Bài viết của một đệ tử Đại Pháp tại Trung Quốc Đại lục

[MINH HUỆ 14-5-2017] Nhân dịp Ngày Pháp Luân Đại Pháp Thế giới 13 tháng 5, tôi muốn thông qua bài viết gửi Minh Huệ để cảm tạ sự cứu độ từ bi của Sư tôn, đồng thời cũng muốn chia sẻ với thế nhân về những thể ngộ tốt đẹp của mình sau khi đắc Pháp trên mạng và bước vào tu luyện. Lần đầu tiên viết bài không tránh khỏi thiếu sót, mong các đồng tu chỉ rõ.

Tôi đắc Pháp năm 2012, khi đắc Pháp tôi 24 tuổi. Bố mẹ ly dị khi tôi còn nhỏ, tôi lớn lên bên ông bà nội. Không giống như phần lớn những đứa trẻ ra đời sau năm 1980, nhờ ảnh hưởng của thế hệ trước nên cách đối nhân xử thế của tôi vẫn giữ được rất nhiều yếu tố truyền thống. Khi bắt đầu nhớ được, mỗi khi nghe theo lời chỉ dạy của ông bà để đối mặt với khó khăn, tôi phát hiện ra lúc đó trên bề mặt dường như mình chịu mất mát, nhưng sau này nhìn từ phương diện khác thì tôi lại đạt được những thứ mình không ngờ tới. Điều này khiến tôi tin rằng nhất định có tồn tại pháp cao hơn con người, pháp ấy trong vô hình mà ước chế hết thảy mọi thứ. Mặc dù không biết pháp này rốt cuộc là gì, nhưng trong tâm tôi đã gieo một hạt giống: nhất định phải bảo trì sự thiện lương.

Lên đại học, tôi chọn chuyên ngành du lịch tiếng Pháp, làm hướng dẫn viên tiếng Pháp cho khách du lịch nước ngoài. Do vậy, khi ở trường tôi đã tiếp xúc với rất nhiều điều của văn hóa phương Tây. Tôi đã đọc rất nhiều sách như Thánh kinh, Chu dịch, kinh sách Phật giáo, v.v., nhưng tôi không biết tại sao càng hiểu biết thêm nhiều kiến thức, tôi lại càng nảy sinh thêm nhiều nghi hoặc, khó hiểu về cái thế giới được gọi là hiện thực này.

Tôi còn nhớ một hôm cô giáo dạy kiến thức Phật giáo lên lớp giảng bài. Cô giáo đang giảng thì cất lên tiếng cười khe khẽ (dường như bản thân cô cũng không tin vậy): “Tôi kể cho các em nghe một câu chuyện thế này, đây là lời của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài nói rằng sau năm tỷ sáu trăm bảy mươi triệu năm sẽ có một vị Phật tương lai là Phật Di Lặc đến độ nhân, nếu các em có thể sống được đến lúc đó thì hãy theo Phật Di Lặc nhé.” Nói xong cô giáo cười ha hả, rất nhiều bạn học của tôi bên dưới cũng cười theo. Nhưng câu nói của cô giáo lại giống như một luồng điện chạy xuyên qua não tôi, đến nơi sâu thẳm nhất trong tư tưởng của tôi. Tôi liền nghĩ: Thật là tốt quá, trong tương lai nếu mình gặp được Phật Di Lặc, nhất định mình sẽ theo Ngài chăm chỉ tu học.

Thấm thoắt đã sắp tốt nghiệp đại học. Sau ba năm miệt mài học tập, tôi đã vượt qua kỳ thi tốt nghiệp một cách suôn sẻ, nhận được tấm bằng du lịch tiếng Pháp. Khi còn ở trường tôi vẫn luôn muốn tìm hiểu xem “Phật Pháp” là gì, cho nên trong thời gian thực tập tôi không dẫn khách đi du lịch mà lại lựa chọn đến làm hướng dẫn viên ở một trong tứ đại Phật giáo danh sơn – núi Ngũ Đài Sơn.

Tuy nhiên sau khi đến đó, tôi mới phát hiện ra nơi đó ngoài một vài ngôi chùa cổ còn sót lại thì không còn tìm thấy những điều chân chính ở đó nữa. Ở đó, các “tiền bối” trong giới du lịch cả ngày chỉ rót vào đầu chúng tôi những cách thức làm thế nào để du khách bỏ tiền khấn vái, mời Phật về nhà; phần lớn hòa thượng trong chùa đều từ phía Nam đến, đầu tóc cạo sạch, ban ngày khoác áo tăng nhân, dùng điện thoại di động liên lạc với hướng dẫn viên, ở trong chùa tiếp hết khách này đến khách khác, buổi tối lại chuyển sang mặc thường phục đi chợ đêm chơi.

