào sẽ diệt vong trước?” Đồ Thử nói: “Nước Tấn”. Uy Công hỏi nguyên nhân, Đồ Thử trả lời rằng: “Khi ở nước Tấn, thần can gián vua Tấn rằng, rất nhiều việc xử lý về nhân sự của triều đình đều không hợp với đạo đức và công lý, do đó khiến cho người dân oán thán. Ông ấy lại nói với thần rằng: ‘Những sự tình này đâu có nguy hại gì!’. Thần lại nói với ông ấy rằng, hiện nay rất nhiều người hiền lương đều không được quốc gia trọng dụng. Ông ấy nói với thần rằng: ‘Điều này có tổn hại gì đâu!’. Từ đó có thể thấy, vua Tấn hoàn toàn không hiểu nguyên nhân có thể dẫn đến quốc gia diệt vong. Do đó, thần mới nói là nước Tấn sẽ bị diệt vong trước tiên.”

Ba năm sau, nước Tấn quả nhiên bị diệt vong.

Lại một lần khác, Uy Công hỏi Đồ Thử rằng: “Tiếp theo sẽ là nước nào diệt vong?” Đồ Thử trả lời rằng: “Nước Trung Sơn”. Uy Công hỏi nguyên nhân, Đồ Thử nói: “Trời sinh ra con người, có nam nữ khác biệt, nam nữ khác biệt là đại nghĩa nhân luân, mà đại nghĩa nhân luân là nền tảng xác lập mối quan hệ vua tôi trên dưới. Giữa nam nữ mà gần gũi đụng chạm, phóng túng hưởng lạc, còn thích hát những bài ca bi thương, mà vua nước Trung Sơn lại không coi loại phong khí này là xấu. Đây là phong tục vong quốc đó, thế nên thần nói tiếp theo nước Trung Sơn sẽ diệt vong.”

Hai năm sau, nước Trung Sơn quả nhiên diệt vong.

Từ lịch sử nhìn ngày nay, các quan chức Trung Quốc làm việc, trên dưới đều không để ý đến đạo đức và công lý, tự cho rằng quyền lực và mệnh lệnh của cấp trên trong tay, nên mặc sức lừa dối bách tính, coi mạng người như cỏ rác. Quan chức Trung Quốc không coi trọng đại nghĩa nhân luân, lầm cho rằng cuộc đời cần kịp thời hưởng lạc, chết giống như đèn tắt. Tục ngữ nói rằng, người tự hành ác thì không thể sống được. Trung Quốc của Trung Quốc diệt vong là hành ác cực độ là tự mình gây ra, còn cần người khác lật đổ không? Người Trung Quốc chỉ cần nhìn rõ bản chất của Trung Cộng, thoái Đảng tự bảo đảm sự bình an của mình là xong rồi.

Quý độc giả thân mến, nếu bạn dùng một, hai câu của riêng bạn để chỉ ra nguyên nhân vong quốc của nước Tấn và nước Trung Sơn, thì bạn sẽ nói như thế nào?

Bản quyền@2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/3/6/473932.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/6/21/218711.html

Đăng ngày 07-09-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post [Văn hóa Thần truyền] Hậu quả của việc chấp chính bất nghĩa first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Buông bỏ nhân tâm, trở về truyền thống, trân quý Đại Pháphttps://vn.minghui.org/news/268220-buong-bo-nhan-tam-tro-ve-truyen-thong-tran-quy-dai-phap.htmlWed, 31 Jul 2024 12:00:06 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=268220[MINH HUỆ 02-06-2024] Hiện nay trong xã hội, do nguyên nhân đủ các loại dẫn đến nhóm người đơn thân rất nhiều. Những người trung lão niên có vợ hoặc chồng đã chết ở làng tôi, chỉ riêng nữ đã có năm, sáu […]

The post Buông bỏ nhân tâm, trở về truyền thống, trân quý Đại Pháp first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Thánh Quả – đệ tử Đại Pháp Sơn Đông

[MINH HUỆ 02-06-2024] Hiện nay trong xã hội, do nguyên nhân đủ các loại dẫn đến nhóm người đơn thân rất nhiều. Những người trung lão niên có vợ hoặc chồng đã chết ở làng tôi, chỉ riêng nữ đã có năm, sáu mươi người, rất nhiều người trong số họ lựa chọn tìm một bạn già chung sống, không đăng ký kết hôn. Mọi người và gia đình đại đa số đều mặc nhiên thừa nhận trạng thái sinh hoạt không đúng đắn này.