Sau khi nhận rõ bộ mặt của những hướng dẫn viên du lịch giả, cầm cờ hiệu Phật giáo để lừa tiền, tôi quyết định ngồi cả ngày ở công ty du lịch, đến khi hoàng hôn thanh tịnh mới ra ngoài. Nhớ khi màn đêm buông xuống, tôi ngồi một mình tại sân chùa Văn Thù, nghe tiếng gió thổi làm lay động chiếc chuông dưới mái hiên, trong lòng dấy lên nỗi buồn và thất vọng. Thánh địa của Phật giáo tại sao lại biến thành như vậy? Thế giới Phật quốc thanh tịnh mà tôi tìm kiếm rốt cuộc ở đâu?

Một buổi sáng, không biết từ đâu trong đầu tôi xuất hiện một ý nghĩ rằng bên ngoài có gì đó đang đợi tôi, tôi vội vàng bước ra ngoài. Bước đến chân núi thì gặp một bạn học đại học, chúng tôi đứng ở đó nói chuyện. Một lát sau có ba người từ xa đi đến gồm hai cô và một chị. Một cô đeo kính hỏi đường chúng tôi đến chùa. Tôi nghe giọng nhận ra giọng vùng Đông Bắc, từ nhỏ tôi rất muốn nghe người vùng Đông Bắc nói chuyện, liền vui vẻ chỉ đường cho cô ấy: “Cô ơi, đi hướng này là đến, cháu cũng đang không có việc gì, hay là để cháu dẫn các cô đi.”

Vậy là bốn người chúng tôi cùng nhau lên núi, tôi và người phụ nữ hỏi đường đi phía trước, hai người còn lại đi phía sau. Đi được 50 mét, cô ấy đột nhiên nói với tôi: “Tháng 2 năm nay cháu đã mất một thứ, thứ này rất quan trọng đối với cháu, nhưng sau đó cháu đã tìm thấy rồi, chính là Thần Phật đã giúp cháu tìm lại.” Nghe cô ấy nói, tôi chợt giật mình. Cô ấy lại hỏi có phải tôi đã làm mất thứ gì không? Tôi nghĩ lại quả thực có việc như vậy, liền kể cho cô ấy nghe sự việc.

Một ngày sau khi quay lại trường sau kỳ nghỉ Đông, hôm đó thời tiết rất lạnh, giường của tôi lại đối diện với cửa, lúc 7 giờ sáng tôi bị một luồng gió lùa vào làm cho tỉnh giấc, thấy cửa không hiểu sao lại mở, liền chạy ra đóng cửa, quay lại chui vào chăn định ngủ thêm một giấc nữa. Nhưng tiện tay sờ vào ví tiền bên cạnh lại không thấy đâu, tôi hoảng hồn. Trong ví tiền có chứng minh thư của tôi, còn có giấy dự thi, hai thứ này hai hôm tới tôi phải dùng đến để làm thẻ hướng dẫn viên du lịch, lại sắp phải tìm nơi thực tập nữa, nếu mất mà đợi đến khi làm lại được thì lúc đó đã quá muộn rồi. Làm thế nào bây giờ?

Tôi tìm kiếm khắp mọi ngóc ngách trong trường, thậm chí lục tung cả thùng rác nhưng cũng không tìm thấy, bèn quay về ký túc xá chuẩn bị nhờ bạn cùng phòng viết thông báo tìm đồ thất lạc. Tôi ngồi trên giường mặt mũi thất thần, nhìn bạn cùng phòng viết từng tờ thông báo một, trong mơ màng tôi nghĩ liệu có thể cầu Thần Phật giúp đỡ không nhỉ? Vậy là tôi thầm nghĩ trong tâm: Con chưa bao giờ cầu xin Ngài, con biết là không nên vì chút việc nhỏ này mà làm phiền Ngài, nhưng chiếc thẻ hướng dẫn viên này thực sự rất quan trọng đối với con, nếu con có thể tìm thấy chiếc ví, con nhất định sẽ cảm ơn Ngài, con sẽ làm nhiều việc thiện hơn.

Sau khi nghĩ vậy, dường như tôi đã buông bỏ những suy nghĩ tiêu cực mà thảnh thơi đi ra ngoài. Tôi bước vào ký túc xá, nhìn thấy một bạn học đang ngồi đợi trên giường, liền hỏi cậu ấy có chuyện gì vậy, cậu ấy nhìn tôi tức giận nói: “Không biết ai đã lấy trộm mất chiếc điện thoại của mình, lại còn ném vào giường của mình một cái ví tiền cũ nát nữa chứ.” Tôi nhìn lại thì hóa ra là ví tiền của tôi.

Cô ấy nói sở dĩ tôi có thể tìm thấy ví tiền là vì Thần Phật đã thấy thiện niệm của tôi nên đã giúp tôi. Nhưng tôi rất ngạc nhiên tại sao cô ấy có thể biết được việc này, tôi còn chưa bao giờ kể với ai chuyện này (Sau này tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, tôi mới biết cô ấy có công năng túc mệnh thông, có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai). Cô ấy nói chuyện với tôi rất nhiều, kể rằng cô ấy là người tu đạo, sư phụ của cô ấy là một con rồng trắng, còn nói rằng trước đây chúng tôi có duyên với nhau v.v..

Lúc đầu tôi rất muốn nghe, nhưng nghe tiếp thì cảm thấy có chút huyền hoặc không thể tiếp thu nổi. Mặc dù từ nhỏ lớn lên bên cạnh ông bà, tôi đã có nền tảng tư tưởng tin vào Thần Phật, nhưng hơn 10 năm đi học tôi đã chịu ảnh hướng của nền giáo dục vô thần. Khi nghe cô ấy nói, tôi liền cảm thấy tư tưởng của mình lúc thế này, lúc thế kia, lúc thì đồng tình, lúc lại nghi hoặc. Sau đó tôi nghĩ mình không quan tâm những chuyện này nữa, cô ấy đã có thể biết được sự việc tương lai, vậy tôi sẽ hỏi cô ấy về tương lai của mình.

Tôi kể với cô ấy từ đầu đến cuối việc mình đến Ngũ Đài Sơn, sau khi trải qua những chuyện này, tôi quyết định tốt nghiệp xong sẽ không làm hướng dẫn viên nữa, thực sự là tôi không thể nào trái với lương tâm mà lừa tiền của du khách. Tôi nghĩ lại lúc học đại học, thầy giáo nói rằng học xong chuyên ngành tiếng Pháp có thể đến châu Phi làm việc, vì ở đó rất nhiều quốc gia nói tiếng Pháp. Tôi bèn hỏi cô ấy xem liệu mình có thể xuất ngoại không. Cô ấy ngừng một chút, nói có thể, nửa năm sau tôi có thể đi.

Quả đúng như vậy, sau khi tốt nghiệp đại học, vào tháng 9 năm 2009, tôi nộp đơn xin việc qua mạng và nhận được thông báo tuyển dụng của một tập đoàn ngoại thương, tổng giám đốc còn đích thân gọi điện thoại cho tôi nói rằng không cần phỏng vấn trực tiếp mà ngay lập tức nhận công việc quản lý tài chính và bán hàng cho công ty ở một nước châu Phi, mỗi năm còn được thưởng thêm 80.000 tệ. Lúc đó tôi mới 21 tuổi, vừa nhận được cuộc điện thoại như vậy, tôi có chút băn khoăn. Do vậy tôi đã đi tàu hơn 30 tiếng đến công ty để xác nhận xem chuyện này có đúng không, rồi mới về nhà chuẩn bị đồ đi nước ngoài.

Trước khi xuất ngoại, tôi nghĩ dù thế nào có lẽ cũng chỉ ở nước ngoài lâu nhất là hai năm, trước năm 2012 tôi phải về nhà. Vì có hai nguyên nhân, một là ông bà nuôi tôi từ nhỏ đến lớn, giờ tuổi đã cao, tôi phải về nhà làm tròn chữ hiếu, ở bên cạnh chăm sóc ông bà đến già; mặt khác là tôi đặc biệt tin vào lời dự ngôn rằng năm 2012 nhân loại đối mặt với kiếp nạn. Mặc dù không dám nghĩ sẽ có kiếp nạn gì, tôi vẫn cảm thấy nhân loại thực sự đang gặp nguy hiểm, dù không có kiếp nạn thì do đạo đức suy thoái, con người cuối cùng sẽ tàn sát lẫn nhau để giành giật tài nguyên đang cạn kiệt. Vào thời điểm đó tôi nhất định phải ở bên người thân của mình.

Thấm thoắt thời gian hai năm sắp hết. Tổng giám đốc công ty là bạn học của chủ tịch công ty, anh ấy thấy tôi làm việc rất hiệu quả, lại trẻ tuổi, được đào tạo ngoại ngữ bài bản, liền có ý định giữ tôi lại. Từ năm thứ hai anh ấy đã nhiều lần nói với tôi rằng muốn tôi ở lại thêm vài năm nữa, cam kết rằng chỉ cần năm thứ hai tôi quay lại sau kỳ nghỉ, thì từ năm thứ ba sẽ cho tôi làm phó tổng giám đốc, lương tăng lên 150.000 tệ một năm, còn có xe đưa đón. Tôi đã hạ quyết tâm trước khi ra nước ngoài, nên không hề bị dao động, thường lấy lý do về nhà chăm sóc cha mẹ già, từ chối khéo. Đến lần cuối cùng, tổng giám đốc thở dài nói: Dù sao thì ở đây luôn chào đón cô, lúc nào cô muốn quay về cũng được.

Hai năm sống ở nước ngoài, mỗi ngày trôi qua đều giống nhau. Cuộc sống của tôi luẩn quẩn trong cộng đồng người Trung Quốc, chương trình TV xem hàng ngày đều là CCTV4, lên mạng cũng chỉ chat QQ, xem Weibo, thỉnh thoảng mở mạng Sohu xem tin tức. Chỉ khi trên đường đến công ty, trông thấy trên đường phố toàn người da đen mới như tỉnh khỏi giấc mơ, hóa ra mình vẫn đang ở châu Phi.