Xã hội hiện nay đã là trạng thái mà đạo đức tụt dốc nghiêm trọng rồi, rất nhiều phương diện đã không phù hợp với tiêu chuẩn làm người một cách nghiêm trọng rồi. Chúng ta vì tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, hồi thăng trong Pháp, mới thấy được nhân loại đã đối diện với hoàn cảnh nguy hiểm, rất nhiều hành vi đều là làm bại hoại đạo đức của con người. Nhưng tôi thấy các đồng tu xung quanh, nhất là những đồng tu có tuổi, không có nhận thức thanh tỉnh về hiện tượng này, không chú ý đến vấn đề là những hành vi bại hoại này là không phù hợp với Pháp, còn té nước theo mưa. Cá nhân tôi cho rằng, đó là không đúng, nên viết ra để cảnh tỉnh, có chỗ nào không đúng xin các đồng tu chỉ giúp.

Xã hội hiện nay, bất kể là nông thôn hay thành thị, việc chung sống trái pháp luật đã trở thành trạng thái bình thường, rất nhiều người già mất bạn đời, thậm chí cả trung niên, sau khi bạn đời qua đời, đều lựa chọn một bạn chung sống nhưng lại không kết hôn, chung sống trái pháp luật. Do không có đăng ký kết hôn, nên có người thường xuyên thay đổi bạn. Càng nghiêm trọng là, có người coi đây là con đường lừa tiền. Con người chọn phương thức sống như thế nào, thì ở đây tôi không muốn nói nhiều. Nhưng có những đồng tu lại rất hăng hái tham gia vào việc này, cũng giúp đỡ làm mối giới thiệu, thậm chí còn cổ động người ta đến với nhau. Điều này phù hợp không? Trong đó bao gồm những cái tâm, suy nghĩ và cái tình của con người như thế nào?

Kỳ thực, những người ngoài 90 hiện nay, thì khi còn trẻ có quan niệm hôn nhân rất truyền thống. Theo tôi được biết, bà nội bà ngoại tôi, và bà nội của chồng tôi đều là quả phụ khi còn trẻ và ở vậy cả đời, nuôi nấng một đống con trưởng thành, đều không nghĩ đến việc tái giá. Quan niệm trung trinh thanh khiết thời đó rất phổ biến, coi trọng chỉ theo 1 người đến hết đời, một nữ không thờ 2 chồng. Sau này tà đảng cộng sản đến, đã làm loạn tất cả, coi việc này là tư tưởng phong kiến, cổ động mọi người truy cầu tự do giải phóng, kết quả đã tạo thành các loạn tượng ngày nay, tỷ lệ ly hôn càng ngày càng cao, sống chung trái pháp luật đã thành trạng thái bình thường của xã hội.

Trong văn hóa truyền thống lưu truyền câu chuyện thế này, một phụ nữ nào đó thủ tiết, sau khi chết được thăng lên Trời. Còn có câu chuyện cổ đại vẫn còn lưu truyền đến ngày nay, rằng người khuyên người ta tái giá, hoặc mai mối chắp nối cho người ta, thì sau khi chết bị giáng xuống địa ngục tầng thứ 2, địa ngục dao kéo, bị tiểu quỷ cắt đứt 10 ngón tay, chịu đủ mọi đau khổ hành hạ. Những câu chuyện này lên mạng tra là có thể tra được ngay. 18 tầng địa ngục, mỗi tầng phạm tội gì, chịu hình phạt gì, rất nhiều tư liệu văn bản và hình ảnh đã miêu tả rất chi tiết. Đạo đức xã hội ngày nay đã bại hoại rồi. Con người đều không dễ tin nữa rồi. Nhưng chúng ta là đệ tử Đại Pháp, cần phải cẩn thận trong nói năng và hành vi, việc hiếu hỉ cưới hỏi của người thường, không cần hữu ý tham dự và can thiệp vào.

Sư phụ giảng:

“Người tu luyện không quản việc của nhân gian.” (Tu luyện không phải là chính trị, Tinh tấn yếu chỉ)

Chúng ta thực sự phải ghi nhớ lâu dài. Người tu luyện làm việc không nên làm sẽ tạo nghiệp. Nếu những phương diện này vẫn còn bảo lưu, duy hộ quan niệm biến dị bại hoại, ủng hộ hành vi sống chung mà ngay cả pháp luật nhân gian cũng là không phù hợp, thì rất nguy hiểm, Đừng quên rằng người tu luyện chúng ta cần phải tu được đủ lời nói và hành vi thuần chính thì mới có thể lưu lại làm tham chiếu cho nhân loại tương lai.

Những bài viết về việc giữa nam nữ giữ mình trong sạch, giao tiếp có tiết hạnh, thủ lễ, thì trên mạng Minh Huệ có rất nhiều, ví như bài viết giao lưu ngày 5/11/2021 “Lễ tiết lớn – nam nữ khác biệt: Quan Công cầm đuốc đọc sách”, đã nói đến rất nhiều trường hợp.

Còn có đồng tu chấp trước vào hôn nhân của con cái, không buông được cái tình đối với con cháu, nói ra những lời như: “Con trai nếu không kết hôn, tôi chết cũng không nhắm được mắt”… Người hăng say mối mai chắp nối cho đồng tu, bản thân cô ấy còn lấy cớ rằng mình giúp đồng tu giải quyết vấn đề khó khăn trong cuộc sống, còn cho là đang làm việc tốt. Bị nhân tâm dẫn động dính dáng vào trong đó, đa phần là các đồng tu có tuổi.

Tôi viết ra để giao lưu với các đồng tu. Có chỗ nào chưa xác đáng, xin các đồng tu chỉ giúp. Xin cảm ơn!

(Biên tập: Văn Khiêm)

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/6/2/477332.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/7/16/219050.html

Đăng ngày 31-07-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Buông bỏ nhân tâm, trở về truyền thống, trân quý Đại Pháp first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Đời người lập thân bắt đầu từ giáo dụchttps://vn.minghui.org/news/268186-doi-nguoi-lap-than-bat-dau-tu-giao-duc.htmlTue, 30 Jul 2024 15:27:19 +0000https://vn.minghui.org/news/?p=268186[MINH HUỆ 31-03-2024] “Tiểu học thi” – Tác phẩm tốt của giáo dục vỡ lòng Triều Thanh có một tài liệu giáo dục là “Tiểu học thi”, là tác phẩm tốt của giáo dục vỡ lòng. Tác phẩm do Tạ Thái Giai (người Mộng Tân, Hà Nam đời Thanh), cải […]

The post Đời người lập thân bắt đầu từ giáo dục first appeared on Minh Huệ Net.

]]>
Bài viết của Trúc Vận

[MINH HUỆ 31-03-2024]

2024-3-30-life-edu-01.jpg

“Tiểu học thi” – Tác phẩm tốt của giáo dục vỡ lòng

Triều Thanh có một tài liệu giáo dục là “Tiểu học thi”, là tác phẩm tốt của giáo dục vỡ lòng. Tác phẩm do Tạ Thái Giai (người Mộng Tân, Hà Nam đời Thanh), cải biên từ trước tác “Tiểu học” của đại học giả Chu Hi đời Tống. Tác phẩm chia làm 3 phần: Lập giáo (Xác lập việc giáo dục), Minh luân (Làm sáng tỏ luân thường đạo lý), Kính thân (Kính trọng bản thân). Toàn bộ tác phẩm là dùng thể thơ Ngũ ngôn, 5 chữ 1 câu, 4 câu là 1 đoạn, ngôn ngữ cố gắng dùng từ thông dụng, dể hiểu. Trong tài liệu dạy học này có rất nhiều nội dung liên quan đến những việc như tiến lui, quét dọn, xử thế, lập thân, đều là dùng 1, 2 bài thơ là đã giảng rõ ra rồi. Xin trích vài bài thơ chia sẻ cùng mọi người.