Tình trạng như vậy vẫn duy trì cho đến hai tháng trước khi tôi về nước. Vì chênh lệch múi giờ nên tôi thường chat với một bạn học cấp ba qua Skype. Cậu ấy làm công việc biên tập cho một nhóm làm phim, ban ngày nhóm chụp ảnh, buổi tối cậu ấy mới làm việc, vừa khớp với thời gian của tôi. Cậu ấy kể rất nhiều về chuyện khi cùng nhóm làm phim đến chụp ảnh thực địa tại khu vực diễn ra câu chuyện hào hùng về cuộc kháng chiến chống quân Nhật, cậu ấy nghe người dân trong vùng kể về sự thật lịch sử, mới biết rằng những gì mình học đều là do Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bịa đặt ra để tẩy não người dân. Một hôm, cậu ấy gửi cho tôi một bài diễn thuyết, nội dung đề cập đến sự thật về nền kinh tế Trung Quốc. Tôi xem xong cảm thấy kinh ngạc, hóa ra những điều gọi là sự trỗi dậy của cường quốc được tuyên truyền trong nước hoàn toàn là giả. Tôi bắt đầu nảy sinh một suy nghĩ, ĐCSTQ có thể che đậy được cuộc kháng chiến chống quân Nhật và vấn đề kinh tế, vậy thì những sự kiện chính trị trong lịch sử có phải cũng bị nó che đậy chăng, tôi phải điều tra cho kỹ. Anh bạn nói với tôi rằng nếu muốn xem thì phải vượt tường lửa lên Google tra cứu. Tuy nhiên vì tôi ở nước ngoài nên có thể trực tiếp tìm hiểu. Lúc đó tôi lần đầu tiên biết rằng ở trong nước còn bị phong tỏa mạng internet như vậy. Ở châu Phi gần 2 năm, tôi đều dùng Baidu để lên mạng chứ chưa dùng Google bao giờ.

Bạn tôi hướng dẫn tôi lên Google tra một vài từ khóa, quả nhiên một lát là ra ngay. Cuộc Cách mạng Văn hóa, Đại nhảy vọt, nạn đói ba năm, Phong trào sinh viên mùng 4 tháng 6, cuộc đàn áp Pháp Luân Công, v.v.. Khi xem xong bộ phim “Lửa giả” tiết lộ sự thật về vụ tự thiêu ở Thiên An Môn, tôi thực sự không dám tin vào nhận thức của mình nữa, hóa ra bấy nhiêu năm vẫn sống trong những lời lừa dối. Tôi tải bộ phim xuống cho đồng nghiệp xem, họ xem xong đều rất phẫn nộ. Khi tôi đọc được những tin tức về việc hàng triệu học viên Pháp Luân Công bị mổ cướp nội tạng sống, tôi cho rằng không thể tồn tại việc này. Tôi tin rằng họ (các học viên Pháp Luân Công) là bị Giang Trạch Dân bức hại một cách cực đoan, thậm chí tôi tin các hình thức tra tấn mà họ phải chịu, nhưng tôi hoàn toàn không dám tin việc con người có thể làm cái việc mổ cướp nội tạng sống này. Nhưng sau khi tôi tìm hiểu tất cả chứng cứ, phân tích tất cả thông tin, kết quả là việc mổ cướp nội tạng này đều là sự thật.

Mấy ngày trước khi về nước, tôi lo rằng mình lại phải sống trong những lời dối trá, tôi liền tải phần mềm vượt tường lửa vào trong ổ đĩa di động mang về, vậy là về nước tôi vẫn có thể xem được những thông tin chân thực.

Hai năm ở nơi đất khách quê người, đối với một thanh niên chưa tìm được ý nghĩa nhân sinh mà nói, số tiền vài trăm nghìn tệ cũng không thể nào bù đắp nổi sự trống rỗng trong tâm hồn tôi. Sau khi về nước, tôi nhanh chóng đi từ cực đoan này sang cực đoan khác, sống một cuộc sống hưởng thụ, thường xuyên đi sàn nhảy với bạn bè đến lúc say mềm mới về nhà, mong muốn lấp đầy sự trống rỗng về tinh thần. Nhưng cuộc sống như vậy vẫn không khiến tôi cảm thấy vui vẻ, ngược lại tôi bắt đầu nảy sinh ác cảm với những đề tài lặp đi lặp lại trên bàn nhậu. Cho đến một hôm, một người bạn kể cho tôi một câu chuyện xảy ra ở nhà trẻ khiến tôi phải suy nghĩ một cách sâu sắc về nhân sinh.

Một em bé học mẫu giáo 5 tuổi, bố em hàng ngày đều lái xe đạp điện đến đón em. Đột nhiên một buổi sáng em nhỏ này nói rằng sẽ không đến nhà trẻ với bố nữa, bố mẹ hỏi nguyên nhân mới biết rằng hôm trước có hai bạn cười nhạo nói nhà em không có tiền chỉ có thể đi xe đạp điện, còn bố mẹ chúng hàng ngày đi xe ô tô đến đón họ. Vì bố mẹ em đều là tầng lớp công nhân, bố em không còn cách nào đành phải vay tiền mua một cái ô tô, đứa trẻ này mới chịu đi nhà trẻ.

Cuộc sống theo trào lưu vật chất, đạo đức suy thoái của người dân Trung Quốc Đại lục so với cuộc sống ung dung tự tại, so với cuộc sống giản dị thuần phác của người nước ngoài khiến tôi đặt ra hết câu hỏi này đến câu hỏi khác: Những người sống ở khu vực nghèo khổ như châu Phi, Tây Tạng, chất lượng cuộc sống kém như vậy, tại sao hàng ngày họ lại rất vui vẻ? Lẽ nào cuộc đời con người lại chỉ sống vì tiền và danh lợi sao? Nếu xã hội còn phát triển tiếp như vậy, nhân loại tương lai sẽ ra sao?

Cuối cùng tôi phát hiện ra căn nguyên của hết thảy những vấn đề này, chính là người Trung Quốc Đại lục thiếu đi tín ngưỡng. Sau năm 1949, các cuộc vận động hết lần này đến lần khác của ĐCSTQ đã tiêu hủy đi tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Trung Hoa, lại cố ý nhồi nhét thuyết vô thần và duy vật vào trường học và xã hội. Sau thập niên 90, lại không ngừng bồi đắp tư tưởng sùng bái đồng tiền. Dưới sự dẫn dắt sai lệch của loại quan niệm này, con người tất nhiên chỉ có thể sống như vậy. Điều này thể hiện sự đối lập rõ rệt với lối sống của con người ở Đài Loan, nơi mà văn hóa truyền thống luôn được bảo tồn.

Tôi hiểu rằng cần phải thoát khỏi sự trói buộc này, phải tìm lại “tín ngưỡng” đã bị đánh mất, nhưng biết đi đâu để tìm đây? Tôi nhớ lại người phụ nữ có công năng mà tôi tình cờ gặp trên núi Ngũ Đài Sơn năm xưa. Rốt cuộc là nhà khoa học hay người tu đạo có thể giải khai được những nghi hoặc của tôi? Vào đầu năm 2012, tôi đọc được rất nhiều kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học phương Tây về “khoa học tâm linh”. Sự phiến diện của thuyết tiến hóa, sự thực về linh hồn và sự chuyển sinh luân hồi, bí mật về thể tùng quả, hiện tượng siêu thường về khí công v.v., họ đều dùng khoa học thực nghiệm để chứng minh những điều này. Một người trong nhiều năm đi học đã tiếp thu nền giáo dục sùng bái khoa học, bài trừ mê tín như tôi, trong chốc lát đã được những nghiên cứu khoa học tiên tiến này giải khai những hạn cuộc trong tư duy. Hóa ra những điều chúng ta học ở trường mới đúng là mê tín, chỉ phù hợp với cái gọi là khoa học trong phạm trù lý luận của ĐCSTQ; hóa ra những điều mà tôn giáo nói đều là sự thật, tôi vẫn không hiểu vấn đề về tín ngưỡng, hóa ra chính là tu luyện, tu luyện thực sự có tồn tại. Nhưng tôi nên tu luyện như thế nào? Ở đâu có sư phụ chỉ dạy? Phật giáo hiện nay không được nữa rồi, bản thân tôi đã đến núi Ngũ Đài Sơn tìm hiểu rồi, quá loạn bậy rồi; Tôi cùng từng đọc qua các sách của Đạo gia, đều là văn cổ, không có người dạy thì xem cũng không hiểu; tôi cũng đã đọc “Kinh thánh”, cảm thấy đó là để cho người da trắng tu, không phù hợp với mình. Còn khí công, khí công có thể tu luyện. Tôi nghĩ đến thời tôi còn nhỏ, bà tôi đã từng luyện một loại khí công, tôi liền bảo bà tìm lại tài liệu cho tôi, muốn xem trong đó viết gì. Xem xong tôi cảm thấy đây không phải thứ mình muốn tìm.

Lúc đó tôi làm kinh doanh với một người bạn ở Đài Loan, tôi nhờ cậu ấy giới thiệu một môn khí công ở Đài Loan. Cậu ấy gửi cho tôi trang web của môn khí công mà cậu ấy luyện và một số môn khí công khác, tôi xem xong vẫn không thấy thỏa mãn, bảo cậu ấy tiếp tục tìm cho tôi. Một hôm cậu ấy gửi cho tôi một đường dẫn trang web, còn nói rằng tôi thế này cũng không được, thế kia cũng không xong, thôi hãy xem môn này đi, ở bên Đài Loan có rất nhiều người luyện môn khí công này. Tôi xem thì chính là Pháp Luân Công.

Hàng ngày tôi đều lên mạng Dongtaiwang, đường dẫn trang web của Pháp Luân Công luôn ở giữa trang chủ, nhưng tôi chưa từng nhấn vào xem bao giờ, giống như có điều gì đó ngăn cản tôi, hôm nay tôi lại được bạn gửi cho xem. Lúc đầu tôi còn phân vân có nên xem không, nhưng lập tức nghĩ lại rằng suy nghĩ đó không đúng, ở Đài Loan có nhiều người luyện đến thế, ở châu Âu cũng có nhiều người luyện đến thế, trong đó có rất nhiều người còn là giáo sư, nhà khoa học; trong nước đàn áp nghiêm trọng đến vậy, bắt bớ, tra tấn, thậm chí mổ cướp nội tạng sống, vậy mà ngược lại người ta vẫn luyện, công pháp này chắc chắn là không đơn giản. Mình nhất định phải xem.