(1)

Trang kính thời thời cường, tứ an nhật nhật thâu.
Tiểu nhân quân tử lộ, tòng thử phán thiên thu.

Dịch nghĩa: Làm người trang trọng, tự tôn tự trọng, thì mọi lúc đều tiến bộ. Luôn thích an dật, thì ngày càng lười nhác. Quân tử hay tiểu nhân, từ điểm này là có thể phân biệt được.

(2)

Ám địa hốt khuy tâm, tu phòng giám sát Thần.
Niệm đầu phương động xứ, Thiên giới dĩ tri văn.

Dịch nghĩa: Trong tình huống mà không người hay biết, cũng không được làm việc trái lương tâm, cần phải nghĩ rằng, Thượng Thiên có Thần linh giám sát thị phi thiện ác của nhân gian. Con người vừa động một niệm đầu, thì Thiên giới đã biết rõ ràng rồi. Đây là tri thức thông thường về đạo đức cơ bản tu tâm dưỡng tính, đối nhân xử thế.

(3)

Quân tử tổng hư tâm, kiêu căng thị tiểu nhân.
Hồi đầu bất nhận thác, di ngộ đáo chung thân.

Dịch nghĩa: Quân tử luôn khiêm tốn, phát hiện thấy mình có lỗi thì lập tức sửa chữa. Kiêu ngạo tự đại, ra vẻ ta đây, đó là thái độ của tiểu nhân. Làm việc sai rồi lại không muốn thừa nhận, cũng không sửa chữa, thì sẽ lầm lỡ cả cuộc đời.

(4)

Dâm loạn gian tà sự, nguyên phi nhân sở vi.
Thủ thân bạch như ngọc, nhất điểm vật khinh khuy.

Dịch nghĩa: Bất kể là nam hay nữ, phẩm đức trung trinh tiết tháo là quan trọng nhất, việc xấu như dâm loạn là điều mà con người thực sự không nên làm. Cần giữ gìn tấm thân trong sạch của mình, giống như ngọc trắng không tì vết, đạo đức, trung trinh, tiết tháo nhất định không được coi nhẹ.

Tài liệu dạy học như thế này, thì đồng thời với việc nhận biết chữ, học sinh cũng sẽ học được làm người như thế nào. Tuổi nhỏ mà có thể phân biệt được thiện – ác, biết được việc gì nên làm, việc gì không nên làm. Điều này giúp ích rất lớn đối với sự trưởng thành của mỗi người.

Sức sống của giáo trình học tập của học sinh tiểu học thời Dân Quốc

Có bình luận rằng, giáo trình học tập tiểu học thời Dân Quốc là một tấm gương chiếu yêu vĩnh viễn không lỗi thời: Nó nhân văn, tự do, sâu sắc, trang nhã, tất cả đều soi rõ những công danh, giam cầm, xấu xa, thô tục của ‘giáo trình học tập độc hại’ ngày nay.

Giáo trình học tập tiểu học thời Dân Quốc là bồi dưỡng công dân từ nhỏ về ý thức hiện đại, tiết tháo, có thành tựu, có phẩm chất. Đây là nền tảng để quốc gia giàu mạnh, dân tộc phục hưng. Dùng lời thời đó nói, đây là “đặt nền tảng thường thức, đặt nền tảng thẩm mỹ, đặt nền tảng luân lý, đặt nền tảng nhân cách, đặt nền tảng giáo dưỡng, đặt nền tảng truyền thống, và cuối cùng là đặt nền tảng tinh thần dân tộc”.