Tôi mở cuốn sách Chuyển Pháp Luân trên mạng. (https://gb.falundafa.org/falun-dafa-books.html) Do trong nước phong tỏa mạng nên tôi phải dùng phần mềm vượt tường lửa mới xem được. Mở ra trước mặt tôi là mười mấy đầu sách, hóa ra Pháp Luân Công có nhiều sách như vậy, tôi không biết xem từ đâu. Trong lúc còn đang do dự thì cuốn sách có tựa đề “Pháp Luân Đại Pháp, giảng Pháp tại Pháp hội Mỹ quốc” đập vào mắt tôi. Tôi nghĩ trong tâm, mình đã xem rất nhiều khí công sư giảng rồi mà chưa có ai có thể giảng rõ được tu luyện là thế nào, Sư phụ của Pháp Luân Công còn giảng Pháp tại Mỹ quốc, bên dưới hẳn có rất nhiều người trí thức cao đang nghe, vậy nên tôi liền mở ra xem xem có thứ mình tìm kiếm hay không.

Trong quá trình đọc sách, toàn thân tôi như có dòng điện, những nghi hoặc trong cuộc đời của tôi đều không ngừng được giải khai, tôi vô cùng hưng phấn và kinh ngạc. Nền văn minh của con người từ cổ chí kim; vấn đề liên quan đến sinh mệnh ngoài hành tinh; các hình thức tồn tại của không gian khác; sự bác đại tinh thâm của tu luyện; Đại Pháp của vũ trụ có thể giúp con người từ trong thế giới trần tục tu luyện thành chính quả v.v., đây chẳng phải là điều tôi đang tìm kiếm hay sao? Tất cả đều được Sư phụ của Pháp Luân Công giảng giải bằng ngôn ngữ rõ ràng.

Tôi đọc một mạch hết loạt bài “Giảng Pháp tại Pháp hội Mỹ quốc”, lúc đó đã ba giờ sáng nhưng tôi không cảm thấy buồn ngủ chút nào, đầu não thực sự thanh tỉnh, cuối cùng tôi đã tìm ra Sư phụ có thể chỉ dạy tôi tu luyện, tôi phải tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Tôi xúc động quỳ xuống giường, mặt đẫm nước mắt, hai tay hợp thập, trong tâm nói với Sư phụ: “Xin Sư phụ nhất định hãy nhận con, cho dù con phải chịu bao nhiêu khổ cực, cả đời này con nhất định sẽ theo Ngài tu luyện thành Phật.“

Khi đọc đến đoạn Sư phụ giảng trong “Chuyển Pháp Luân”:

“Con người phải phản bổn quy chân, đó mới là mục đích chân chính để làm người; do vậy một cá nhân hễ muốn tu luyện, thì được [xác] nhận là Phật tính đã xuất hiện. Niệm ấy trân quý nhất, vì vị ấy muốn phản bổn quy chân, muốn từ tầng của người thường mà nhảy ra.”

“Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới.”

“Chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn để nhận định tốt và xấu trong vũ trụ. Thế nào là tốt, thế nào là xấu? Chính là dùng Nó {Chân Thiện Nhẫn} mà xác định.”

“Có một số người dùng chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc kia mà tự đo lường bản thân mình, cho rằng mình tốt hơn người khác, vì tiêu chuẩn để đánh giá đã thay đổi rồi.”

“Là người tu luyện, [nếu] đồng hoá với đặc tính này, [thì] chư vị chính là người đắc Đạo; [Pháp] lý đơn giản như vậy.”

Tôi vô cùng xúc động, đây chẳng phải là Pháp mà tôi còn lưu lại trong trí nhớ hồi còn nhỏ sao? Chân Thiện Nhẫn, đây mới là chính Pháp, cuối cùng tôi đã tìm ra rồi. Quả đúng như Sư phụ nói, bao nhiêu năm nay tôi vẫn cảm thấy mình luôn giữ được sự thiện lương, mình còn tốt hơn các bạn đồng niên, nhưng so với tiêu chuẩn Chân Thiện Nhẫn thì còn kém xa. Tôi nhất định phải làm một người tu luyện chân chính. Sau khi đắc Pháp, tôi bắt đầu nghe theo lời Sư phụ dạy, mọi lúc mọi nơi đều lấy tiêu chuẩn Chân Thiện Nhẫn làm chỉ đạo. Nói lời chân, làm điều chân, đối xử lương thiện với người khác, gặp việc gì cũng không tranh chấp với người khác, không thoái thác trách nhiệm, mỗi khi gặp vấn đề hoặc nảy sinh mâu thuẫn với người khác, tôi đều chủ động hướng nội tìm vấn đề của bản thân.