2024-3-30-life-edu-02.jpg
Ảnh: “Giáo trình Quốc ngữ Khai minh”.

Để hoàn thành sự nghiệp này, rất nhiều đại sư như Thái Nguyên Bồi, Diệp Thánh Đào, Phong Tử Khải, Chu Tự Thanh, Hạ Cái Tôn, Trương Nguyên Tế, Vương Vân Ngũ, Cố Hiệt Cang, Trần Hạc Cầm… đều cam tâm tình nguyện không quản gian khổ biên soạn, hiệu đính sách giáo khoa quốc ngữ cho trẻ em.

Giáo trình học tập tiểu học thời Dân Quốc không phải là toàn quốc thống nhất biên soạn xuất bản, không có sự lũng đoạn. Có học giả thống kê, từ năm 1912 đến 1949, toàn quốc tổng cộng đã biên soạn xuất bản hơn 100 bộ sách quốc văn tiểu học, sách giáo khoa quốc ngữ. Từ đó hình thành “cục diện trăm hoa đua nở, trăm thuyền đua nhau, trở thành thời đại hoàng kim biên soạn sách giáo khoa trong lịch sử giáo dục hiện đại của Trung Quốc”.

Lấy 2 ví dụ “Bài đầu tiên của giáo trình ngữ văn Dân Quốc”:

Năm 1912, chính phủ lâm thời thành lập bộ giáo dục, công bố phương châm giáo dục “chú trọng giáo dục đạo đức… dùng giáo dục thẩm mỹ để hoàn thành đạo đức”.

“Chào thầy”, “Chào các bạn nhỏ”.

Một hai câu, vài chữ, là toàn bộ nội dung bài học đầu tiên sách “Giáo trình quốc ngữ khai minh”.

Cha của Vĩnh Nhi nói với Vĩnh Nhi rằng: “Nếu có khách đến, đầu tiên phải hỏi quý danh của khách”. Ngày hôm sau, ông Từ nhà đối diện đến gặp cha của Vĩnh Nhi, Vĩnh Nhi nói: “Thưa ông Từ, xin hỏi quý danh?”

Đây là toàn văn nội dung bài “Xin hỏi quý danh” trong “Sách giáo khoa quốc ngữ Thương vụ” xuất bản năm 1917. Bên dưới bài là hình vẽ Vĩnh Nhi vẻ mặt ngây ngô, gửi giáo dục vào trong vui cười, khiến người ta không nhịn được cười.

Rất nhiều chuyên gia và truyền thông bình luận rằng, bài học đầu tiên của giáo trình học tập thời Dân Quốc đã dạy học sinh học làm người. Sách giáo khoa ngày nay đầy vẻ nhân tạo, học sinh đã bị tẩy não.

Gần đây, các bậc phụ huynh ở Trung Quốc Đại lục dấy lên trào lưu theo đuổi sách giáo khoa thời kỳ Dân Quốc, giới xuất bản Thượng Hải đã in lại các sách giáo khoa thời Dân Quốc như “Sách giáo khoa ngữ văn khai minh”, một thời gian đã bán rất chạy, trên mạng đánh giá cao nhiều như thủy triều. Có thể thấy, tài liệu sách giáo khoa xưa, đã qua gần trăm năm nhưng vẫn còn sức sống.

Sách giáo khoa độc hại của Trung Cộng đã hủy hoại hết thế hệ này đến thế hệ khác người Trung Quốc

Trong thể chế giáo dục, Trung Cộng lợi dụng sách giáo khoa để tẩy não, đầu độc thanh thiếu niên, việc này đã kéo dài rất lâu rồi.