Trong công việc tôi làm việc tận tụy, đối xử thẳng thắn, chân thành với người khác, không tranh hơn thua với mọi người. Sau khi tu luyện, hai ông chủ nợ tiền lương của tôi đến mấy trăm nghìn tệ, nhưng tôi chỉ lo cho họ đang gặp khó khăn trong việc kinh doanh, tôi chưa từng để tâm đến được mất và lợi ích của cá nhân. Đồng nghiệp cảm động nói rằng: “Tôi phát hiện ra những câu nói kiểu như ‘không nên có ý hại người khác nhưng nên có tâm phòng bị người khác’ không còn phù hợp với cô nữa. Nếu mọi người đều tu luyện Pháp Luân Công thì xã hội này sẽ tốt hơn.”

Trong gia đình, tôi chăm sóc người nhà, cân bằng tốt các mối quan hệ, kính trên nhường dưới. Vừa đắc Pháp tu luyện được mấy tháng, ông tôi lâm bệnh nằm liệt giường. Để bố và các bác trong nhà không phải vừa bận rộn công việc vừa mệt mỏi chăm sóc ông, là người tu luyện tôi đã chủ động đảm nhận trách nhiệm chăm sóc ông nội. Cả ngày tôi bón cho ông nội ăn, giúp ông vận động thân thể, ông không thể tự đi đại tiểu tiện được, tôi liền giúp ông, buổi tối ngủ cạnh ông còn phải thường xuyên lật người cho ông để ông không bị hoại tử.

Sau khi mắc bệnh, ông tôi như trở thành một người khác, thường xuyên không giữ được bình tĩnh, có lúc nổi nóng rất ghê. Lúc đầu dù là tôi cố gắng tận tâm chăm sóc ông cỡ nào, ông vẫn luôn oán hận, chửi mắng và không vừa ý. Tôi bón cơm cho ông ăn ông cũng không chịu ăn, có lúc tinh thần mất bình tĩnh còn phun cả cơm vào người tôi. Nhưng tôi không một chút tức giận, tôi coi những điều này đều là quan mà mình cần vượt qua trong tu luyện, tôi vẫn vui vẻ tiếp tục bón cơm cho ông ăn. Một lần tôi đọc cuốn “Chuyển Pháp Luân” cho ông nghe, ông lại nói: “Đi đi, mang sách của cháu ra chỗ khác đi.” Tôi nghĩ có lẽ ông lúc đó tinh thần không tốt lắm, nên không đọc nữa, cất sách đi và bình tĩnh chăm sóc ông. Ngày hôm sau ông gọi tôi lại nói: “Hôm qua ông sai rồi, không nên nói như vậy, ông xin lỗi Sư phụ.” Ông đưa tay trái lập chưởng trước ngực, khuôn mặt tỏ ý thành khẩn. Tôi rất ngạc nhiên trước ngộ tính của ông, tôi nói: “Ông ơi, Sư phụ từ bi đến để độ nhân, Ngài vô cùng trân quý mỗi từng sinh mệnh, Ngài sẽ không giận ông đâu.”

Sau 10 tháng nằm liệt giường, ông nội tôi lặng lẽ qua đời. Người nhà đều nói sau khi ông nội qua đời không báo mộng cho ai trong nhà cả, nhưng một buổi tối vào ngày ông mất được một năm, tôi nằm mơ rõ ràng thấy ông đến bên cạnh tôi. Dáng vẻ ông trở nên trẻ trung, mắt đeo kính. Ông gọi tôi từ phòng khách vào trong buồng và nói riêng với tôi: “Cảm ơn con đã cho ông biết rằng Pháp Luân Đại Pháp là tốt, ông sắp được đi đến một nơi vô cùng tốt đẹp, con nhất định cũng phải nói cho bà con biết rằng Pháp Luân Đại Pháp là tốt đấy.” Buổi sáng hôm sau tôi kể chuyện nằm mơ thấy ông cho bà nội nghe, bà nói bà cũng mơ thấy ông, không những vậy dáng vẻ của ông không khác gì so với hình ảnh tôi mô tả, nhưng ông không nói gì với bà, chỉ đứng cách bà mấy bước, vừa cười vừa vẫy tay rồi biến mất.

Pháp Luân Đại Pháp giúp cuộc đời của tôi trở nên có ý nghĩa, tôi không còn cảm thấy trống trải hay cô đơn nữa, tâm hồn tôi thuần khiết, thân thể nhẹ nhõm, cuộc sống mỗi ngày trôi qua đều thú vị. Sau khi tu luyện tôi đã dễ dàng cai bỏ rượu và thuốc lá. Căn bệnh thoái hóa đốt sống cổ do nhiều năm nghiện chơi trò chơi điện tử khiến tôi không thể xoay được cổ, hễ xoay là kêu răng rắc và rất đau đớn, nhưng vừa luyện công được mấy ngày đã khỏi. Từ nhỏ tôi đã bị bệnh tim, cứ thức khuya một chút là cảm thấy tim đập thình thịch, mấy lần đi bệnh viện khám, bác sỹ chỉ biết bảo tôi về nhà theo dõi chứ chưa bao giờ tìm ra nguyên nhân và chữa khỏi bệnh, sau khi tu luyện, bệnh của tôi cũng khỏi hoàn toàn, không thấy bị lại nữa.