Mấy chục năm nay, trong sách giáo khoa ngữ văn, lịch sử và chính trị tiểu học, trung học, đầy rẫy những câu chuyện tẩy não đỏ tuyên dương “giả ác đấu”, lịch sử giả tạo, nhân vật anh hùng giả tạo. Ví như việc Hồng quân chạy trốn được tuyên truyền là lên miền bắc kháng chiến chống Nhật; việc Nam Nê Loan trồng thuốc phiện thì được tô vẽ thành sản xuất lớn; việc Tân Tứ quân, Bát Lộ quân chỉ biết đào địa đạo, đánh du kích thì được miêu tả thành cột trụ trong cuộc chiến chống Nhật.

Ví dụ nữa, năm 2010, sách “Phẩm đức và xã hội” lớp 5 quyển 1 của nhà xuất bản giáo dục Sơn Đông, lợi dụng trò bịp “Tự thiêu Thiên An Môn” – vụ lừa bịp thế kỷ do Trung Cộng tự biên tự diễn, để lừa dối học sinh tiểu học, từ nhỏ đã kích động trẻ em thù hận đối với quần thể tín ngưỡng Pháp Luân Công.

2024-3-30-life-edu-03.jpg

Tiếp theo, những năm gần đây, Trung Cộng sử dụng mọi thủ đoạn tăng cường tẩy não trẻ em. Thời gian dịch bệnh năm 2020, mạng dịch vụ thanh thiếu niên Thiểm Tây đưa tin, ở nhà kỷ niệm căn cứ cách mạng khu Thiểm – Cam – Ninh, các học sinh mặc quân phục hồng quân, đội mũ bát giác quân đội, tái hiện cảnh chiến đấu ném lựu đạn, tiến hành diễn luyện “truyền thừa gene đỏ”. Năm 2021, mục tiêu trăm năm xây dựng đảng của Trung Cộng là, yêu cầu các trường mẫu giáo, tiểu học, trung học các địa phương triển khai các hoạt động “học về đảng”, “học lịch sử đảng”, yêu cầu thiếu niên nhi đồng nghe lời đảng, đi theo đảng, đảm bảo “giang sơn đỏ vĩnh viễn không đổi màu”.

Sự tẩy não của Trung Cộng đối với trẻ em, đã công khai đi ngược với luân lý, phản nhân loại. Năm 2023, Trung Cộng ban bố “Luật chống gián điệp”, dấy lên phong trào toàn dân chống gián điệp. Trong phim hoạt hình chuyên đề giáo dục an ninh quốc gia ở tiểu học, Trung Cộng công khai cổ vũ thiếu niên nhi đồng quan sát các hoạt động của người nhà xem có tình hình khả nghi không, nếu có, kịp thời báo cáo với cơ quan an ninh quốc gia, để người nhà chủ động khai báo, được khoan hồng. Trung Cộng mưu đồ bệnh hoạn, muốn bi kịch Cách mạng Văn hóa Trương Hồng Binh tố cáo mẹ tái diễn thời hiện đại.

2024-3-30-life-edu-04.jpg

Ngày nay, trong trường học ở Trung Quốc Đại lục, đầy sát khí, các vụ việc bị giết, tự sát, mất tích, bị ức hiếp… không ngừng xảy ra khắp nơi, nguyên nhân gốc rễ của nó là kết quả của việc tà đảng Trung Cộng vứt bỏ văn hóa truyền thống, tuyên truyền giáo dục đấu tranh thù hận. Sách giáo khoa độc hại của Trung Cộng đã hủy hết thế hệ này đến thế hệ khác người Trung Quốc.

Lối thoát ở đâu? Khôi phục giáo dục văn hóa truyền thống Trung Quốc, lấy lại tín ngưỡng đối với Phật, Đạo, Thần, tuân theo chuẩn tắc làm người “Chân Thiện Nhẫn”, và giá trị quan “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín”, đó mới là lối thoát duy nhất bồi dưỡng trẻ có lương tri, kính Trời biết mệnh, nâng cao đạo đức, từ đó trưởng thành lành mạnh.

Bản quyền © 2024 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2024/3/31/474753.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2024/6/24/218747.html

Đăng ngày 30-07-2024; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản.

Share

The post Đời người lập thân bắt đầu từ giáo dục first appeared on Minh Huệ Net.

]]>