2017-5-4-youtanpoluohua_01--ss.jpg

Trong kinh Phật nói, hoa ưu đàm ba nghìn năm mới nở một lần, khi hoa ưu đàm khai nở chính là lúc đức Chuyển Luân Thánh Vương – vị Phật tương lai hạ thế truyền Pháp độ nhân. Năm 2014, hoa ưu đàm đã nở trên một trái dưa chuột ở nhà tôi, tôi gọt vỏ quả dưa chuột này ra đem cất đi, không có nước, không có chất dinh dưỡng, vỏ quả dưa đã khô lại như một mảnh gỗ, vậy mà đóa hoa ưu đàm trên đó vẫn âm thầm nở suốt ba năm.

Sau khi tu luyện, tôi dần dần ngộ được rằng không gian của thiên thượng và nhân gian không giống nhau, thời gian cũng không giống nhau. Thời đầu khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng cho các đệ tử là thời kỳ thiên thượng. Năm tỷ sáu trăm bảy mươi triệu năm sau Phật Di Lặc hạ thế truyền Phật Pháp, chính là hai nghìn năm trăm năm sau Pháp Luân Đại Pháp truyền ra ở nhân gian. Phật gia giảng duyên phận, sau năm tỷ sáu trăm bảy mươi triệu năm chờ đợi, cuối cùng tôi đã kết duyên Phật Pháp, đời này tôi không hề hối hận.

Lời kết

Ngày 1 tháng 5 năm 2015, sau khi Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc ra thông cáo sẽ thụ lý tất cả các đơn khiếu nại dân sự và hình sự, tôi nghĩ là một phụ nữ Trung Hoa, khi dân tộc gặp nguy nan thì nên dũng cảm đảm nhận trách nhiệm mà lịch sử giao phó, là một người tu luyện Đại Pháp, nên thản đãng mà đứng về những điều chính nghĩa. Vào tháng 6 tôi đã dùng tên thật của mình gửi đơn kiện nguyên tổng bí thư Giang Trạch Dân đến hai cơ quan tối cao, đề nghị truy cứu Giang Trạch Dân vì tội bức hại Pháp Luân Công, và đã nhận được thư xác nhận thụ lý đơn kiện.

Quay đầu nhìn lại, nếu như năm 1999 Giang Trạch Dân không phát động cuộc bức hại đối với hơn một trăm triệu người tu luyện Pháp Luân Công trong nước thì 10 năm sau, khi tôi học đại học, cô giáo tôi sẽ không dùng giọng điệu xem thường mà giảng về lời dự ngôn “Năm tỷ sáu trăm bảy mươi triệu năm” của Phật Thích Ca Mâu Ni, có lẽ là rất nhiều sinh viên ngồi nghe giảng bên dưới năm đó sẽ bước vào tu luyện Đại Pháp, ít nhất thì có tôi. Sư phụ viết trong “Hồng Ngâm III”:

Ngã thị thuỳ

Thiên địa mang mang ngã thị thuỳ
Ký bất thanh đa thiểu thứ luân hồi
Khổ nạn trung vô trợ đích mê mang
Kỳ phán đích tâm như thử đích luỵ
Hắc dạ trung lưu xuất đích thị thương tang đích lệ
Trực đáo ngã khán kiến chân tướng đích na nhất khắc
Trực đáo ngã truy tầm đáo Đại Pháp quán nhĩ như lôi
Ngã minh bạch liễu tự kỷ thị thuỳ
Ngã tri đạo liễu tại Thần đích lộ thượng phấn khởi trực truy

Diễn nghĩa:

Ta là ai

Trời đất mênh mông ta là ai
Nhớ không rõ luân hồi đã bao lần
Trong khổ nạn mà mê mang tuyệt vọng
Cái tâm mòn mỏi vì thế mà rã rời
Trong đêm tối nhỏ lệ tang thương
Cho đến thời khắc ta thấy được chân tướng
Cho đến khi tìm được Đại Pháp như sấm bên tai
Ta minh bạch rằng ta là ai
Ta biết được rằng cần phấn khởi thẳng tiến trên con đường [thành] Thần

Cuộc đời con người trôi qua trong chớp mắt, khi đến với hai bàn tay trắng và ra đi cũng với hai bàn tay trắng, điều gì thực sự có thế lưu lại và mang theo? Năm 24 tuổi, tôi đã đột phá qua trùng trùng quan niệm hậu thiên để tìm được chân ngã, vào thời mạt kiếp cuối cùng của nhân loại cuối cùng đã đắc được Chân Pháp. Còn bạn lẽ nào vẫn chưa tỉnh ngộ sao?


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2017/5/14/346775.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2017/5/26/164007.html

Đăng ngày 14-7-2017; Bản dịch có thể được hiệu chỉnh trong tương lai để sát hơn với nguyên bản

Share